• Tidak ada hasil yang ditemukan

2.CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 11. Quàng Văn Hoan

N/A
N/A
thuthuong Hà

Academic year: 2024

Membagikan "2.CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 11. Quàng Văn Hoan"

Copied!
17
0
0

Teks penuh

(1)

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÀI TIỂU LUẬN

TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Họ và tên: Quàng Văn Hoan Ngày sinh: 12/3/1988

Nơi sinh: Điện Biên

Đơn vị công tác: Phòng khám đa khoa Hoàng Việt

Năm 2023

(2)

CÂU HỎI

1: Anh/Chị hãy trình bày tình cảm cấp cao của con người và cho biết cách giáo dục các loại tình cảm ấy?

2: Từ các khía cạnh biểu hiện của phẩm chất ý chí, Anh/Chị hãy cho biết sinh viên hiện nay có những ưu điểm và hạn chế nào về ý chí?

(3)

TRẢ LỜI

1: Anh/Chị hãy trình bày tình cảm cấp cao của con người và cho biết cách giáo dục các loại tình cảm ấy?

Theo cách hiểu này, xúc cảm, tình cảm được nhấn mạnh là sự phản ánh tâm lý có nguồn gốc từ thế giới bên ngoài chứ không phải là những rung động chủ quan, khép kín.

Các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan là nguồn gốc của xúc cảm, tình cảm. Khi các sự vật hiện tượng đáp ứng hay không đáp ứng nhu cầu của con người sẽ dẫn đến những trạng thái cảm xúc khác nhau. Khi nhu cầu được thỏa mãn sẽ xuất hiện xúc cảm tích cực, trái lại, khi nhu cầu không được thỏa mãn sẽ dẫn đến những xúc cảm tiêu cực. Bởi vậy, xúc cảm, tình cảm còn được coi là tiếng nói bên trong, là hệ thống tín hiệu giúp chủ thể nhận biết được những ý nghĩa của một sự vật hiện tượng nào đó đối với nhu cầu của bản thân. Nhờ đó xúc cảm, tình cảm thúc đẩy và định hướng hoạt động.

Tổng hợp các quan điểm trên, chúng ta có thể định nghĩa về xúc cảm - tình cảm như sau:

Xúc cảm là những rung động tương đối đơn giản, ngắn ngủi, có tính chất trực tiếp, tính chất tình huống và nó gắn liền với sự tri giác đối tượng.

Tình cảm là những thái độ cảm xúc ổn định của con người đối với những sự vật, hiện tượng của hiện thực, phán ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên hệ với nhu cầu và động cơ của họ. Tình cảm là sản phẩm cao cấp của sự phát triển các quá trình cảm xúc trong các điều kiện xã hội.

Theo định nghĩa này, tình cảm cũng là một dạng phản ánh – phản ánh cảm xúc - nhưng có những đặc trưng so với phản ánh nhận thức. Cả hai loại phản ánh này đều là những hiện tượng tâm lý phản ánh hiện thực khách quan, mang tính chủ thể và có bản chất xã hội – lịch sử. Tuy nhiên, phản ánh nhận thức và phản ánh cảm xúc có những điểm khác nhau căn bản.

Tình cảm cấp cao của con người gồm có tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mĩ và tình cảm hoạt động. Những loại tình cảm này phản ánh thái độ của con người đối với những khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội và tạo nên nhân cách, giá trị và hành động của họ.

(4)

Tình cảm cấp cao của con người nảy sinh từ sự thỏa mãn hoặc không thỏa mãn các nhu cầu xã hội và phản ánh thái độ của họ đối với đời sống xã hội. Tình cảm cao cấp bao gồm:

Tình cảm đạo đức: Đây là tình cảm liên quan đến việc đáp ứng hoặc không đáp ứng nhu cầu đạo đức của con người trong xã hội. Nó phản ánh thái độ của con người đối với các giá trị đạo đức trong quan hệ với người khác, cộng đồng và xã hội nói chung. Ví dụ, tình bạn, tình đồng chí, tình yêu tổ quốc đều là các biểu hiện của tình cảm đạo đức tích cực. Ngược lại, thiếu tình cảm đạo đức có thể dẫn đến tính tàn ác và gây tác hại cho xã hội.

Tình cảm trí tuệ: Đây là thái độ rung cảm của con người đối với việc hiểu biết và nhận thức về các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Con người có tình cảm trí tuệ thường thể hiện sự ham muốn hiểu biết, khám phá và có tư duy mở rộng. Họ đánh giá cao việc tìm hiểu thế giới xung quanh và muốn đóng góp vào việc cải thiện nó.

Tình cảm thẩm mỹ: Đây là loại tình cảm mà người ta cảm nhận khi tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng liên quan đến sự thỏa mãn hoặc không thỏa mãn các nhu cầu về cái đẹp. Tình cảm thẩm mỹ được đánh giá bằng cách sử dụng thị hiếu thẩm mỹ và trạng thái khoái cảm nghệ thuật. Mức độ cao của tình cảm thẩm mỹ là khi con người không chỉ cảm nhận vẻ đẹp bên ngoài mà còn cảm nhận được sâu sắc vẻ đẹp trong nội dung đời sống và tác phẩm nghệ thuật, làm cho cuộc sống trở nên ý nghĩa và đáng nhớ.

