ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở BỆNH NHÂN LOẠN THẦN DO RƯỢU SAU KHI ĐIỀU TRỊ
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN HẢI PHÒNG
Lê Sao Mai1, Nguyễn Quang Đại1
TÓM TẮT18
Mục tiêu: 1. Đánh giá mối liên hệ giữa chất lượng cuộc sống của bệnh nhân với một số đặc điểm liên quan. 2. Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân loạn thần do rượu sau khi điều trị.
Phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên 64 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán loạn thần do rượu theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD10 đang điều trị tại bệnh viện Tâm thần Hải Phòng, đồng ý tham gia nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu được thu thập các thông tin về tuổi, tình trạng kinh tế, thời gian nghiện rượu, thời gian điều trị… đồng thời mỗi bệnh nhân được khảo sát chất lượng chất lượng cuộc sống 2 lần (lúc nhập viện và lúc ra viện) bằng thang đánh giá chất lượng cuộc sống EQ-5D-5L.
Kết quả: Đa số bệnh nhân ở lứa tuổi lao động từ 35-40, thu nhập bình quân của gia đình bệnh nhân từ 4-7 triệu đồng (34,37%) thời gian nghiện từ 10 đến 30 năm chiếm 80%. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân có mối quan hệ tương quan với thời gian nghiện rượu và thu nhập của gia đình (OR<1). Sau thời gian điều trị các khía cạnh của chất lượng cuộc sống bệnh nhân thay đổi theo hướng tích cực.
1Trường Đại học Y dược Hải Phòng Chịu trách nhiệm chính: Lê Sao Mai Email: [email protected] Ngày nhận bài: 16.3.2021
Ngày phản biện khoa học: 18.4.2021 Ngày duyệt bài: 20.5.2021
SUMMARY
ASSESSMENT OF CHANGES IN THE QUALITY OF LIFE IN PATIENTS WITH ALCOHOL PSYCHOSIS AFTER
TREATMENT AT HAI PHONG PSYCHIATRIC HOSPITAL
Objectives: 1. To evaluate the relationship between a patient's quality of life and related characteristics.
2. To evaluate changes in quality of life in patients with alcohol psychosis after treatment.
Methods: The study was conducted on 64 patients who diagnosed of alcohol psychosis according to ICD10's diagnostic standards and are being treated at Hai Phong Psychiatric Hospital, agreed to participate in the study.
Research subjects were collected information about age, economic status, duration of alcoholism, duration of treatment ... at the same time, each patient was surveyed his quality of life twice (at hospital admission and at discharge) using the EQ-5D-5L quality-of-life scale.
Results: Most patients in age 35-40, the average income of the patient's family is from 4 to 7 million VND (34.37%), the rduration of addiction is from 10 to 30 years, accounting for 80%. Patient's quality of life correlated with duration of alcoholism and family income (OR
<1). After the period of treatment all aspects of the patient's quality of life changed positivelly.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiện rượu là một rối loan tâm thần mạn tính và là một bệnh phổ biến, chiếm 1-10%
dân số. Nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy số nghười nghiện rượu ở thành thị là 4% và ở nông thôn là 3% dân số [1]. Để trở thành người nghiện rượu, bệnh nhân thường xuyên uống tối thiểu 300ml rượu 40 độ cồn, uống hàng ngày trong khoảng 10 năm. Nghiện rượu ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của bản thân bệnh nhân như gây ra các bệnh nội khoa mạn tính như tiểu đường, tang huyết áp, rối loạn mỡ máu, bệnh tim mạch, các bệnh đường tiêu hoá như xơ gan, viêm dạ dày… Bệnh nhân cũng có nguy cơ cao mắc các chấn thương ngoại khoa do say rượu, rối loạn tâm thần do rượu, giảm khả năng tình dục những biến đổi về nhân cách. Những bệnh nhân này thường giảm các chức năng xã hội, nghề nghiệp, giảm khả năng tự chăm sóc bản thân, giảm khả năng làm việc [1],[3].
