• Tidak ada hasil yang ditemukan

vi du viet tong quan nghien cuu

N/A
N/A
Lê Hương Giang

Academic year: 2024

Membagikan "vi du viet tong quan nghien cuu"

Copied!
29
0
0

Teks penuh

(1)

Ví dụ viết tổng quan nghiên cứu

Quản trị chiến lược (Trường Đại học Thương mại)

Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university

Ví dụ viết tổng quan nghiên cứu

Quản trị chiến lược (Trường Đại học Thương mại)

Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university

(2)

Ví d 1

Nghiên c u các y ế u t ảnh hưở ng t i l a ch ọn điểm đế n du l ch

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cũng như quyết định mua dịch vụ du lịch là chủ đề đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như những người làm công tác thực tiễn trong và ngoài nước.

1.1. Những nghiên cứu về hành vi mua

- Tác giả Hồ Kỳ Minh xác định thị trường du khách tiềm năng và chỉ ra các địa điểm cũng như các khu du lịch mà du khách quốc tế lựa chọn tại Đà Nẵng. Do vậy các nhà quả lý có thể thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao khả năng thu hút cũng như làm hài lòng hơn nữa du khách thông qua các sự cải thiện chất lượng hạ tầng cũng như các dịch vụ kemd them.

Nghiên cứu đã phân tích hành vi của du khách nước ngoài khi du lịch Đà Nẵng và đưa ra các gợi ý nhằm gia tăng sự hài lòng của du khách: cung cấp chi tiết, cập nhật thông tin; phát triển loại hình du lịch cũng như các sản phẩm du lịch mới; tăng cường các dịch vụ hỗ trợ. Nghiên cứu dựa trên nền tảng các khái niệm và mô hình : mô hình về quyết định lựa chọn của khách du lịch về dịch vụ của Woodside và MacDonald, mô hình về quá trình ra quyết định của khách du lịch - Mathieson và Wall’s , mô hình kích thích phản ứng của hành vi tiêu dùng du lịch của Middleton.

Công trình nghiên cứu đã xác đinh được thị trường cần tập trung khai thác quan trọng nhất là khách Đông Bắc Á, đứng thứ hai là thị trường khách Đông Nam Á.

- C. Van Vuuren (2011), Travel motivations and behaviour of tourists to a South African resort

Hành vi du lịch đề cập đến cách hành xử của khách du lịch theo thái độ của họ trước, trong và sau khi đi du lịch. Mục đích của nghiên cứu này là xác định hành vi du lịch với sự tham chiếu cụ thể về động cơ du lịch của khách du lịch đến một khu nghỉ mát ở Nam Phi. Kết quả của nghiên cứu này bao gồm bốn phần: Hồ sơ nhân khẩu học của khách truy cập vàokhu nghỉ mát, phân tích nhân tố của các động lực du lịch, phân tích nhân tố về lý do du lịch và mối tương quan phân tích giữa động lực du lịch và lý do du lịch.Kết quả cho thấy động cơ của khách du lịch đến khu nghỉ mát là nghỉ ngơi và thư giãn, tham gia các hoạt động thú vị, tham gia làm giàu và học hỏi kinh nghiệm, giao tiếp xã hội và các giá trị cá nhân nhất định. Những kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng các nhà tiếp thị du lịch bắt buộc phải nghiên cứu liên tục để xác định hành vi của khách du lịch đến các khu nghỉ dưỡng; để các khu nghỉ dưỡng được ưa thích, họ cần tìm những khía cạnh độc đáo có thể thu hút du khách đến khu nghỉ dưỡng vì khách du lịch luôn tìm kiếm

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(3)

thứ gì đó khác biệt.

- Sasitorn Chetanont (2012), Chinese Tourists’s Behaviors towards Travel and Shopping in Bangkok

Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu hành vi du lịch của người Trung Quốc đối với du lịch và mua sắm ở Bangkok. Đề tìa này chủ yếu nhằm tìm giải pháp cho việc thu hút khách du lịch trên cơ sở nghiên cứu về hành vi du lịch của khách du lịch Trung Quốc. Để thu thập dữ liệu, nhà nghiên cứu chia nghiên cứu thành 2 phần: Phần 1 là nghiên cứu tài liệu hoặc nghiên cứu thứ cấp liên quan đến khách du lịch Trung Quốc, hành vi của khách du lịch Trung Quốc tại Thái Lan, những nghiên cứu liên quan đến Trung Quốc khách du lịch, hành vi đối với du lịch và mua sắm ở Bangkok; Phần 2 là nghiên cứu khảo sát trong việc thu thập dữ liệu về du lịch hành vi đối với du lịch và mua sắm ở Bangkok bằng cách phân phát bảng câu hỏi cho khách du lịch Trung Quốc. Bảng câu hỏi được sử dụng làm công cụ nghiên cứu, được chia thành 2 phần: Phần 1:

Thông tin cá nhân, xã hội và văn hóa và Phần 2: Câu hỏi về hành vi của du khách Trung Quốc tại Bangkok. Mẫu nghiên cứu này là 400 Khách du lịch Trung Quốc tại Bangkok bằng cách sử dụng công thức Taro Yamane, với độ tin cậy 95% và ở mức đáng kể 0,05. Nhóm mẫu được chọn bằng cách lấy mẫu ngẫu nhiên và lấy mẫu có chủ đích. Sau khi xác minh dữ liệu thu thập được từ bảng câu hỏi và hoàn thành , nhà nghiên cứu phân tích thống kê suy luận bằng cách sử dụng số liệu thống kê Chi-square. Các biến được dùng để quan sát là: (1) Thông tin cơ bản của người trả lời: giới tính, tuổi tác, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, vị trí hiện tại và thu nhập trung bình hàng tháng; (2) Hành vi của khách du lịch Trung Quốc tại Bangkok: số lượt truy cập, mục tiêu tham quan, chuẩn bị du lịch, nơi đặt dịch vụ lưu trú, thời gian tham quan thường xuyên, thời gian tham quan, sử dụng dịch vụ tại trung tâm thông tin, điểm tham quan ấn tượng, quà lưu niệm, chi phí trung bình trong khi đi du lịch và việccó quay lại du lịch tại Bangkok.

Nghiên cứu về hành vi của khách du lịch Trung Quốc đối với du lịch và mua sắm ở Bangkok đã đưa ra kết quả là nhữngphân tích về hành vi của khách du lịch Trung Quốc tại Bangkok; phân tích mối quan hệ hành vi của khách du lịch Trung Quốc tại Bangkok với thông tin cá nhân.

1.2 Những nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến điểm đến du lịch

- Hoàng Thị Thu Hương ( 2016) đã nghiên cứu mô hình thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố tác động đến thái độ, sự cam kết lựa chọn cũng như lòng trung thành của du khách đối với điểm đến, tìm ra quy luật hành vi giữa hai quyết định lựa chọn điểm đến du lịch văn hóa và du lịch biển. Đồng thời người dân Hà Nội nói riêng và khách du lịch nội địa nói chung đều có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm du lịch tổng hợp bởi các yếu tố cấu thành một cách hoàn chỉnh, đặc biệt là

(4)

động cơ khám phá nét độc đáo của tài nguyên và nét văn hóa đặc trưng vùng miền ảnh hưởng mạnh mẽ tới thái độ cũng như sự cam kết lựa chọn điểm đến. Kết quả của luận án góp phần làm phong phú hơn sự hiểu biết của các nhà quản lý đối với hành vi của du khách từ đó đưa ra các chính sách phù hợp nhằm thu hút hơn nữa du khách tới điểm đến Huế,Đà Nẵng.

- Đào Thu Hương (2016), nghiên cứu đã đưa ra mô hình chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng tới ý định quay lại Đà Nẵng của du khách nội địa.Các yếu tố được xác định có ảnh hưởng tới ý định quay lại Đà Nẵng của du khách bao gồm: (1) Động cơ kéo, (2) Thái độ, (3) Nhận thức kiểm soát hành vi, (4) Giá trị nhận thức, (5) Kinh nghiệm quá khứ. Trong đó, nhân tố Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng lớn nhất. Bên cạnh đó công trình đã đưa ra các gợi ý chính sách nhằm gia tăng khả năng quay trở lại Đà Nẵng của nhóm đối tượng nghiên cứu. Hạn chế của nghiên cứu là vẫn còn thiếu nhiều thành phần khác nhau tác động mà đề tài chưa khảo sát hết để kiểm định chúng trong mô hình đa biến với mối quan hệ chủ đạo ý định quay lại điểm đến.