Tình cảm hoạt động: Đây là loại tình cảm phát sinh từ các hoạt động mà con người tham gia, từ những thay đổi, thành công, thất bại và khó khăn mà họ trải qua trong cuộc sống. Tình cảm hoạt động thường thể hiện tình yêu lao động, sự tôn trọng người lao động và các giá trị mà họ tạo ra. Mức độ cao của tình cảm hoạt động là sự say mê, sáng tạo và sẵn lòng cống hiến trong công việc và hoạt động của mình.

Những loại tình cảm này tác động lẫn nhau và cùng đóng góp vào hình thành cái nhìn tổng thể về thế giới và xã hội của con người. Chúng ảnh hưởng đến hành động và quyết định trong cuộc sống, đồng thời tạo nên nhân cách và giá trị của mỗi người.

Là một giảng viên, để giáo dục và phát triển những loại tình cảm cấp cao này ở học sinh hay sinh viên, có thể thực hiện như sau:

Tình cảm đạo đức:

(5)

Xây dựng môi trường học tập và làm việc có tính đạo đức cao, khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội có ích.

Dạy dỗ học sinh về giá trị đạo đức, đức hạnh, lòng tự trọng và tôn trọng đối với người khác.

Thực hành và gương mẫu bằng cách tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh, đồng nghiệp và nhân viên trong trường học.

Ví dụ: Trong một trường học, giáo viên thúc đẩy học sinh tham gia vào nhóm tình nguyện và hoạt động cộng đồng, như dọn vệ sinh môi trường, thăm viếng những người già neo đơn, hay tổ chức những buổi gây quỹ từ thiện. Điều này giúp học sinh hiểu và đáp ứng nhu cầu xã hội, hình thành lòng tự trọng, tôn trọng đối với người khác và góp phần tích cực vào xã hội.

Tình cảm trí tuệ:

Khuyến khích học sinh tò mò và ham muốn khám phá, khuyến khích việc đặt câu hỏi và suy luận logic.

Tạo điều kiện học tập đa dạng và phong phú, đồng thời thúc đẩy việc học ngoại ngữ và tìm hiểu văn hóa đa dạng.

Truyền đạt tầm quan trọng của việc duy trì tư duy mở và không ngừng học hỏi.

Ví dụ: Giáo viên khích lệ học sinh hỏi câu hỏi, tham gia vào các cuộc thảo luận và tìm hiểu về các vấn đề khoa học, lịch sử và văn hóa. Họ cung cấp tài liệu học tập đa dạng và đồng thời tạo điều kiện để học sinh khám phá và tìm hiểu thêm về các nền văn hóa, ngôn ngữ và phong tục truyền thống khác nhau. Điều này khuyến khích học sinh có tinh thần tò mò, óc hoài nghi khoa học và tư duy mở rộng.

Tình cảm thẩm mĩ:

Khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động nghệ thuật, văn hóa và sân khấu để hiểu và trải nghiệm cái đẹp trong nghệ thuật.

Xây dựng chương trình giáo dục về nghệ thuật và văn hóa để học sinh có cơ hội tiếp cận và đánh giá các tác phẩm nghệ thuật khác nhau.

Khám phá và tôn trọng sự đa dạng văn hóa, thể hiện sự đồng cảm và cảm thông với cái đẹp trong từng nền văn hóa khác nhau.

Ví dụ: Trong lĩnh vực nghệ thuật, giáo viên tổ chức các buổi triển lãm nghệ thuật trong trường, để học sinh có cơ hội tiếp xúc với những tác phẩm nghệ sĩ và tạo nên sự

(6)

rung cảm với cái đẹp trong nghệ thuật. Họ cũng khuyến khích học sinh thể hiện sự sáng tạo và sự cảm thông với các vấn đề xã hội thông qua việc sáng tạo tranh vẽ, bài viết hoặc phim ngắn.

Tình cảm hoạt động:

Tạo ra môi trường học tập năng động, động lực và sáng tạo để khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động và dự án.

Đánh giá và đánh giá công bằng thành tựu và nỗ lực của học sinh, đồng thời đề cao ý nghĩa của việc cống hiến và nỗ lực.

Hỗ trợ và tôn trọng những lĩnh vực mà học sinh có đam mê và tài năng, giúp họ phát triển tốt nhất khả năng của mình.

Ví dụ: Giáo viên đánh giá và khen ngợi những thành tựu và nỗ lực của học sinh trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như học tập, thể thao, nghệ thuật hoặc các hoạt động đoàn thể. Họ tạo ra môi trường thúc đẩy tích cực, khuyến khích học sinh tham gia vào các câu lạc bộ, đội nhóm và dự án ngoại khóa. Điều này giúp học sinh phát triển tình yêu lao động, cống hiến và tôn trọng người lao động.