Ngoài ra, bệnh cũng ảnh hưởng lớn đến gia đình của bệnh nhân. Loạn thần do rượu đóng vai trò khá lớn đối với vấn đề xung đột và bạo lực gia đình dẫn đến tình trạng hôn nhân đổ vỡ, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến cảm xúc của bệnh nhân. Khoảng 60% bạo lực gia đình xuất phát từ việc nghiện rượu [3].
Như vậy, có thể nói việc nghiện rượu và tình trạng loạn thần do rượu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của họ, tuy nhiên hiện nay có rất ít nghiên cứu đánh giá một cách cụ thể và khoa học về vấn đề này.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân loạn thần do rượu sau khi điều trị tại bệnh viện tâm thần Hải Phòng” với hai mục tiêu:
1. Đánh giá mối liên hệ giữa chất lượng cuộc sống của bệnh nhân với một số đặc điểm liên quan.
2. Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân loạn thần do rượu sau khi điều trị.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán loạn thần do rượu theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD10 đang điều trị tại bệnh viện Tâm thần Hải Phòng, đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. Cỡ mẫu thuận tiện: Nghiên cứu được tiến hành trên 64 bệnh nhân đang điều trị tại khoa điều trị lạm dụng chất bệnh viện Tâm thần hải Phòng.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang
3. Các bước tiến hành
Thu thập số liệu nghiên cứu (nghiên cứu được tiến hành từ tháng 5/2019 đến tháng 5/2020)
Lập hồ sơ bệnh án: Mỗi bệnh nhân tham gia nghiên cứu có một bệnh án nghiên cứu để khai thác bệnh sử, khám tâm thần đưa ra chẩn đoán xác định theo tiêu chuẩn ICD;
khai thác các yếu tố liên quan: tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, tình trạng kinh tế, thời gian nghiện rượu, các bệnh kèm theo. Việc khai thác các thông tin này sẽ được thu thập ngay khi bệnh nhân nhập viện và có thể được bổ sung trong suốt thời gian bệnh nhân nằm viện.
Phỏng vấn đối tượng tham gia nghiên cứu bằng thang đánh giá chất lượng cuộc sống EQ-5D-5L. Bộ công cụ này được phát triển bởi nhóm các nhà khoa học châu Âu (The EuroroQol Group) xây dựng. Bộ công cụ này đã được chứng minh hiệu quả và sử dụng rộng rãi trên thế giới trong các nghiên cứu.
Tại Việt Nam nó cũng đã được nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội và Trường Đại
học Umea, Thụy Điển nghiên cứu, chuấn hoá dưới sự giám sát của các chuyên gia Euroroqolroqol để có thể sử dụng phù hợp cho người Việt Nam [2],[4].
Việc phỏng vấn này sẽ được tiến hành hai lần:
Lần 1: khi bệnh nhân mới nhập viện điều trị. Việc phỏng vấn bệnh nhân trong những ngày đầu nhập viện có thể gặp khó khăn do một số bệnh nhân có rối loạn tâm thần nặng, không thể thực hiện quá trình phỏng vấn, do vậy việc thực hiện phỏng vấn lần này có thể không thể thực hiện được ngay khi bệnh nhân nhập viện nhưng làm sớm nhất ngay khi bệnh nhân có thể trả lời phỏng vấn.
Lần 2: Tiến hành khi bệnh nhân được xuất viện, khi tình trạng bệnh đã ổn định.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu:
Lứa tuổi từ 35-49 là lứa tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất với 52%. Lứa tuổi < 25 chỉ có 1 (2%) và trên 65 chiếm 2%. Như vậy, những đối tượng lẽ ra đang phải lao động làm kinh tế lại nằm viện điều trị, đây là một tổn thất, một thiệt thòi cho xã hội và gia đình chính họ.
2. Đặc điểm về kinh tế của đối tượng nghiên cứu:
Tổng thu nhập của cả gia đình trong khoảng từ 4-7 triệu/tháng chiểm tỉ lệ cao nhất với 34,37%. Chỉ có 6,25% thu nhập >9 triệu/tháng và 21,85% thu nhập từ 7-9 triệu/tháng. Còn lại là thu nhập dưới 3 triệu/tháng.