- Hoàng Thanh Liêm (2017), nghiên cứu trên về quyết định lựa chọn điểm đến đối với trường hợp Bình Thuận của du khách trong nước đã đề đưa ra mô hình gồm các yếu tố: nguồn nhân lực, sự đa dạng của dịch vụ, giá dịch vụ hợp lý, điểm đến an toàn, cơ sở hạ tầng, môi trường tự nhiên. Với kết quả phân tích hồi quy đa biến, tác giả đưa đến kết luận, 2 yếu tố nhân lực và giá dịch vụ hợp lý tác động mạnh hơn cả tới quyết định lựa chọn điểm đến Bình Thuận với đối tượng nghiên cứu là khách du lịch trong nước.

- Tác giả Nguyễn Quốc Nghi [9] trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra nhân tố hình ảnh điểm đến bao gồm 5 thành phần: HA1 – Giá cả, âm nhạc và phong cách phục vụ, HA2 – Thực phẩm và đặc sản địa phương, HA3 – Các hoạt động giải trí HA4 –Môi trường tự nhiên, HA5 – Hình ảnh con người, thiên nhiên và nguồn lực hỗ trợ; Nhân tố trải nghiệm du lịch bao gồm 4 thành phần: TN1 – Trải nghiệm vềsuy nghĩ và hành động; TN2 – Sự kết hợp của trải nghiệm; TN3 – Trải nghiệm liên hệ; TN4 – Trải nghiệm cảm giác và cảm nhận. Trong đó, 2 nhân tố quan trọng nhất là: TN1 - Trải nghiệm suy nghĩ và hành động, HA3 - Sự quản lý điểm đến và vui chơi giải trí.

- Bashar Aref Mohammad Al-Haj Mohammad (2010), Analysing of Push and Pull Travel Motivations of Foreign Tourists to Jordan

Nghiên cứu tập trung vào các tác động của nhân tố đẩy và kéo tới động lực đi du lịch của du khách quốc tế. Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rõ ràng rằng động lực du lịch gắn liền với lợi thế cạnh tranh của điểm đến du lịch. Đề tài xác định được trong số 25 yếu tố đẩy và 26 yếu tố kéo của động lực du lịch của khách quốc tế tại Jordan được đưa ra đánh giá thì những yếu tố quan trọng nhất được khách du lịch đánh giá bao gồm: khí hậu,tài nguyên thiên nhiên, văn hóa và lịch sử, thương hiệu điểm đến, sự thư gian về thể chất, chi phí, điểm đến an toàn, sự thuận lơi visa. Cụ thể,

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(5)

yếu tố tài nguyên thiên nhiên, thương hiệu điểm đến và yếu tố an toàn được xem như là yếu tố quan trọng nhất. Tiếp theo đó là các nhân tố văn hóa lịch sử và chị phí, sự thuận lợi visa giữ vị trí quan trọng thứ hai. Yếu tố quan trọng thứ ba là khí hậu .

- Daud Mohamada, Rozana Mohd Jamilb (2012), A Preference Analysis Model for Selecting Tourist Destinations: Based on Motivational Factors: A Case Study in Kedah, Malaysia

Đề tài này trình bày đánh giá các nhân tốquan trọng ảnh tấc động tớisựquyết địnhchọn điểm đến của du khách địa phương ở Kedah bằng phương pháp TOPSIS phân cấp mờ. Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố bên trong thúc đẩy khách du lịch lựa chọn sở thích của họ về ĐĐDL. 5 tiêu chí chính ảnh hưởng đến mong muốn của khách du lịch là yếu tố tâm lý (PF), Yếu tố vật lý (PH), Tương tác xã hội (SI) và Tìm kiếm hoặc Thăm dò (SE). Có 11 phụtiêu chí được xem xét: Các tiêu chí phụ trong Các yếu tố tâm lý là thoát khỏi cuộc sống hằng ngày (E) và tự thể hiện bản thân(SA); tiêu chí phụ của yếu tố vật lý là nghỉ ngơi và thư giãn (RR), điều trị y tế (MT) và sức khỏe và thể lực (HF); các tiêu chí phụ trong Tương tác xã hội là thăm bạn bè hoặc người thân (VF), gặp gỡ những người mới (MP); Cuối cùng, các tiêu chí phụ trong Tìm kiếm hoặc Khám phá là tìm kiếm sự mới lạ (NS), khám phá văn hóa (CE), tìm kiếm phiêu lưu (AS) và tận hưởng cuộc sống về đêm và mua sắm (EN). Mỗi tiêu chí và tiêu chí phụ được giải thích chi tiết trong Hsu et al (2009). Các lựa chọn thay thế được xem xét trong nghiên cứu này là những địa điểm thu hút khách du lịch ở Kedahcụ thể là Langkawi (L), Bukit Kayu Hitam (BH), Thung lũng Bujang (BV), Sông Sedim (SR) và Alor Setar (AS).

1.3. Nhng nghiên cu v các yếu tảnh hưởng đến hành vi mua dch v du lch

Tác giả Um và Crompton [35] chỉ ra rằng khách du lịch có kiến thức hạn chế về các dịch vụ tại nơi mà họchưa từng đến. Kiến thức thường hạn chếđối với các thông tin mang tính biểu tượng thu được từ các yếu tố truyền thông hoặc từ nhóm, mạng xã hội của họ. Do đó, dịch vụ du lịch nổi lên như là một yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng trong quá trình lựa chọn điểm đến của du khách.

Tác giả R.Mutinda và M.Mayaka [32] cho rằng các yếu tố cá nhân của du khách có ý nghĩa hơn các yếu tố môi trường, nó là yếu tố quan trọng quyết định sự lựa chọn dịch vụ du lịch.

Theo Lang và cộng sự[26], các yếu tốcơ bản cơ bản như nhân khẩu học của khách du lịch (tuổi tác, thu nhập, chu kỳ cuộc sống,...), dữ liệu tâm lý (lợi ích theo đuổi, sở thích, thái độ,...), các biến marketing (như sản phẩm, giá cả, quảng cáo,...), các yếu tố có liên quan tới điểm đến (các yếu tố thu hút, các biến tình huống,...) cũng như nhận thức của du khách sẽảnh hưởng đến việc lựa chọn dịch vụ.

Một nghiên cứu với trường hợp của Slovenia [23] cho rằng để tăng tính cạnh tranh cho dịch vụ du lịch và thay đổi động cơ, kích thích nhu cầu của du khách; hoạt động Marketing hay cụ thể là các

(6)

nguồn thông tin tiếp cận với khách hàng trở thành một trong những chiến lược quan trọng; góp phần giúp các nhà quản lý du lịch thành công trong việc quản lý hoạt động kinh doanh du lịch cũng như quản lý dịch vụ du lịch.

Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng nhiều khách du lịch đã tham khảo nhiều nguồn thông tin khác nhau trước khi đưa ra mỗi quyết định lựa chọn dịch vụ du lịch cho chuyến đi của mình.

Hiện nay các nguồn thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng tác động đến hành vi tiêu dùng của du khách, đặc biệt là thông tin từ nguồn là những du khách có kinh nghiệm du lịch và thông qua các kênh truyền thông trên internet theo kết quả nghiên cứu của Volo [36].

Luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Thị Thu Hương [5] gợi ý về sự phụ thuộc của lựa chọn dịch vụ du lịch bởi các yếu tố tác động từ thái độ, sự cam kết lựa chọn cũng như lòng trung thành của du khách. Nghiên cứu cũng chỉ ra quy luật hành vi giữa quyết định lựa chọn dịch vụ du lịch văn hóa và du lịch biển; một kết quả khác chỉ ra du khách Hà Nội nói riêng và khách du lịch nội địa nói chung đều có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm du lịch tổng hợp bởi các yếu tố cấu thành một cách hoàn chỉnh, đặc biệt là động cơ khám phá nét độc đáo của tài nguyên cũng như yếu tố văn hóa riêng biệt tác động mạnh mẽ tới thái độ cũng như quyết định lựa chọn dịch vụ du lịch.

Nghiên cứu của Đào Thị Thu Hường [4] đề cập đến một số vấn đề về dịch vụ du lịch và mô hình đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố đến ý định quay lại điểm đến du lịch của du khách. Công trình nghiên cứu này đã chỉ ra mức độảnh hưởng của 5 nhân tốđến ý định quay lại thành phố Đà Nẵng của du khách: động cơ kéo, thái độ, nhận thức kiểm soát hành vi, giá trị nhận thức, kinh nghiệm quá khứ. Trong đó, nhân tố nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng lớn nhất tới ý định quay lại Đà Nẵng. Bên cạnh đó công trình đã đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm giúp các cơ quan có thẩm quyền và các doanh nghiệp tập trung nguồn lực để nâng cao những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến ý định quay lại điểm đến du lịch của du khách nhằm giúp cho điểm đến Đà Nẵng có thể thu hút được nhiều khách du lịch hơn. Tuy nhiên nghiên cứu chưa đề cập tới nhiều thành phần khác nhau tác động mà đề tài chưa khảo sát hết để kiểm định chúng trong mô hình đa biến với mối quan hệ chủđạo ý định quay lại điểm đến.