Qua việc áp dụng các phương pháp giáo dục này, giảng viên có thể giúp học sinh hoặc sinh viên phát triển tình cảm cấp cao, đồng thời xây dựng một cộng đồng học tập và làm việc tích cực, có ý thức về đạo đức và đóng góp tích cực cho xã hội. Giáo viên có thể giáo dục và phát triển tình cảm cấp cao của học sinh bằng cách tạo môi trường học tập tích cực, đa dạng và đồng thời khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội và nghệ thuật. Điều này giúp họ hiểu và đáp ứng nhu cầu xã hội, phát triển tư duy mở và sáng tạo, cũng như tôn trọng người khác và tạo ra ý nghĩa tích cực cho cuộc sống và xã hội.

2: Từ các khía cạnh biểu hiện của phẩm chất ý chí, Anh/Chị hãy cho biết sinh viên hiện nay có những ưu điểm và hạn chế nào về ý chí?

Trong tiến trình phát triển của loài người cho thấy ban đầu con người sống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Tuy nhiên, con người một mặt vẫn sống nhờ vào tự nhiên, mặt khác đã tiền hành cải tạo, biến đổi thế giới xung quanh để phục vụ cuộc sống cho mình. Về mặt văn hóa, con người đã nỗ lực xây dựng và phát triển phong phú, sâu sắc nền văn hóa nhân loại. Con người đã thực sự làm thay đổi bản thân, tự nhiên và xã hội.

Trong quá trình tác động vào hiện thực khách quan, con người thường gặp các khó khăn

(7)

do cả từ phía chủ quan lẫn khách quan. Con người muốn đạt được những mục đích đề ra cần phải có nỗ lực ý chí để khắc phục những khó khăn đó, để buộc thiên nhiên phải phục vụ con người cũng như tạo ra một nền văn hóa của riêng loài người. Hoạt động của con người luôn có ý thức, có ý chí trên cơ sở nhận thức về mục đích và phương tiện cần thiết để đạt được mục đích đó.

Đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu về ý chí và đã xây dựng nên những lý thuyết để giải thích về ý chí của con người. Các lý thuyết cần phải kể đến như:

Thuyết Duy lý mà đại diện là các nhà duy tâm chủ quan như Mach Ernst (Áo, 1838 - 1916), Cant Manuyen (Đức, 1724 - 1800), Beccli Giooc (Anh, 1684 - 1753) đã cho rằng ý chí là một loại hiện tượng tinh thần không có liên quan gì đến hoạt động của não.

Các nhà duy tâm khách quan đại điện là Claude Adrien Helvetius (1715-1771), A.Henvetiúyclêdơ (1715 - 1771) cho rằng ý chí không có bản ngã mà chỉ là sự phản ánh thế giới mà thôi và không chịu chế ước của bất kì trường hợp nào. Như vậy, con người phụ thuộc và chịu sự điều chỉnh của hiện thực khách quan. Con người không có bản ngã, không có ý thức mà ý thức của con người do hiện thực khách quan quyết định.

Lý thuyết Cảm xúc mà đại diện là nhà tâm lý học người Mĩ Carroll Elzard cho rằng các cảm xúc tạo nên hệ thống động cơ chính của con người và ý chí là khát vọng chiến thắng một khát vọng khác. Con người luôn có những khát vọng khác nhau và ý chí là sự quyết định, chiến thắng của khát vọng mạnh nhất. Như vậy, thuyết cảm xúc cho rằng nguyên nhân gây ra hành động ý chí, làm cho con người có ý chí là cảm xúc, cơ sở của ý chí là khát vọng được kéo dài sự thỏa mãn và tránh sự đau khổ. Chúng ta có thể giáo dục ý chí cho con người thông qua giáo dục cảm xúc.

Thuyết Xã hội mà đại diện là Blonche (người Pháp) cho rằng con người có ý chí khi phụng sự một lý tưởng cao cả. Ý chí chỉ thực hiện những mệnh lệnh của tập thể, mệnh lệnh xã hội. Như vậy, xã hội là cơ sở của ý chí, con người sống trong một xã hội có những lý tưởng cao đẹp thì sẽ xuất hiện ý chí nhiều hơn và ngược lại trong xã hội không có những lý tưởng cao đẹp thì sẽ xuất hiện ý chí ít hơn. Theo thuyết này thì ý chí của con người phụ thuộc vào môi trường và con người hoạt động một cách thụ động và máy móc.

Quan niệm của các nhà tâm lý học duy vật biện chứng cho rằng ý chí của con người cũng như tất cả các chức năng tâm lý khác đều xuất hiện và phát triển trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người thông qua các quan hệ trong lao động sản xuất và trong

(8)

các quan hệ xã hội. Cơ sở xuất hiện ý chí của con người là sự hiểu biết về mục đích và phương thức để đạt đến mục đích đó như thế nào.

Các lý thuyết trên đã đưa ra những nhận định về ý chí của con người ở các góc độ khác nhau. Họ đã tiến hành phân tích các nguyên nhân kích thích ý chí của con người trong bản thân quá trình ý chí và đưa ra những yếu tố quan trọng nhất tác động đến ý chí của con người với mong muốn tác động vào những yếu tố đó để hình thành ý chí cho con người.