3. Đặc điểm về thời gian nghiện rượu của đối tượng nghiên cứu:
35,49% bệnh nhân có thời gian nghiện từ 10 đến 30 năm; 45.31% có thời gian nghiện từ 10 đến 20 năm; 14,06% nghiện trên 30 năm. Chỉ có 4,69% nghiện dưới 10 năm.
4. Mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống với tình trạng kinh tế
Biểu đồ 1. Mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống với tình trạng kinh tế OR = 0,3 < 1
Biểu đồ 1 cho thấy những gia đình có thu nhập càng thấp thì bệnh nhân có xu hướng có chất lượng cuộc sống càng giảm so với những bệnh nhân có thu nhập gia đình cao hơn (OR<1) Điều này có thể do bệnh nhân có thu nhập cao hơn thì có chế độ dinh dưỡng tốt hơn,
uống rượu đảm bảo chất lượng hơn. Ngược lại, bệnh nhân có chất lượng cuộc sống cao hơn thì khả năng lao động kiếm tiền của bản thân họ cũng có thể cao hơn.
5. Mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống với thời gian nghiện rượu của bệnh nhân
Biểu đồ 2: Mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống với thời gian nghiện rượu của bệnh nhân OR=0,024 < 1
Biểu đồ 2 cho thấy bệnh nhân có thời gian nghiện rượu càng lâu thì chất lượng cuộc sống có xu hướng càng giảm (OR<1).
Nguyên nhân là do những bệnh nhân nghiện nhiều năm thì sức khoẻ của họ sẽ bị suy giảm
nhiều hơn, khả năng lao động, tham gia các hoạt động xã hội và các mối quan hệ kém hơn. Bệnh nhân cũng có nguy cơ cao hơn bị các rối loạn tâm thần, cảm xúc thường xuyên lo lắng, giảm khả năng chăm
6. Sự thay đổi về khả năng tự chăm sóc của đối tượng nghiên cứu Bảng 1: Sự thay đổi về khả năng tự chăm sóc của đối tượng nghiên cứu
Khả năng tự chăm sóc Trước điều trị Sau điều trị P
Không khó khăn (1) 2(3,13) 57(89,06)
<0,05
Hơi khó khăn (2) 12(18,75) 7(10,94
Khá khó khăn (3) 24(37,50) 0
Rất khó khăn (4) 17(26,56) 0
Không thể tự chăm sóc (5) 9(14,06) 0
Trước khi điều trị có trên 90% bệnh nhân cảm thấy khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân, có 9 trường hợp phải dựa hoàn toàn vào nhân viên y tế và gia đình. Tuy nhiên,
sau thời gian điều trị tại khoa, 89,06% đã có thể tự chăm sóc bản thâ. Chỉ có 10,94% còn khó khăn trong các hoạt động này do chân tay còn run, sức khoẻ chưa hồi phục hoàn toàn.
Sự thay đổi về khả năng thực hiện các công việc thường ngày: từ 43,75% không thể thực hiện được các công việc thường ngày (thường là công việc lao động) lúc vào viện, đến khi ra viện không còn trường hợp nào.
Số bệnh nhân rất khó khăn trong việc thực hiện công việc hàng ngày giảm từ 43,19%
còn 1,56%. Mặc dù trong viện bệnh nhân không phải lao động tuy nhiên lúc ra viện nhiều bệnh nhân đã khẳng định mìn có thể đi làm hoàn toàn bình thường (39,06%).
42,19% cho rằng mình chưa thể đi làm ngay được mà cần một thời gian ngắn nghỉ ngơi trước khi đi làm.