Hoàng Thanh Liêm [6] khi nghiên cứu về quyết định lựa chọn dịch vụ du lịch đối với trường hợp Bình Thuận của du khách trong nước đã đề đưa ra mô hình gồm các yếu tố: nguồn nhân lực, sựđa dạng của dịch vụ, giá dịch vụ hợp lý, điểm đến an toàn, cơ sở hạ tầng, môi trường tự nhiên. Với kết quả phân tích hồi quy đa biến, tác giả đưa đến kết luận, 2 yếu tố nhân lực và giá dịch vụ hợp lý tác động mạnh hơn cả tới quyết định lựa chọn điểm đến Bình Thuận với đối tượng nghiên cứu là khách du lịch trong nước.

Nghiên cứu của Trần Thị Kim Thoa [12] khẳng định: động cơ đi du lịch, thái độ, hình ảnh của điểm đến, nhóm tham khảo, giá tour du lịch, truyền thông, tác động tới quyết định lựa chọn

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(7)

điểm đến Hội An đối với nhóm du khách Tây Âu và Bắc Mỹ.

Như vậy, các nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng việc hiểu hành vi của người tiêu dùng du lịch và các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn dịch vụ du lịch đóng vai trò vô cùng quan trọng, giúp nhà quản lý điểm đến lý giải, dựđoán và có những ứng xử phù hợp nhằm thoả mãn tập du khách mục tiêu.

2. Các lý thuyết về hành vi mua dịch vụ du lịch 2.1 Các lý thuyết v hành vi mua ca khách hàng

- Tiến trình mua của khách hàng

Sự lựa chọn của khách hàng đối với một sản phẩm hàng hoá được hiểu là sự chuyển đổi từ động cơ bên trong thành hành động mua sản phẩm. Philip Kotler (2009) trình bày quy trình quyết định mua của người tiêu dùng là quy trình phức tạp, được diễn ra từ khi con người cảm nhận thấy sự thiếu hụt của mình tới khi tìm kiếm thông tin, mua sắm, và có những cảm nhận sau mua. Quy trình đó được thể hiện theo như sau:

Hình 1.1 Quy trình ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng

Nguồn: Philip Kotler - Lý thuyết hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned Action)

Hành vi của khách hàng là một lĩnh vực nghiên cứu rất phức tạp bao gồm các nghiên cứu vềthái độ, hành động, phản ứng của khách hàng. Mô hình thuyết hành động hợp lí TRA (Theory of reasoned action) của Fishbein và Ajzen [18] xác định hành vi thực sự (Actual Behavior – ActB) của con người được ảnh hưởng bởi ý định của người đó đối với hành vi sắp thực hiện. Ý định lại chịu sự tác động của hai nhân tố chính là thái độ cá nhân (Attitude toward Behavior – ATB) và chuẩn mực chủ quan (Social Norms – SN) như kinh nghiệm, phong cách sống, trình độ, tuổi tác, giới tính …

(8)

Hình 1.2 Mô hình Lý thuyết hành vi hợp lý TRA

Nguồn: Ajzen và Fishbein Lý thuyết hành động hợp lý được phát triển để dự đoán và thấu hiểu được những ảnh hưởng của động cơ thúc đẩy lên những hành vi thực sự, và những hành vi thực sự này không phải chịu sự kiểm soát từ ý chí cá nhân, đây cũng là điểm hạn chế của lý thuyết này. Đồng thời lý thuyết cũng xác định như thế nào, ở đâu để nhắm đến thay đổi hành vi thực sự, và giải thích được hầu hết các hành vi của con người vì vậy lý thuyết hành động hợp lý đã gián tiếp giải thích quá trình lựa chọn dịch vụ du lịch của du khách.

- Thuyết hành vi dự định (TPB - Theory of Planned Behavior)

Thuyết hành vi dự định (TPB - Theory of Planned Behavior) của Ajzen (1991) được phát triển từ lý thuyết hành vi hợp lý nhằm khắc phục hạn chế của lý thuyết trước về việc cho rằng hành vi của con người là hoàn toàn do kiểm soát lý trí. Tương tự như lý thuyết TRA, nhân tố trung tâm trong lý thuyết hành vi có kế hoạch là dựđịnh của mỗi cá nhân trong quá trình thực hiện một hành vi nhất định. TPB bổ sung vào mô hình TRA yếu tố “nhận thức kiểm soát hành vi”. Nhận thức kiểm soát hành vi phản ánh việc dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi và việc thực hiện hành vi đó có bị kiểm soát hay hạn chế không (Ajzen, 1991). Trong lý thuyết này, tác giả cho rằng ý định ra quyết định về một hành vi sẽ chịu ảnh hưởng bởi ba yếu tố như thái độ đối với hành vi, tiêu chuẩn chủ quannhận thức về kiểm soát hành vi. Mối liên hệ được thể hiện như mô hình bên dưới:

Niềm tin về kết quảhành động

Đánh giá kết quảhành động

Niềm tin về tiêu chuẩn của người xung quanh

Động lực để tuân thủ những người xung quanh

Thái độ

Tiêu chuẩn chủ quan

Ý định Hành vi

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(9)

Hình 1.3 Mô hình Lý thuyết hành vi có kế hoạch TPB

Nguồn: Ajzen, 1991 2.2. Các lý thuyết v hành vi mua dch v du lch

- Mô hình của Mathieson and Wall:

Mathieson and Wall (1982) đã xây dựng nên một mô hình về tiến trình ra quyết định và các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến và các dịch vụ du lịch với mục đích khái quát hóa các nhóm yếu tố ảnh hưởng dựa vào các bước ra quyết định đi du lịch của du khách. Mô hình lý thuyết dựa trên 5 giai đoạn của quá trình ra quyết định đi du lịch là: (1) nhận biết nhu cầu và mong muốn đi du lịch, (2) tìm kiếm và đánh giá các thông tin liên quan, (3) quyết định đi du lịch, (4) chuẩn bị và trải nghiệm chuyến đi, (5) đánh giá sự hài lòng sau chuyến đi. Theo tác giả, trong quá trình đó, mỗi giai đoạn đều có những tác động nhất định từ môi trường và bên ngoài ở những mức độ khác nhau.

(10)

Hình 1.4. Tiến trình ra quyết định và các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến và các dịch vụ du lịch (Mathieson and Wall, 1982)

- Mô hình của Gilbert

Theo Gilbert (1991), mô hình của Mathieson and Wall, 1982 tồn tại một số khoảng trống về một số thành phần quan trọng như sự cảm nhận của khách du lịch, kinh nghiệm, đặc điểm tính cách của khách và tiến trình thu nhận cũng như xử lý thông tin. Để giải quyết vấn đề này, Gilbert (1991) đã đề xuất mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định lựa chọn và tiêu dùng của khách hàng.

Kinh tế-xã hội Văn hóa

Động cơ Nhận thức

Du khách người ra quyết định

Cá tính, tính cách Kinh nghiệm

Nhóm tham khảo Gia đình

Hình 1.5. Mô hình ra quyết định của người tiêu dùng (Gilbert, 1991)

Mô hình này gồm hai nhóm tương đương với 2 mức độ ảnh hưởng là nhóm các yếu tố thuộc đặc điểm cá nhân như động cơ, cá tính hay tính cách, nhận thức cũng như kinh nghiệm của khách hàng liên quan đến sản phẩm hay dịch vụ. Nhóm yếu tố ảnh hưởng thứ hai thuộc yếu tố môi trường như sự tác động của tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, sự tham vấn của nhóm

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(11)

tham khảo và gia đình trong việc ra quyết định lựa chọn mua một sản phẩm, dịch vụ bất kì, trong đó có lựa chọn điểm đến cho chuyến đi du lịch của mình.

2.3. Các yếu tốảnh hưởng đến hành vi mua dịch vụ du lịch của du khách

Theo Um và Crompton [35] quyết định lựa chọn điểm đến là hoạt động quyết định chọn lựa một trong các điểm đến nhóm các điểm đến đã tìm hiểu và nhận thấy rằng đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của du khách. Do vậy việc quyết định lựa chọn điểm đến được xác định là bước tiếp theo của quá trình lựa chọn điểm đến (với bước đầu tiên là sự nhận thức về một nhóm điểm đến thoả mãn yêu cầu của du khách trong tất cả các điểm đến mà họ đã tìm hiểu).

Hiện nay các mô hình nghiên cứu về lựa chọn điểm đến đều có xuất phát chung là các lý thuyết về hành vi của người người tiêu. Có thể coi quyết định lựa chọn điểm đến của du khách là một quá trình quyết định mua một sản phẩm hàng hoá. Do vậy quyết định lựa chọn điểm đến của của du khách là quá trình phức tạp đồng thời bị tác động của nhiều yếu tố từ bên trong cũng như các yếu bên ngoài.