Định nghĩa ý chí

Ý chí của con người được thể hiện trong một hành động nhất định. Hành động này phải mang tính mục đích và kết quả của hành động có ý nghĩa với cả cá nhân và xã hội.

Do đó, ý chí là mặt năng động của ý thức, giúp con người điều khiển và điều chỉnh những hoạt động của cá nhân, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại nhằm đạt được mục đích đề ra .

Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của ý thức trong thực tiễn, ở đó con người tự giác thực hiện mục đích của hành động, đấu tranh động cơ, lựa chọn các biện pháp vượt qua mọi trở ngại, khó khăn để thực hiện đến cùng mục đích đặt ra.

Ý chí bao gồm cả mặt năng động của trí tuệ, khẳng định năng lực trí tuệ của mỗi con người và khả năng thực hiện được hành động ý chí.

Ý chí thể hiện mặt năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức điều khiển, điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con người.

Giá trị chân chính của ý chí không phải chỉ ở cường độ ý chí mạnh hay yếu mà chủ yếu là nội dung đạo đức có ý nghĩa của mục đích mà ý chí nỗ lực vươn tới.

Các phẩm chất ý chí của nhân cách

Trong quá trình thực hiện hành động để đạt đến mục đích đặt ra thì con người sẽ hình thành cho mình những phẩm chất ý chí để thực hiện hành động đó, nó có ý nghĩa rất lớn cho đời sống và lao động của cá nhân. Ý chí được thể hiện qua các mặt sau:

Tính mục đích: Mỗi con người có ý chí cần biết xác định mục đích cho hoạt động của mình và cuộc sống của mình một cách tự giác. Tính mục đích giúp con người điều chỉnh hành vi trong quá trình hoạt động. Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế giới quan và nhân sinh quan, nội dung đạo đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí.

(9)

Tính độc lập: Con người có tính độc lập nghĩa là người đó có năng lực quyết định và thực hiện hành động dự kiến theo quan điểm và niềm tin của chính mình, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài. Con người biết lắng nghe ý kiến, chấp nhận lời khuyên của người khác khi những lời khuyên đó là đúng đắn và có sự sàng lọc theo niềm tin của cá nhân. Tính độc lập không phải là sự bảo thủ, cố chấp, phủ nhận tất cả ý kiến của người khác.

Tính quyết đoán: là khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát không những dao động không cần thiết dựa trên cơ sở tính toán, cân nhắc kĩ càng. Khi đưa ra quyết định, con người tin tưởng sâu sắc về các quyết định của mình là đúng đắn và tiến hành thực hiện các quyết định đó. Tuy nhiên, người có tính quyết đoán là những người biết lắng nghe người khác, có kiến thức, tự tin chứ không phải là những người hành động theo cảm tính, thiếu suy nghĩ, thiếu chín chắn.

Tính kiên cường: Tính kiên cường của ý chí nói lên cường độ ý chí cho phép con người có những quyết định đúng đắn, kịp thời trong những hoàn cảnh khó khăn và kiên trì thực hiện đến cùng mục đích đã xác định.

Tính bền bỉ: Thể hiện ở sự khắc phục khó khăn, trở ngại khách quan và chủ quan để đạt được mục đích đề ra. Người có tính bền bỉ luôn là người nỗ lực cố gắng, lạc quan cho dù gặp những khó khăn trở ngại trong cuộc sống. Bền bỉ không có nghĩa là lì lợm, bướng bỉnh, theo đuổi mục đích mù quáng. Tính bền bỉ là một phẩm chất ý chí rất cần thiết trong giáo dục vì sự nghiệp trồng người không phải là một việc làm đơn giản, dễ dàng.

Tính tự chủ: Là khả năng làm chủ hành vi của bản thân mình, kìm hãm những xúc cảm, hoạt động không cần thiết. Người tự chủ thắng được những thúc đẩy không mong muốn, những tác động có tính xung động, những xúc động ở trong mình, biết tự phê phán mình tránh đi những hành vi không suy nghĩ. Tính tự chủ rất cần thiết với người giáo viên vì nó tránh đi sự nóng giận, cục cằn cũng như những trạng thái tâm lý tiêu cực như chán nản, thất vọng khi làm việc với học sinh, với đồng nghiệp.

Tính dũng cảm: Đó là khả năng sẵn sàng và nhanh chóng vượt tới mục đích, bất chấp khó khăn, nguy hiểm cho tính mạng hay lợi ích của bản thân:

(10)

Việc phân chia các đặc tính trên có ý nghĩa về mặt khoa học, trên thực tế các phẩm chất ý chí này luôn gắn bó hữu cơ với nhau, hỗ trợ cho nhau tạo nên ý chí cao của con người.

Sinh viên hiện nay có những ưu điểm và hạn chế về phẩm chất ý chí.