7. Sự thay đổi về cảm giác đau đớn, khó chịu Bảng 2: Sự thay đổi về cảm giác đau đớn, khó chịu
Cảm giác đau đớn, khó chịu Trước điều trị Sau điều trị P Không đau hay khó chịu(1) 9(14,06) 58(90,63)
<0,05 Hơi đau hay khó chịu (2) 16(25,00) 6(9,38)
Khá đau hay khó chịu (3) 25(39,06) 0
Rất đau hay khó chịu (4) 13(20,31) 0
Cực kì đau hay khó chịu (5) 1(1,56) 0
Khi mới nhập viện có 25% cảm giác khó chịu, 39,06% khá khó chịu, 20,31% rất khó chịu, đặc biệt 1 trường hợp nhận định mình cực kì đau và khó chịu. Khi ra viện, đã có một sự thay đổi rõ rệt trong các con số trên.
Không có bệnh nhân nào cảm giác cực kì khó chịu, rất khó chịu hay khá khó chịu. Chỉ có 9,38% cảm giác hơi khó chịu và trên 90%
hoàn toàn không khó chịu.
8. Sự thay đổi về cảm xúc của bệnh nhân
Khi vào viện có trên 40% có lo lắng khá nhiều. Nguyên nhân của lo lắng rất đa dạng:
có thể lo âu là triệu chứng của hội chứng cai, lo âu do hoang tưởng, lo âu do ảo giác, thường là ảo thanh hoặc ảo thị. Điều đáng chú ý là 78,13% sau điều trị không còn cảm thấy lo lắng nữa, không còn trường hợp nào rất lo lắng hay cực kì lo lắng. Sự thay đổi tích cực này có thể do tác dụng của thuốc bình thần giải lo âu, thuốc an thần kinh và do
các triệu chứng khác của bệnh nhân thuyên giảm.
9. Sự thay đổi về chất lượng cuộc sống theo đánh giá của bệnh nhân trước và sau điều trị
Nếu như khi mới nhập viện, 7/64 trường hợp cho rằng chất lượng cuộc sống của mình chỉ có dưới 30; 15 trường hợp tù 30 đến 50 và chỉ có 12 trường hợp đánh giá điểm chất lượng cuộc sống từ 71 đến 90. Trước khi ra viện chỉ còn 2 trường hợp đánh giá chất lượng cuộc sống của mình dưới 50, có tới 41 trường hợp cho rằng điểm số này là 71-90 và 5 trường hợp có điểm 91-100..
V. KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu 64 bệnh nhân loạn thần do rượu điều trị tại khoa lạm dụng chất tại bệnh viện Tâm thần Hải Phòng từ tháng 2 đến tháng 10/2019 chúng tôi có một số kết luận sau
- Đa số bệnh nhân ở lứa tuổi lao động từ 35-40
- Thu nhập bình quân của gia đình bệnh nhân từ 4-7 triệu chiếm tỉ lệ cao nhất với 34,37%
- Đa số bệnh nhân có thời gian nghiện từ 10 đến 30 năm (80%)
- Thời gian điều trị của bệnh nhân tại khoa là 30,06 ngày
- Thu nhập càng thấp thì chất lượng cuộc sống bệnh nhân càng kém
- Thời gian nghiện rượu càng lâu thì chất lượng cuộc sống bệnh nhân càng giảm
- Sau thời gian điều trị các khía cạnh của chất lượng cuộc sống bệnh nhân thay đổi theo hướng tích cực: khả năng đi lại và lao động tốt hơn, khả năng tự chăm sóc tốt hơn, giảm khó chịu, giảm lo lắng.
- Sau điều trị, bệnh nhân tự nhận thấy chất lượng cuộc sống của mình cải thiện đáng kể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huy Bùi Quang (2010), Nghiện rượu, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
2. Minh Hoàng Văn and Sahlen Klas Gorran, Thang điểm đo lường chất lượng cuộc sống tại Việt Nam (sử dụng bộ cụ ED-5Q-5L).
2018: Hà Nội.
3. American Addiction Centrers.
https://americanaddictioncenters.org/alcoholis m-treatment/family-marital-problems. 2018.
4. Mark Oppe, et al.(2014), «A program of methodological research to arrive at the new international EQ-5D-5L valuation protocol», Value in Health, 17(4): p. 445-453.