2..3.1. Yếu t bên trong - Động cơ du lịch:

Động cơ du lịch được hình thành từ các yếu tố tâm lý cá nhân của mỗi du khách. Động cơ thúc đẩy và duy trì hoạt động cá nhân, làm cho hoạt động này diễn ra theo đúng mục tiêu đã định. Với mỗi động cơ du lịch khác nhau sẽ ảnh hưởng tới quyết định chọn điểm đến của du khách. Crompton [25] đã đưa ra một mô hình về động cơ du lịch đó là mô hình động cơ đẩy (Push motivation) và kéo (Pull motivation). Động cơ đẩy rất có ý nghĩa trong việc giải thích mong muốn đi du lịch trong khi động cơ kéo lý giải cho việc lựa chọn điểm đến của du khách.

Động cơ đẩy (động cơ bên trong) đề cập đến những yếu tố bên trong thúc đẩy hoặc tạo ra mong muốn được thỏa mãn nhu cầu đi du lịch ví dụ như những yếu tố thuộc về vật chất như muốn được nghỉ ngơi thư giãn, yếu tố thuộc về văn hóa như muốn khám phá những vùng đất hay địa danh mới, yếu tố thuộc về mối quan hệ giữa các cá nhân như muốn giao lưu kết bạn hay gắn bó tình cảm gia đình, yếu tố muốn thể hiện hay khẳng định bản thân.

Động cơ kéo (cảm nhận về điểm đến) chính là các thuộc tính của điểm du lịch mà có thể đáp lại và củng cố hoặc kích thích thêm những động cơ đẩy vốn có. Nó bao gồm các nguồn lực hữu hình như bãi biển, các hoạt động giải trí và sức hút từvăn hóa bản địa; sự cảm nhận cũng như mong đợi của khách du lịch như kỳ vọng trải nghiệm được nét mới lạ độc đáo của điểm đến, kỳ vọng có được nhiều lợi ích từ điểm đến.

- Thái độ:

(12)

Thái độ sẽ thể hiện những cảm xúc thiện chí hay không thiện chí về một đối tượng. Thái độ của du khách với một điểm đến du lịch bao gồm nhiều yếu tố như lòng tin, quan điểm, mong muốn, kinh nghiệm, cũng như phản ứng của du khách tới mỗi điểm đến. Từ đó các du khách sẽ tạo lên sự liên kết đối với điểm đến, sau đó họ sẽđưa ra các quan điểm đánh giá cũng như hành động lựa chọn đối với sản phẩm điểm đến.

Trong nghiên cứu các yếu tốảnh hưởng đến lựa chọn điểm đến, Fishbein và Ajzen (theo

[35]) nhấn mạnh rằng đo lường thái độ phải dựa trên thái độ của khách du lịch đối với các hành động của họ tại một nơi nhất định, chứ không phải là thái độ đối với các điểm đến.

2.3.2. Yếu t bên ngoài - Hình ảnh điểm đến:

Theo Lin và cộng sự [27]cho rằng hình ảnh điểm đến là nhận thức của du khách về một điểm đến cụ thể, một vùng miền nào đó, là yếu tố khách quan mà khách du lịch cảm thấy về một điểm đến du lịch. Theo Crompton [25] hình ảnh điểm đến đại diện cho sự mong đợi về một điểm đến và có thể thúc đẩy họ thực hiện chuyến đi.

Khi xem xét tới các yếu tố của điểm đến, phần lớn nhà nghiên cứu đều cho rằng hình ảnh điểm đến là đặc điểm rất quan trọng và thường có ảnh hưởng rõ rệt tới quyết định lựa chọn điểm đến đối với du khách. Chính vì vậy yếu tố hình ảnh điểm đến luôn là khái niệm được nghiên cứu và đánh giá nhiều nhất trong các nghiên cứu của ngành du lịch hiện đại bởi vì hình ảnh điểm đến đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến sự lựa chọn điểm đến cũng như sự hài lòng trong hành trình du lịch [16].

- Các yếu tố marketing:

Tác giả Woodside và Steven Lysonski (1989) cho rằng nếu ĐĐDL nào có thể đưa ra được các sản phẩm du lịch tốt, ở một mức giá phù hợp, truyền thông các thuộc tính của điểm đến một cách hợp lý cũng như có cách phân phối sản phẩm qua các kênh bán hàng thích hợp thì điểm đến đó sẽ gia tăng cơ hội được khách du lịch tìm đến [37].

Các thuộc tính có thể kể tới như yếu tố marketing như: giá tour du lịch, địa điểm cung cấp tour du lịch và truyền thông.

Giá cả tour du lịch là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn dịch vụ du lịch của du khách. Khi có sự chênh lệch về giá cả tour ở các điểm đến có chất lượng tương đương thì khách du lịch thường chọn những địa điểm có mức giá tour rẻ hơn và phù hợp với chi tiêu của họ.

Địa điểm cung cấp tour du lịch. Yếu tố này đề cập đến địa điểm và cách thức đặt tour. Sự thuận tiện và sẵn có của địa điểm cung cấp tour du lịch đến một điểm đến cụ thể, cùng với cách thức đặt tour nhanh gọn sẽ làm cho khả năng quyết định lựa chọn đi du lịch tới điểm đến đó của

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(13)

du khách cao hơn.

Trong truyền thông, quảng cáo là hình thức chủ yếu tác động đến hành vi lựa chọn điểm đến của du khách. Quảng cáo qua các phƣơng tiện truyền thông và quảng cáo qua truyền miệng.

Với yếu tố này, cần xem xét nội dung của truyền thông có thể hiện và làm nổi bật được hình ảnh điểm đến hay không.

- Nhóm tham khảo:

Nhóm tham khảo (bạn bè, gia đình và ngườii thân) có ảnh hưởng hết sức quan trọng đến hành vi lựa chọn dịch vụ du lịch của khách du lịch.

Nhóm tham khảo là nhóm mà cá nhân chịu sự chi phối và tác động đến hành vi lựa chọn dịch vụ du lịch. Ảnh hưởng của nhóm tham khảo đến hành vi lựa chọn của du khách thông qua dư luận xã hội (dư luận nhóm) về điểm đến du lịch, dịch vụ du lịch. Cá nhân có tính cộng đồng càng cao thì ảnh hưởng dư luận của nhóm càng mạnh. bao gồm bạn bè, gia đình và người thân có sức ảnh hưởng quan trọng đến hành vi lựa chọn dịch vụ du lịch của khách du lịch.

- Các yếu tố thuộc đặc điểm chuyến đi:

Nghiên cứu của Mathieson và Wall [29] chỉ ra rằng các yếu tố thuộc về đặc điểm chuyến đi ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn dịch vụ du lịch của khách du lịch. Theo hai tác giả này, các yếu tố đặc điểm chuyến đi bao gồm: khoảng cách, thời gian lưu trú, số lượng khách tham gia, chi phí chuyến đi, mức độ rủi ro.

(14)

Ví d 2

Nghiên c u ảnh hưở ng c a t ch ất cá nhân nhà lãnh đạ o t i k ế t qu lãnh đạ o doanh nghi p Vi t Nam

1.1.Tổng quan các công trình nghiên cứu ngoài nước

1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về tố chất cá nhân của nhà lãnh đạo

Theo các quan điểm nghiên cứu khác nhau, một hoặc một nhóm tố chất nhất định sẽ có tác động tích cực tới kết quả lãnh đạo, giúp nhà lãnh đạo thành công trong khi một hoặc một nhóm tố chất khác lại có tác động hoàn toàn ngược lại. Dưới đây là một số quan điểm nghiên cứu cơbản.

Nghiên cứu phẩm chất cá nhân của nhà lãnh đạo Sankar (2003) cho rằng “tầm nhìn, mục tiêu, định vị bản thân, chiến lược, đạo đức nghề nghiệp, thái độ làm việc, nhận thức, chuẩn mực đạo đức, hành vi và nhu cầu tự hoàn thiện” là những tố chất cá nhân giúp cho nhà lãnh đạo thành công trong công việc.

Về mối quan hệ giữa tố chất cá nhân với hoạt động lãnh đạo và hiệu quả công việc, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa những yếu tố này với một số phẩm chất cá nhân như: lòng can đảm, sự chính trực, sự say mê, lòng trắc ẩn, sự lạc quan, lòng tốt, tính nhân bản, có mục đích, vị tha (Bright, Cameron và Caza, 2006).