Ưu điểm của ý chí của sinh viên hiện nay:

Tính mục tiêu cao: Sinh viên hiện nay thường có ý chí rõ ràng về mục tiêu học tập và sự nghiệp. Họ tự giác xác định được mục tiêu cá nhân và đặt ra kế hoạch để đạt được nó.

Tinh thần độc lập: Sinh viên ngày nay thường có tính độc lập trong quyết định và hành động. Họ dám đưa ra quyết định riêng dựa trên kiến thức và suy nghĩ của bản thân mà không bị chi phối bởi ý kiến của người khác.

Sáng tạo và khám phá: Sinh viên hiện đại thường có ý chí sáng tạo và dám thử nghiệm những ý tưởng mới. Họ tìm kiếm cách tiếp cận vấn đề theo hướng sáng tạo và tìm hiểu những lĩnh vực mới.

Kiên nhẫn và kiên định: Sinh viên hiện nay thường có tính kiên nhẫn và kiên định trong việc đạt được mục tiêu của mình. Họ không dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn mà sẽ cố gắng vượt qua và tiếp tục nỗ lực.

Hạn chế của ý chí của sinh viên hiện nay:

Thiếu kiên định trong quyết định: Một số sinh viên có ý chí không kiên định, dễ dao động và thay đổi quyết định thường xuyên khi gặp khó khăn. Điều này có thể khiến họ khó tiến bộ và đạt được mục tiêu đề ra.

Thiếu quyết đoán: Một số sinh viên có thể mất nhiều thời gian để đưa ra quyết định và thường phải dựa vào ý kiến của người khác. Điều này có thể làm giảm tính quyết đoán và sự tự tin trong họ.

Thiếu kiên nhẫn: Sinh viên hiện nay thường đòi hỏi thành quả nhanh chóng và thiếu kiên nhẫn để đợi đến khi đạt được thành công. Họ có thể dễ dàng mất kiên nhẫn và từ bỏ khi không thấy kết quả ngay lập tức.

Ảnh hưởng của công nghệ và môi trường xã hội: Công nghệ và môi trường xã hội ngày càng phát triển và tạo ra sự đa dạng thông tin, gây ảnh hưởng đến ý chí của sinh viên. Thỉnh thoảng, sinh viên có thể bị phân tán và mất tập trung vì các yếu tố này.

(11)

Tuy nhiên, hãy nhớ rằng mỗi sinh viên đều có cá nhân hóa và sự phát triển riêng, do đó, ý chí của họ có thể khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Quan trọng là khuyến khích và hỗ trợ họ trong việc phát triển ý chí mạnh mẽ và tích cực để đạt được mục tiêu cá nhân và xã hội.

Ý chí khắc phục khó khăn là mặt năng động của ý thức người học viên, là một phẩm chất tâm lý cá nhân, một thuộc tính tâm lý nhân cách điển hình người học viên nhà trường quân đội. Ý chí là biểu hiện của động cơ thực hiện hành động học tập có mục đích đúng đắn, đòi hỏi người học viên phải nỗ lực khắc phục khó khăn và tiêu thụ nhiều năng lượng mới đạt được mục đích học tập. Ý chí không bẩm sinh mà do rèn luyện mới có. Ý chí khắc phục khó khăn trong học tập, đòi hỏi người học phải có động cơ rõ ràng. Trong động cơ này không tự nó có, mà nó xuất hiện dần dần, lúc đầu thì mờ ảo, chung chung, người học viên càng học, rèn luyện về sau trong một môi trường đặc thù là tính kỷ luật sẽ rõ ràng và cụ thể dần. Hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học viên, đó là một quá trình của sự phản ánh thế giới khách quan vào óc người học viên để chỉ đạo, điều chỉnh hành động. Động cơ học tập càng rõ, hành động càng tích cực và ngược lại.

Như chúng ta đã biết ý chí và động cơ của con người mang bản chất xã hội, có nghĩa là nó được hình thành và biến đổi theo hoàn cảnh xã hội, tùy theo điều kiện sống và lịch sử từng người, thuộc dân tộc nào… Thí dụ học viên trong các trường quân đội luôn có tính chủ động, có ý chí khắc phục mọi khó khăn trong rèn luyện và học tập; có được điều đó là mỗi học viên luôn có động cơ học tập đúng đắn, động cơ đó đã thôi thúc học viên khắc phục mọi khó khăn trong học tập vươn lên lĩnh hội tri thức cho bản thân. Bởi vì, mỗi học viên hiểu được giá trị chân chính của ý chí, của động cơ học tập của mình đó là học tập để lĩnh hội làm giàu nhân cách cho bản thân, học tập lấy cái tính chất tốt đẹp, loại bỏ cái xấu xa; học tập để lấy cái cao thượng, loại bỏ đi cái thấp kém; học tập để bồi đắp ước mơ, nhu cầu lý tưởng bền vững của người quân nhân cách mạng. Như vậy, ý chí khắc phục mọi khó khăn là phẩm chất, là bộ mặt đạo đức của người học viên nhà trường quân đội, ý chí đó được thể hiện trong tất cả mọi hoạt động của người học viên, từ những hành động, cử chỉ nhỏ nhất như cách ăn mặc, các thói quen sinh hoạt hàng ngày …Những điều này đã hun đúc nên động cơ học tập trong sáng, đó là tinh thần yêu gia đình, yêu quê hương, đất nước…giá trị cao đẹp của anh bộ đội “Cụ Hồ”.