Về mối quan hệ giữa những tố chất cá nhân và mức độ thỏa mãn trong công việc và cuộc sống, Aristotle đưa ra 13 tố chất bao gồm: lòng can đảm, thái độ ôn hòa, tính phóng khoáng, sự đàng hoàng, lòng kiêu hãnh, thái độ tích cực, sự thân thiện, đáng tin cậy, được thừa nhận, lòng tự trọng, sự công bằng, danh dự và sự chân thành (Chun, Yammarino, Dionne, Sosik và Moon, 2009).

Một đóng góp quan trọng làm sáng tỏ lý thuyết tố chất lãnh đạo đến từ lĩnh vực tâm lý học phải kể đến là Mô hình 5 tố chất (Big five personality trait, Five factor model) do Judge, Bono, Illies và Gerhardt (2002) đề xuất, bao gồm:

Tư duy mở, ham hiểu biết (Openness) thể hiện thông qua việc sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến phản biện, những ý tưởng khác thường, khuyến khích những

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(15)

phát minh, sáng chế, sự sáng tạo trong công việc; đồng thời cũng thể hiện sự tự do và bay bổng trong tư duy và hành động vượt ngoài những khuôn mẫu.

Sự tận tâm trong công việc (Conscientiousness) thể hiện thông qua cách thức làm việc có nguyên tắc, được hoạch định cẩn thận và có hiệu quả.

Tính hướng ngoại (Extraversion) thể hiện định hướng ra bên ngoài, năng động, hoạt bát, tư duy tích cực, tính cộng đồng cao, giao tiếp tốt và sẵn sàng thiết lập mối quan hệ với các cá nhân khác.

Tính tình dễ chịu, ôn hòa (Agreeableness) thể hiện thông qua sự thân thiện, cảm thông, hợp tác hơn là ngờ vực và chống đối người khác; ngoài ra còn thể hiện sựđáng tin và sẵn lòng giúp đỡngười khác.

Chế ngự cảm xúc (Neuroticism) thể hiện ở khả năng vượt qua những tâm trạng thiếu tích cực như giận giữ, lo lắng, thất vọng hoặc bị tổn thương để đạt được sự cân bằng về mặt tâm lý và kiểm soát được cảm xúc.

Việc Judge, Bono, Illies và Gerhardt (2002) chỉ ra 5 nhóm tố chất trên giúp làm sáng rõ hơn nội dung những tố chất giúp nhà lãnh đạo thành công, tuy nhiên việc phân nhóm và lý giải nội hàm của những tố chất này còn mang tính tổng quát và quá nghiêng về khía cạnh tâm lý học nên chưa thật sự hiệu quả để sử dụng đánh giá các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực quản trị và kinh doanh.

Cũng bắt nguồn từ lĩnh vực tâm lý học, nhưng cách phân nhóm của Peterson và Seligman (2004) rõ ràng và phù hợp hơn khi áp dụng nghiên cứu tố chất của nhà lãnh đạo trong quản trị và kinh doanh. Peterson và Seligman (2004) đã nghiên cứu và chỉ ra 24 đặc điểm nổi bật trong tính cách cá nhân và nhóm chúng thành 6 nhóm tố chất giúp mỗi cá nhân, nhà lãnh đạo thành công, thỏa mãn với công việc.

Sự hiểu biết (Winsdom): Óc sáng tạo, ham hiểu biết, sự sẵn sàng tiếp thu, ham học hỏi, khảnăng bao quát;

Lòng can đảm (Courage): Sựdũng cảm, kiên trì, chính trực, say mê;

Tính nhân bản (Humanity): Sự nhân ái, lòng tốt và khảnăng giao tiếp;

Sự vượt trội (Transcendence): Hay tư tưởng vượt trội thể hiện qua sự cầu toàn đồng thời trân trọng kế quả làm việc của người khác, luôn lạc quan, hài hước và có niềm tin vào cuộc sống, công việc;

(16)

Sự kiềm chế (Temperance): Lòng vị tha với người khác, sự khiêm tốn với bản thân, sự cẩn trọng trong công việc, tính kỷ luật và tự chủ;

Sự công bằng (Justice): Tinh thần đồng đội, công tâm và khảnăng dẫn dắt.

Các tố chất này đã được Noel Balliett Thun (2009) sử dụng để xem xét mối quan hệ giữa tố chất cá nhân và hiệu quả lãnh đạo trong tổ chức thông qua việc phát triển bảng hỏi gồm 26 câu và đã chứng minh được độ tin cậy của thang đo này (Character Strength in Leadership Survey – CSL) khi so sánh kết quả thu được với các thang đo khác đã được thừa nhận trước đó như Lý thuyết cấp trên – cấp dưới (LMX), Bảng hỏi đa nhân tố về lãnh đạo (Multi-Factor leadership questionnaire).

Bảng 1.1. Bảng tổng kết các nghiên cứu về tố chất lãnh đạo (Tích cực)

Tác giả/Năm công bố

So sánh những tố chất tương ứng với cách phân loại của Peterson và Seligman Lòng

đảmcan

Tính nhân bản

vượt Sự trội

kiềmSự chế

hiểuSự biết

chất Tố khác

Judge, Piccolo, Kosalka (2009) X X X (1)

Sarros, Cooper và Hartican (2006)

X x X

Chun, Yammarino, Dionne,

Sosik, Moon (2009) X x x

Bright, Cameron và Caza (2006) X x X x

Peterson và Seligman (2004) X X X X X X(2)

Sankar (2003) x x x (3)

Judge, Bono, Illies và Gerhardt (2002)

x x X X x (4)

Big Five Traits Theory X X X (5)

(Nguồn: Tổng hợp kết quả nghiên cứu của tác giả) Trong đó:

• X: Đề cập đến cùng một / một số tố chất; x: Có sựtương thích nhất định.

• (1): Giống Big Five Traits Theory và đánh giá bản thân, thông minh, uy tín.

• (2): Sự công bằng.

• (3): Chuẩn mực đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, nhu cầu tự hoàn thiện.

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(17)

• (4): Tính hướng ngoại.

• (5): Sự tận tâm, tính hướng ngoại và sự ôn hòa

Một mặt, các nhà nghiên cứu tập trung đánh giá ảnh hưởng của các tố chất tích cực đến kết quả lãnh đạo, mặt khác, các nghiên cứu về các tố chất có ảnh hưởng tiêu cực cũng xuất hiện nhiều hơn. Trong các nghiên cứu về các tố chất có tác động tiêu cực (dark traits), nổi lên những nghiên cứu về nhóm 3 tố chất bao gồm Tự cao tự đại (narcissism), Thủ đoạn xảo quyệt (machiavellianism) và Sự thiếu ổn định về tâm lý (spychopathy).

Schaubroeck, Walumbwa, Ganster và Kepes (2007) đã kiểm chứng một mô hình về sự tác động qua lại giữa đặc điểm của công việc và những tố chất không tích cực của cá nhân nhà lãnh đạo tới sự căng thẳng về thể chất và tinh thần của nhân viên dưới quyền, thái độ của họ đối với công việc và những cam kết gắn bó với tổ chức.

Rauthmann và Kolar (2012) giả định rằng khía cạnh tiêu cực của mỗi cá nhân có thể được đo lường thông qua ba tiêu chí gồm sự khao khát, tầm quan trọng của công việc đối với bản thân mỗi người và tầm quan trọng đối với người khác. Kết quả nghiên cứu của họ đã chỉ ra rằng, mặc dù trước đó được đánh giá là như nhau nhưng trên thực tế sự tự cao tự đại được đánh giá là tác động tích cực hơn tới sự chấp nhận của nhân viên so với hai tính cách còn lại.

Jonason, Slomski và Partyka (2012) lại coi 3 tố chất này như là thước đo để đánh giá nhân viên tiêu cực và là dấu hiệu để nhận biết những sách lược mà họ sẽ sử dụng tại nơi làm việc. Kết quả là, sự thiếu ổn định về tâm lý và tính cách xảo quyệt có mối liên hệ chặt chẽ với những phản ứng cứng nhắc như sự đe dọa... trong khi đó tính cách xảo quyệt và việc quá yêu bản thân lại có liên quan chặt chẽ đến những phản ứng mềm mỏng như khen ngợi hay ca tụng người khác.

Một khía cạnh khá thú vị khác mà các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra là những tố chất tiêu cực cũng có khía cạnh tích cực và ngược lại. Đề cập đến vấn đề này có nghiên cứu của Judge, Piccolo và Kosalka (2009) và Furnham, Trickey và Hyde (2012). Trong đó, Furnham, Trickey và Hyde (2012) nghiêng về khía cạnh

(18)

tâm lý học đã chỉ ra những tính cách tiêu cực có mối quan hệ chặt chẽ đến cả thành công và thất bại trong những công việc cụ thể. Kết quả này được minh chứng thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa 11 tố chất tiêu cực với 6 thước đo tự đánh giá hành vi trong công việc. Trong một nghiên cứu trước đó, Judge, Piccolo và Kosalka (2009) cũng cho rằng các tố chất tích cực của nhà lãnh đạo (ham hiểu biết, sự tậm tâm, tính hướng ngoại, sự ôn hòa, khả năng chế ngự cảm xúc, khả năng tự đánh giá, sự thông minh, sức thu hút) và các tố chất tiêu cực của nhà lãnh đạo (Tự cao tự đại, ngạo mạn, tư tưởng thống trị và thủ đoạn xảo quyệt) đều có tính hai mặt và đều có ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả của hoạt động lãnh đạo.

1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu về kết quảlãnh đạo doanh nghiệp

Đo lường tác động, kết quả của hoạt động lãnh đạo được ghi nhận dưới các góc độ khác nhau, phục vụ các chủ đích nghiên cứu khác nhau.

Đầu tiên và phổ biến nhất là cách tiếp cận đánh giá kết quả lãnh đạo theo hai nhóm gồm nhóm các chỉ tiêu tài chính và nhóm các chỉ tiêu phi tài chính.

Đánh giá kết quả lãnh đạo thông qua nhóm các chỉ tiêu tài chính: Đây không phải là nhóm chỉ tiêu quan trọng trong việc đo lường kết quả và hiệu quả lãnh đạo vì các kết quả tài chính của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác thuộc môi trường kinh doanh và môi trường nội bộ doanh nghiệp. Các yếu tố này có thể là năng lực cạnh tranh, khả năng huy động và hiệu suất sử dụng nguồn lực, chu kỳ của ngành kinh doanh, chu kỳ kinh tế,khủnghoảng kinh tế,sựbiếnđộngcủa các yếu tố vĩ mô... Trong khi đó, hoạt động lãnh đạo và nghiên cứu hoạt động lãnh đạo bắt nguồn từ nghiên cứu hành vi tổ chức (Organizational Behavior) thường mang tính định tính và có tác động lâu dài. Có thể kết quả của thời kỳ / giai đoạn này lại bắt nguồn từ những hành vi, quyết định của giai đoạn trước đó. Do đó, các chỉ tiêu tài chính thường khó có mối tương quan chặt chẽ với hoạt động lãnh đạo, có thể có ảnh hưởng, tác động nhưng thường phải được nghiên cứu và ghi nhận theo thời gian tại nhiệmcủa nhà lãnh đạo. Các chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá bao gồm: Doanh số/Lợi nhuận,tốcđộtăngtrưởng, giá trị doanh nghiệp/thị giá cổphiếu...

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(19)

Koene, Vogelaar và Soeters (2002) nghiên cứu tác động của phong cách lãnh đạo với kết quả lãnh đạo thông qua việc đo lường hai chỉ tiêu tài chính (lợi nhuận ròng và các chi phí có thể kiểm soát) và 3 chỉ tiêu đánh giá về môi trường của doanh nghiệp (năng suất của doanh nghiệp, sẵn sàng đổi mới và giao tiếp trong doanh nghiệp) tại 50 siêu thị thuộc một chuỗi siêu thị lớn của Hà Lan. Kết quả đã chỉ ra có một mối quan hệ rõ ràng giữa phong cách lãnh đạo với kết quả tài chính và môi trường làm việc tại từng siêuthị.

Đánh giá kết quả lãnh đạo thông qua nhóm các chỉ tiêu phi tài chính: Đây là những nhóm chỉ tiêu được sử dụng phổ biến hơn và được đánh giá cao hơn khi dùng đo lường kết quả của hoạt động lãnh đạo trong doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu khác nhau sử dụng các tiêu chí khác nhau để đo lường.

Knippenberg và Hogg (2003), tập trung nghiên cứu về mô hình mang tính xã hội về sự lãnh đạo trong tổ chức, đã nhấn mạnh đến những đặc điểm cá nhân của nhà lãnh đạo với tư cách là thành viên trong nhóm và khả năng của họ trong việc thuyết sự lãnh phục, dẫn dắt các thành viên khác của nhóm. Để đo lường tác động hay kết quả sự lãnh đạo này, các tác giả sử dụng nhóm 4 chỉ tiêu bao gồm kết quả và động lực làm việc của nhân viên dưới quyền, sẵn sàng đổi mới, sự tuân thủ, nhận thức về hiệu quả và uy tín cá nhân của nhà lãnh đạo.

Piero, Cicero, Bonaiuto, Knippenberg và Kruglanski (2005) cũng đã đo lường kết quả của hoạt động lãnh đạo thông qua 4 chỉ tiêu bao gồm đánh giá của nhân viên về hiệu quả lãnh đạo, sự thỏa mãn trong công việc, tự đánh giá kết quả cá nhân và mong muốn thay đổi công việc. Thực chất các nhà nghiên cứu này mong muốn đo lường tác động điều tiết của nhu cầu mở rộng nhận thức lên mối quan hệ giữa phong cách lãnh đạo với kết quả lãnh đạo, với đối tượng nghiên cứu là 242 người lao động trong 3 công ty của Italia (lĩnh vực lọc hóa dầu, sản xuất và điệntử).

Cách phân nhóm thứ hai do tác giả đề xuất là đánh giá kết quả lãnh đạo thông qua nhóm các chỉ tiêu về kết quả làm việc của nhân viên dưới quyền và kết quả lãnh đạo chung trong doanh nghiệp. Trong đó, kết quả lãnh đạo thông qua nhân viên dưới quyền bao gồm các chỉ tiêu:

(20)

• Sự nhận thức về kết quảlãnh đạo của nhà lãnh đạo (Piero, Cicero, Bonaiuto, Knippenberg và Kruglanski, 2005; Reave 2005; Knippenberg và Hogg, 2003;

Koene, Vogelaar và Soeters 2002; Mumford, Zaccaro, Jonhson, Diana, Gilbert và Threlfall, 2000...)

• Sự thỏa mãn trong công việc và động lực làm việc (Piero, Cicero, Bonaiuto, Knippenberg và Kruglanski, 2005...)

• Cam kết gắn bó với tổ chức (Piero, Cicero, Bonaiuto, Knippenberg và Kruglanski, 2005; Thunn, 2009; Reave, 2005...)

• Đạo đức nghề nghiệp (Reave, 2005...)

Kết quả lãnh đạo chung trong doanh nghiệp được đánh giá thông qua các chỉ tiêu tổng quát hơn, bao trùm hơn bao gồm:

• Kết quả hoạt động gồm lợi nhuận ròng và kiểm soát chi phí (Koene, Vogelaar và Soeters, 2002...)

• Năng lực tổ chức hoạt động (Koene, Vogelaar và Soeters, 2002; Cavazotte, Moreno, Hickmann, 2012...)

• Tư tưởng và sự sẵn sàng đổi mới, cải cách trong doanh nghiệp (Knippenberg và Hogg, 2003; Koene, Vogelaar và Soeters, 2002, Cavazotte, Moreno, Hickmann, 2012...)

• Giao tiếp trong doanh nghiệp (Cavazotte, Moreno, Hickmann, 2012...)

Trong quá trình thống kê các công trình nghiên cứu đã công bố về quan điểm và các tiêu chí đo lường kết quả lãnh đạo, tác giả đã nhận thấy một số tiêu chí / nhóm tiêu chí được nhiều tác giả trước đó sử dụng khá phổ biến. Các tiêu chí đánh giá này được ghi nhận và nhóm vào 5 nhóm bao gồm:

Nhóm A: Sự thỏa mãn trong công việc

Nhóm B: Cam kết gắn bó với tổ chức

Nhóm C: Sức khỏe tâm lý, sự thoải mái tinh thần

Nhóm D: Năng lực tổ chức hoạt động

Nhóm E: Tư tưởng sẵn sàng đổi mới

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(21)

Các tiêu chí được liệt kê và phân vào 5 nhóm kể trên khá phổ biến, mang tính đại diện và phù hợp với mục tiêu nghiên của tác giả đã trình bày trong luận án. Cụ thể, các nghiên cứu về tiêu chí đo lường kết quả lãnh đạo doanh nghiệp của các tác giả trước đó được thống kê, so sánh trong Bảng 1.2 dưới đây:

Bảng 1.2. Các tiêu chí đo lường kết quảlãnh đạo tổ chức / doanh nghiệp

TT Nhóm tác giả / Năm Tiêu chí đo lường kết quả lãnh đạo Nhóm 1 Piero, Cicero,

Bonaiuto, Knippenberg và Kruglanski (2005)

• Nhận thức về kết quả lãnhđạo

• Thỏa mãn trong côngviệc

• Tự đánh giá cá nhân

• Mong muốn thay đổi việc

--- A ---

B 2 Knippenberg và Hogg

(2003)