(12)

Người học viên nhà trường quân đội, nhờ có ý chí khắc phục khó khăn, có động cơ học tập đúng đắn mà đã thích ứng được với môi trường học tập, rèn luyện gian khổ. Bằng ý chí và động cơ học tập đúng đắn, mà mỗi học viên đã luôn chủ động, sắp xếp hoạt động của mình để giải quyết tốt mâu thuẫn giữa khối lượng chi thức rất lớn cần thu nhận với sự thiếu hụt về thời gian để chế biến và lĩnh hội chúng, để tạo ra cho bản thân những giá trị của nhân cách người sĩ quan quân đội.

Vậy ý chí khắc phục khó khăn - hình thành động cơ học tập đúng đắn của học viên được biểu hiện như thế nào?

Đó là sự nhận thức rõ ràng của người học viên về môi trường mình học tập, rèn luyện, môi trường đại học lớn, môi trường được xây đắp trên tình yêu thương cao cả của tình đồng chí, đồng đội, của những người cùng chung chí hướng; môi trường của những chiến công chống giặc ngoại xâm của bao thế hệ cha anh không tiếc xương, máu bồi đắp lên… Những giá trị đó được phản ánh khách quan vào nhận thức của học viên; như lẽ thường tình của quy luật nhận thức, đó là nhận thức đúng, sẽ có tình cảm đúng, tình cảm đúng, sẽ có ý chí đúng; ý chí đúng sẽ tạo nên động cơ học tập đúng đắn cho người học viên nhà trường quân đội. Điều này, được thể hiện trong hoạt động học của học viên như sau:

Thứ nhất, học viên luôn có ý chí khắc phục khó khăn rõ, có động cơ chính trị xã hội sâu sắc. Đó là động lực thúc đẩy người học tích cực học tập liên quan đến thoả mãn các nhu cầu: Nhu cầu mong muốn tiến bộ, trưởng thành; nhu cầu mong muốn được hoàn thiện, phát triển nhân cách; nhu cầu phục vụ sự nghiệp xây dựng quân đội, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nhu cầu này có ý nghĩa rất to lớn giúp cho quân nhân hình thành và củng cố vững chắc xu hướng nghề nghiệp quân sự.

Học viên có ý chí khắc phục khó khăn, có động cơ chính trị - xã hội được thể hiện ở sự hiểu biết sâu sắc về các yêu cầu nhiệm vụ cách mạng nói chung, yêu cầu của sự nghiệp xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Chính từ những hiểu biết này đã kích thích học viên tích cực miệt mài học tập vì mục đích cao cả phục vụ quân đội, Tổ quốc và nhân dân, đồng thời giúp học viên lồng vào trong các hiểu biết tri thức khoa học của các môn học, bài học, làm cho các hiểu biết này không chỉ đơn thuần về mặt kiến thức mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc giúp cho người học giành điểm cao trong các kỳ kiểm tra, thi tại trường.

(13)

Thứ hai, có ý chí, động cơ nhận thức khoa học cháy bỏng. Đây là nhân tố kích thích các học viên hăng say trong học tập trên cơ sở của nhu cầu hoàn thiện tri thức, mong muốn nắm vững tiến tới làm chủ tri thức khoa học của từng bộ môn mà mình được học tập.

Ý chí, động cơ nhận thức khoa học cháy bỏng được biểu hiện rõ nét ở hứng thú nhận thức. Đó là ham học tập, thích thú say sưa với việc học; óc tò mò khoa học; thích đem lý luận vận dụng vào thực tiễn, cần cù nhẫn nại trong việc học; có óc phê phán khoa học, tính độc lập trong tư duy suy nghĩ; giàu tưởng tượng sáng tạo; tính dễ xúc cảm về nhận thức.

Thứ ba, học viên có ý chí và động cơ nghề nghiệp quân sự rõ ràng,đây loại ý chí và động cơ đặc thù của người học viên nhà trường quân đội, nó thúc đẩy định hướng học viên luôn khát vọng đứng vững và làm chủ nghề nghiệp đang theo đuổi. Chính nhờ khát vọng này mà người học tích cực học tập, nghiên cứu có mục đích rõ ràng vì nghề nghiệp tương lai mà mình phải gánh vác.

Ý chí khác phục khó khăn và động cơ nghề nghiệp quân sự quan hệ hữu cơ với nhu cầu bảo vệ Tổ quốc, các động cơ chính trị - đạo đức, lợi ích vật chất, tinh thần và đặc biệt gắn bó với động lực thúc đẩy tính tích cực của quân nhân trong tiếp thu những tri thức, kinh nghiệm, kỹ xảo, kỹ năng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. Học viên có ý chí và động cơ nghề nghiệp quân sự tạo tiền đề cho việc thích ứng nghề nghiệp, hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, củng cố, phát triển các động cơ khác.