• Kết quả, động lực làmviệc

• Sẵn sàng đổi mới

• Sự tuân thủ, chấp hành

• Kết quả và uy tín nhà lãnhđạo

--- E --- --- 3 Koene, Vogelaar và • Uy tín của nhà lãnhđạo

• Kết quả hoạt động o Lợi nhuận ròng

o Chi phí có thể kiểm soát

• Môi trường doanhnghiệp

o Năng lực tổ chức hoạtđộng o Sẵn sàng đổimới

o Giao tiếp trong DN

--- Soeters (2002)

--- --- D

E --- (Nguồn: Tổng hợp kết quả nghiên cứu của tác giả)

1.1.3. Tổng quan các nghiên cứu vềảnh hưởng của tố chất cá nhân tới kết quả lãnh đạo doanh nghiệp

Một số tác giả có phân nhóm các cấp lãnh đạo khi đo lường ảnh hưởng của tố chất các nhân với kết quả lãnh đạo như nghiên cứu của Mumford, Zaccaro, Jonhson, Diana, Gilbert và Threlfall (2000). Các tác giả này nghiên cứu các sỹ quan trong quân đội Hoa Kỳ, họ đối tượng nghiên cứu thành 2 nhóm cấp trung và cấp cao rồi đánh giá kết quả lãnh đạo thông qua chất lượng của các quyết định, phân tích phản biện, kết quả lãnh đạo của cá nhân. Các tố chất - tính cách được xem xét thành 7 nhóm tiêu biểu với các mức độ thể hiện cao thấp bao gồm: Chi tiết, hướng ngoại, hướng nội, thích nghi, tự do, tranh đấu và đổi mới.

(22)

Thực tế, cách phân nhóm tố chất –tính cách của các tác giả này khó lý giải, khá trùng lặp và thiếu nhất quán. Tuy vậy, họ cũng đã chỉ ra được những tiêu chí đánh giá kết quả lãnh đạo và chứng minh sự khác biệt ở các cấp lãnh đạo khác nhau.

Tiếp cận dưới góc độ các giá trị tinh thần và hành vi cụ thể, Reave (2005) đã xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố này và hiệu quả lãnh đạo. Trong đó những tố chất cá nhân bao gồm sự chính trực, sự trung thực và tính nhân bản; các hành vi hay kỹ năng lãnh đạo như tôn trọng người khác, đối sử công bằng, biết quan tâm chia sẻ, biết lắng nghe, ghi nhận kết quả làm việc của nhân viên, có đức tin có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả và hiệu quả lãnh đạo. Để đo lường kết quả lãnh đạo, Reave tập trung vào kết quả lãnh đạo đối với cá nhân bao gồm các yếu tố như sự nhận thức, động lực làm việc, sự thỏa mãn trong công việc, sự gắn bó, đạo đức nghề nghiệp của nhân viên dưới quyền.

Noel Balliett Thunn (2009) nghiên cứu về ảnh hưởng của 6 nhóm gồm 24 tố chất cá nhân theo cách phân loại của Peterson và Seligman (2004) bao gồm sự hiểu biết, lòng can đảm, tính nhân bản, sự vượt trội, sự kiềm chế và sự công bằng.

Để đo lường kết quả hoạt động lãnh đạo, Thunn sử dụng 3 nhóm tiêu chí bao gồm:

Hành vi cá nhân (sự thỏa mãn trong công việc, niềm tin, sự tận tâm), cam kết gắn bó và sức khỏe tâm lý. Thunn cũng phát triển bảng hỏi gồm 26 câu và đã chứng minh được độ tin cậy của thang đo này (Character Strength in Leadership Survey – CSL) khi so sánh kết quả thu được với các thang đo khác đã được thừa nhận trước đó như Lý thuyết cấp trên – cấp dưới (LMX), Bảng hỏi đa nhân tố về lãnh đạo (Multi-Factor leadership questionnaire).

Cùng phạm vi nghiên cứu về nhà lãnh đạo trong các doanh nghiệp sản xuất, hai nhóm tác giả bao gồm Cavazotte, Moreno, Hickmann (2012) và Strohhecker, GroBler (2013) nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị vật tư, năng lượng. Các tác giả này cùng tiếp cận theo trường phái lãnh đạo cải cách (Transformational leadership) với việc đề cao các tố chất cá nhân như sự thông minh, nhân cách, trí tuệ xúc cảm, kiến thức.

Cụ thể, Cavazotte, Moreno, Hickmann (2012) nghiên cứu trên 134 nhà quản trị cấp trung của một công ty dầu khí Brazil và thấy rằng có sự ảnh hưởng

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(23)

rõ rệt của trí tuệ xúc cảm tới sự cải cách trong doanh nghiệp và lên kết quả hoạt động quản trị nội bộ của doanh nghiệp trong khi những ảnh hưởng này của các tố chất cá nhân khác (Big five traits theory) và sự thông minh là không rõ ràng. Trong nghiên cứu này, các tác giả cũng đã sử dụng giới tính, kinh nghiệm của nhà lãnh đạo, và kích thước nhóm như là các biến kiểm soát, có ảnh hưởng lên cả lãnh đạo cải cách và kết quả hoạt động quản trị.

Strohhecker, GroBler (2013) dựa vào mô hình PPIK (Process – Personality – Interest – Knowledge) cũng nghiên cứu sự ảnh hưởng của 4 tố chất bao gồm Sự thông minh – Tư duy theo quá trình, Kiến thức, Nhân cách và Sự say mê (Intelligence-as-Process, Intelligence-as-Knowledge, Personality, Interest

- PPIK) lên kết quả hoạt động quản trị sản xuất cụ thể là quản trị vật tư, nguyên vật liệu, kho tàng (Inventory Management Performance - IMP). Kết quả nghiên cứu chỉ ra sự thông minh có liên hệ chặt chẽ nhất tới kết quả hoạt động trong khi các yếu tố khác có mối quan hệ yếu hơn những tương đối rõ ràng.

Hình 1.1. Ảnh hưởng của sự khác biệt giữa các cá nhân tới lãnh đạo cải cách và kết quả quản trị nội bộ.

(Nguồn: Cavazotte, Moreno và Hickmann, 2012) Trí tuệ xúc

cảm Thông

minh Lãnh đạo

cải cách

Sự tận tâm Tính hướng ngoại

Kết quả quản trị nội bộ Tính tình ôn

hòa

Chế ngự cảm

xúc Biến kiểm soát:

Giới tính, kinh nghiệm quản trị, kích thước

(24)

Một nghiên cứu khá thú vị khác về đo lường ảnh hưởng của tố chất cá nhân tới kết quả lãnh đạo phải kể đến là mô hình đánh giá kết quả lãnh đạo 360 độ (Strang và Kuhnert, 2009). Hai tác giả này sử dụng lý thuyết về Cấp độ phát triển lãnh đạo (Leadership Developmental Level) làm lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu của mình, có đối chiếu so sánh với Mô hình 5 tố chất nhằm tìm ra những tố chất cá nhân có ảnh hưởng lớn đến kết quả lãnh đạo. Về đo lường kết quả lãnh đạo, hai tác giả gọi cách thức đo lường của mình là 360 độ khi họ thu thập và đánh giá kết quả của một nhà lãnh đạo thông qua cấp trên, cấp dưới và người đồng cấp với đối tượng mà họ đang nghiên cứu. Đây là một đóng góp thú vị về đo lường kết quả lãnh đạo của nhà lãnh đạo đối với tổ chức của họ; người lãnh đạo được đánh giá đa chiều, công bằng và chính xác hơn. Trong nghiên cứu này, hai tác giả cũng xem xét sự ảnh hưởng của tuổi tác, giới tính, đặc trưng công việc của nhà lãnh đạo tới kết quả lãnh đạo dưới góc độ là biến kiểm soát trong mô hình.

Hình 1.2. Sựảnh hưởng của PPIK lên IMP

(Nguồn: Strohhecker và GroBler, 2013) P –Tư duy

theo quá trình

P – Nhân cách

Kết quả quản trị vật tư, NVL, kho

tàng…

I – Sự say

K – Kiến thức

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(25)

Tiếp cận tổng hợp hơn, Jon Aarum Andersen (2006), đã xem xét mối quan hệ giữa nhân cách, tố chất cá nhân của nhà lãnh đạo với sự vượt trội của nhà lãnh đạo, sự nhận thức về kết quả lãnh đạo, hành vi và hiệu quả của tổ chức. Trong đó, các nghiên cứu liên quan đến lãnh đạo được tác giả chia thành 4 lĩnh vực bao gồm:

• Mối quan hệ giữa tố chất cá nhân của nhà lãnh đạo với sựvượt trội của nhà lãnh đạo và sự nhận thức về kết quả lãnh đạo.

• Mối quan hệ giữa tố chất cá nhân của nhà lãnh đạo với hiệu quả hoạt động của tổ chức.