Thứ bốn, học viên luôn hành động theo ý chí và động cơ tạo xây dựng nhân cách trong suốt quá trình học tập. Đây là quá trình phân tích những điều kiện khách quan, chủ quan, những thuận lợi, khó khăn, trên cơ cở đó mà học viên xác định quyết tâm và lựa chọn những biện pháp, phương thức hành động nhằm đạt tới mục đích trở thành người sĩ quan quân đội, người hội tụ những phẩm chất nhân cách mẫu mực. Đây cũng là kết quả của ý chí khắc phục khó khăn của bản thân người học viên, đồng thời là kết quả của công tác giáo dục, rèn luyện ở các học viện nhà trường quân đội. Trong quá trình lựa chọn này học viên luôn diễn ra sự đánh giá mục đích và phương thức hành động cụ thể trong học tập và rèn luyện để khắc phục mọi khó khăn, gian khổ. Ở đây có sự đấu tranh về động cơ.

Động cơi - đó là sự trả lời câu hỏi vì sao mình phải có ý chí khắc phục mọi khó khăn? Vì sao mình mình phải có động cơ học tập đúng đắn? Khi trả lời được câu hỏi, học viên

(14)

thường dựa vào thế giới khách quan của mình để hạ quyết tâm và hành động theo mục đích, lý tưởng mà mình đã chọn.

Ý chí khắc phục khó khăn, hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học viên chúng ta phải làm thế nào?

Một là, thường xuyên nâng cao ý thức tự giác, xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học viên.

Bởi hành động ý chí có được, khi nó kết hợp với yếu tố trí tuệ, tình cảm. Do vậy người học viên có ý thức tự giác cao, có động cơ học tập đúng đắn, sẽ giúp họ xác định đúng mục đích hành động, huy động mọi sức lực, trí tuệ để khắc phục khó khăn, trở ngại trong học tập và rèn luyện hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao

Để làm tốt điều đó, phải hình thành cho học viên động cơ học tập đúng đắn và nhu cầu mong muốn tiến bộ trưởng thành; mong muốn hoàn thiện tri thức, mong muốn hoàn thiện nhân cách; mong muốn đứng vững và làm chủ nghề nghiệp quân sự sẽ theo đuổi;

liên quan đến cả các lợi ích, hứng thú riêng của mỗi cá nhân. Vì thế ý chí khắc phục khó khăn trong học tập của người học viên, không chỉ được xem xét ở kết quả học tập thuần tuý mà điều quan trọng phải xem cả ở kết quả xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho người học đến mức độ nào. Bởi chính các động cơ đúng đắn này tham gia vào việc hình thành nhân cách người sĩ quan tương lai theo đúng đòi hỏi của Đảng, Nhà nước, quân đội.

Hai là, hình thành các mục đích học tập gắn liền với việc rèn luyện các hành động học tập cụ thể cho các học viên.

Đây là một phẩm chất quan trọng của ý chí người học viên. Nó chính là năng lực của người học viên biết đặt các hành vi, hoạt động của mình tuân theo mục đích học tập đã định.

Trong học tập người học viên phải có mục đích rõ ràng, đúng đắn. Học viên có mục đích cao cả trong học tập mới có động cơ học tập đúng đắn và ngược lại. Động cơ học tập đúng đắn của người học được thể hiện tập trung ở động cơ nhận thức. Đó là toàn bộ tri thức khoa học, toàn bộ các khái niệm khoa học của bộ môn mà người học phải chiếm lĩnh. Còn tri thức khoa học trong từng bài, từng tiết là mục đích của hành động học tập.

Mỗi khái niệm khoa học (trong hệ thống khái niệm) của mỗi môn học là một mục đích trước mắt của hành động học tập. Bởi vì, bản chất của hoạt động học là hoạt động chuyển

(15)

hướng vào làm thay đổi chính chủ thể. Sự thay đổi này biểu hiện ở mức độ làm chủ các khái niệm, các giá trị, chuẩn mực, những quy luật và những hành vi phù hợp với nó và cuối cùng là hình thành người sĩ quan với đầy đủ phẩm chất mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã đặt hàng với các trường quân đội.

Ba là, hình thành, củng cố xu hướng nghề nghiệp quân sự của các học viên.

Sự nghiệp xây dựng quân đội, sẵn sàng chiến đấu cho nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ Đảng, nhân dân, đòi hỏi những con người hết mực trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, say sưa yêu mến sự nghiệp quân sự, lấy binh nghiệp làm mục đích của cuộc đời mình.

Bởi vậy, ngay trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường, xu hướng nghề nghiệp quân sự, khát vọng cống hiến đời mình cho nghề nghiệp quân sự phải được hình thành và củng cố. Thông qua các hoạt động sư phạm khác nhau trong trường, qua mỗi bài giảng của giảng viên, học viên được bồi dưỡng về tình cảm, nghĩa vụ trách nhiệm đối với đất nước, dân tộc, xu hướng nghề nghiệp quân sự từng bước được hình thành, củng cố, phát triển. Từ đó người học viên có tình cảm, trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp quân sự, người học tích cực hơn và sẽ có ý chí quyết tâm vượt qua trở ngại trên con đường lĩnh hội tri thức.