• Mối quan hệ giữa tố chất cá nhân của nhà lãnh đạo với hành vi của nhà lãnh đạo.

• Mối quan hệ giữa hành vi của nhà lãnh đạo với hiệu quả hoạt động của tổ chức.

Hình 1.3. Mối quan hệ giữa tố chất cá nhân với sựvượt trội, sự nhận thức về kết quả lãnh đạo, hành vi và hiệu quả của tổ chức

(Nguồn: Jon Aarum Andersen, 2006) Các tiêu chí đã được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của các tố chất cá nhân tới kết quả lãnh đạo được thống kê trong Bảng 1.3. Các thống kê này sẽ là cơ sở để tác giả đề xuất bộ chỉ tiêu đánh giá ảnh hưởng của tố chất cá nhân nhà lãnh đạo tới kết quả lãnh đạo doanh nghiệp được sử dụng trong luận án.

Thông qua phần thống kê trong Bảng 1.3, ta có thể thấy các tác giả đo lường kết quả của hoạt động lãnh đạo chủ yếu thông qua các chỉ tiêu phi tài chính vì các chỉ tiêu tài chínhcó độ trễ thường phải được nghiên cứu và ghi nhận theo thời gian.

Hiệu quả hoạt động của tổ chức Hành vi của

nhà lãnh đạo Tố chất cá nhân

của nhà lãnh đạo

Sựvượt trội của nhà lãnh đạo &

Nhận thức về kết quảlãnh đạo

(26)

Bảng 1.3. Tiêu chí đo lường ảnh hưởng tố chất cá nhân tới kết quảlãnh đạo Nhóm tác giả / Năm Tố chất cá nhân Tiêu chí đo lường

kết quả lãnh đạo Nhóm 1 Strohhecker, GroBler (2013)

• Thông minh

• Kiếnthức

• Nhân cách

• Sự say mê

• Quản trị vật tư, nguyên vật liệu, kho tàng

--- 2 Cavazotte, Moreno, Hickmann (2012)

• Trí tuệ xúccảm

• Thông minh

• Tư duy mở

• Sự tận tâm

• Tính hướngngoại

• Dễ chịu, ôn hòa

• Chế ngự cảm xúc

• Cải cách trong doanh nghiệp

• Kết quả hoạt động quảntrị

--- ---

3 Mumford, Zaccaro, Jonhson, Diana, Gilbert và Threlfall (2000)

• Chi tiết

• Hướngngoại

• Hướng nội

• Thích nghi

• Tự do

• Tranh đấu

• Đổi mới

• Chất lượng các quyết định

• Phân tích phảnbiện

• Kết quả lãnh đạo của cá nhân

--- --- --- --- 4 Thunn (2009)

• Sự hiểubiết

• Lòng can đảm

• Tính nhân bản

• Sự vượttrội

• Sự kiềm chế

• Sự côngbằng

• Hành vi cá nhân

-Thỏa mãn trong côngviệc - Niềm tin

- Sự tận tâm

• Cam kết gắn bó

• Sức khỏe tâm lý

A

B C 5 Reave (2005)

• Sự chínhtrực

• Sự trungthực

• Tính nhân bản

• Tôn trọng người khác

• Đối sử côngbằng

• Quan tâm chia sẻ

• Biết lắng nghe

• Biết ghi nhận

• Có đức tin

• Sự nhậnthức

• Động lực làmviệc

• Sự thỏa mãn trong công việc

• Sự gắn bó

• Đạo đức nghềnghiệp

A B --- (Nguồn: Tổng hợp kết quả nghiên cứu của tác giả)

1.2.Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, các nghiên cứu về tố chất cá nhân của nhà lãnh đạo nói chung, về tố chất cá nhân của nhà lãnh đạo doanh nghiệp và tác động của nó tới kết quả lãnh đạo nói riêng còn rất hạn chế. Các nghiên cứu này theo một số hướng cơ bản như sau:

Hướng thứ nhất là các nghiên cứu mang tính chính trị tư tưởng, vận dụng quan điểm Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đạo đức phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc, lề lối làm việc... của người cán bộ Đảng viên, của

Downloaded by Le Huong Giang QP0203 ([email protected])

(27)

người lãnh đạo, của người quản lý. Theo đó, người lãnh đạo, người quản lý phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện mình để hạn chế khuyết điểm, tăng cường các ưu điểm tập trung ở 5 đức tính (Trần Nguyễn Tuyên, 2015): Nhân (Thật thà, hết lòng thương yêu đồng bào đồng chí, sẵn sàng chịu khổ, hy sinh...); Nghĩa (Ngay thẳng, không lo toan lợi ích cá nhân ngoài lợi ích của Đảng, của dân tộc; thấy việc phải nói – phải làm, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ...); Trí (Không bị việc tư túi làm mù quáng, làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, cho dân...); Dũng (Dũng cảm, không quản khó khăn, có gan sửa chữa khuyết điểm...); Liêm (Không tham địa vị, tiền tài; không háo danh...)

Cùng quan điểm trên, Trần Sỹ Phán (2004) chỉ ra ngoài phẩm chất đạo đức tốt, để hoàn thành nhiệm vụ, người cán bộ lãnh đạo vừa phải có năng lực chuyên môn giỏi. Trong đó, phẩm chất đạo đức bao gồm bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu về đạo đức và gần gũi với nhân dân. Bên cạnh đó, người lãnh đạo cũng cần có uy tín để xứng đáng là người cầm lái, đứng mũi chịu sào (Lãnh Thị Bích Hòa, 2006). Ngoài ra, cũng có những nghiên cứu về tố chất cá nhân của cán bộ lãnh đạo, nhà quản lý trong các cơ quan, đơn vị (Đỗ Minh Cương, 2006; Tương lai, 2006... Hướng này tập trung chủ yếu vào đội ngũ nhà lãnh đạo, nhà quản lý trong cơ quan nhà nước, nhấn mạnh yếu tố đức – tài và phẩm chất người lãnh đạo xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Một số nghiên cứu khác vẫn tập trung vào người lãnh đạo, quản lý trong cơ quan Nhà nước nhưng nhìn dưới c độ tâm lý học về nhân cách người lãnh đạo (Nguyễn Bá Dương, 2004; Lê Hữu Xanh, 2006; Vũ Anh Tuấn, 2009), nhân cách người làm quan (Lương Xuân Hà, 2007)... Với quan điểm này, nhân cách người lãnh đạo được nhìn dưới lăng kính Đức – Tài. Trong đó, “đức là cái gốc của người cách mạng” nhưng muốn đạt được hiệu quả cao trong công việc “ngoài kiến thức, vốn sống, kinh nghiệm,bảnlĩnh, tính quyếtđoán,tư duy củahọlạicầnphảimềmdẻo,uyển chuyển, linh hoạt” (Nguyễn Bá Dương, 2004). Hay theo Lê Hữu Xanh (2006), nhân cách người lãnh đạo là sự thống nhất giữa đức và tài, trong đó đức là gốc, tài là quan trọng; chú trọng năng lực tổ chức và quan tâm tới phẩm chất đạo đức.

Referensi

Dokumen terkait

Một số yếu tố liên quan đến thái độ về cho bú ngay sau sinh của thai phụ Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu với thái độ, kết quả chỉ ra rằng có mối

Trong số đó nghiên cứu của Ricci [9] về năng lực của nhân viên du lịch trong lĩnh vực kinh doanh lưu trú đã vận dụng ba yếu tố cấu thành năng lực - kiến thức, kĩ năng và thái độ - để

Bảng 1: Xây dựng thang đo cho biến nghiên cứu trong mô hình Tên biến Nội dung Thang đo Trích dẫn Thái độ ATT Du lịch sinh thái tại tỉnh Bến Tre thú vị AT1 Likert 1-5 Ajzen [19];

Số 134 | Tháng 5.2017 | Tạp chí Công nghệ ngân hàng 47 NguyễN HồNg THu Tóm TắT: Mục đích nghiên cứu là nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng vi mô TDVM của các

Kế thừa các mô hình nghiên cứu trước đây, đồng thời, thảo luận và trao đổi với các chuyên gia, nhóm tác giả đề xuất xây dựng mô hình nghiên cứu các yếu tố anh hưởng đếncông tác quản lý

Có thể kể đến một số nghiên cứu sau: [1] Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố phi sinh học đến động thái quần thể của sâu hại điều ở vùng Konkan thuộc Maharashtra của Ấn Độ, trong nghiên

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự hài lòng của du khách về chất lượng dịch vụ du lịch tại Khu du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên chịu ảnh hưởng bởi 6 nhóm nhân tố theo thứ tự giảm

Trong công trình nghiên cứu “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiện tượng đảo nhiệt đô thị bề mặt tại khu vực đô thi Bangkok, Thái Lan”, nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích ảnh