Bốn là, bảo đảm cơ sở vật chất và có chính sách động viên thích hợp

Vấn đề chung nhất phải kể đến môi trường sư phạm lành mạnh, khoa học với bầu không khí làm việc trách nhiệm, hiệu quả, thiết thực. Người học phải có nhiều thông tin sâu cập nhật cho hoạt động lĩnh hội và các hình thức học tập phải được bổ sung, phát triển thường xuyên. Thu thập, xử lý thông tin ở học viên phải là những kênh thông tin căn bản trên cơ sở hệ thống sách, báo, nguồn tài liệu chính thống. Hệ thống cơ sở vật chất trên giảng đường cần có sự đầu tư căn bản hệ thống và hiện đại. Đối với giảng đường, phòng chuyên dùng tiếp tục được hiện đại hoá sao cho hệ thống phương tiện, thiết bị theo kịp với xu thế phát triển hiện nay.

Cần phải tính đến các tác động thúc đẩy, kích thích tính tích cực học tập của học viên bằng các chính sách đãi ngộ cụ thể đối với các học viên giỏi, các học viên đạt những danh hiệu trong học tập. Chẳng hạn, có các chế độ ưu tiên, thăng quan hàm, phân công công tác cho học viên giỏi, xuất sắc. Khen thưởng và tặng các danh hiệu đặc biệt cho các

(16)

học viên đạt điểm cao nhất trong các kỳ thi thường niên của trường, toàn quân theo các chủ đề cụ thể. Khen thưởng bằng phát minh, sáng kiến cho các công trình nghiên cứu khoa học thực tiễn có giá trị của các học viên… những ưu sách, đãi ngộ như được lựa chọn nơi công tác, được lựa chọn quyền được học tập tiếp tục ở các bậc học cao hơn sau khi ra trường… sẽ là nguồn động lực quan trọng rèn luyện ý chí, hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học viên nhà trường quân đội.

Ý chí khắc phục khó khăn - hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học viên, không phải có sẵn mà phải thông qua rèn luyện mới nên, và phải bắt đầu một cách bài bản có kế hoạch lộ trình cụ thể, bắt đầu từ sự rèn luyện các hành động sinh hoạt hàng ngày như ăn, ngủ, chơi, học tập theo một thời gian biểu nhất định trong môi trường quân đội. Các hành động đó cứ lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành thói quen. Thói quen trong môi trường giáo dục sẽ trở thành nhu cầu, thành tình cảm và cuối cùng là động cơ đúng đắn cho học viên trong học tập.

(17)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Thuý Lan, 2003, Sinh lý học thần kinh, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm 2. A. R. Luria, 1972, Não người và các quá trình tâm lý, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.

3. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), 2003, Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học sư phạm.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, 5, 9, 10, 12, 14, 15 (2011), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Phạm Quang Trung (2019), "Các giải pháp hữu hiệu phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục", Báo Giáo dục và Thời đại điện tử, ngày 12/7/2023.

7. Phạm Quang Huỳnh [2009], “Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên của Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau”, Luận văn thạc sĩ - Đại học Sư phạm Tp.

Hồ Chí Minh.

Referensi

Dokumen terkait

Câu 5: Độ lớn của suất điện động cảm ứng trong một mạch kín tỉ lệ với A.. tốc độ biến thiên từ thông qua

Lần này nhà trường cần chọn 9 học sinh trong đội xung kích để lao động dọn vệ sinh phòng chống dịch Covid-19, hỏi có bao nhiêu cách chọn sao cho: a Mỗi khối có đúng 3 học sinh... Viết

Trong xa-van có nhiều động vật ăn cỏ như ngựa vằn, hươu cao cổ, voi và động vật ăn thịt như báo, sư tử, linh cẩu,… - Châu Mĩ: Địa hình thay đổi từ tây sang đông: dọc bờ biển phía tây

Tuy nhiên, tập trung bàn về những đóng góp của Saussure trong lĩnh vực văn chương, người nghiên cứu gặp phải những khó khăn như: Saussure được biết đến trước hết với tư cách là một nhà

Để chiến thắng được sự ngu dốt thì con cũng giống như chiến sĩ; con đang chiến đấu trên mặt trận học tập đầy khó khăn, gian khổ; sách vở là vũ khí, lớp học là chiến trường, sự ngu dốt

Điều đó có nghĩa rằng dạy học phát triển NL người học trong môn TLHQS là quá trình tổ chức phối hợp các hoạt động của GV và HV nhằm đạt được các chuẩn về kiến thức, kỹ năng và thái độ

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập theo hình thức trực tuyến của sinh viên Để có thể khắc phục những khó khăn trên, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp từ thực tiễn

- Câu trả lời của chàng võ sinh ở lần cuối: Đai đen là sự bắt đầu, là biểu tượng của quá trình không ngừng rèn luyện, phấn đấu và theo đuổi võ học từ một khởi điểm cao hơn: Xem thành