• Tidak ada hasil yang ditemukan

đánh giá kết quả học tập của người học

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "đánh giá kết quả học tập của người học"

Copied!
10
0
0

Teks penuh

(1)

This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA NGƯỜI HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG HÌNH THÀNH NĂNG LỰC

VÀ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG THỰC TIỄN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Dương Thị Thúy Hà

Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt.Tiếp cận năng lực trong đổi mới giáo dục đang là xu hướng của nhiều nước trên thế giới. Điều đó được thể hiện trong mọi khâu, mọi khía cạnh của quá trình giáo dục, trong đó có kiểm tra, đánh giá. Bài viết đi sâu trình bày về đánh giá kết quả học tập của người học theo định hướng hình thành năng lực. Các vấn đề về đánh giá kết quả học tập của người học, Đánh giá theo định hướng phát triển năng lực, phương pháp và hình thức đánh giá theo định hướng phát triển năng lực được phân tích chi tiết. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số định hướng vận dụng trong giáo dục đại học.

Từ khóa: Đánh giá, đánh giá kết quả học tập, năng lực, hình thành năng lực, hình thức đánh giá.

1. Mở đầu

Trong hai thập kỉ gần đây, giáo dục thế giới đánh dấu những bước đổi mới mạnh mẽ về lí luận, thực tiễn, trong đó đánh giá (ĐG) được coi là khâu then chốt, là hệ phản hồi của quá trình dạy học, và là cơ sở để nâng cao chất lượng đổi mới. Điều này được phản ánh rõ nét trong các công trình nghiên cứu của Steve Frankland [16], W. James Popham [6], Flavia Ramos – Mattousi, Jeffrey Ayala Milligan [7] và A. Irons [11]. Các công trình của James H.Mc Millan [8],[9], P.W.Airasian [10] đã đi sâu phân tích các vấn đề về lí luận ĐG, ý nghĩa, vai trò, các khái niệm cơ bản và khái niệm liên quan cũng như các hướng vận dụng đánh giá hiệu quả trong thực tiễn giáo dục, thực tiễn hoạt động tổ chức lớp học.

ĐG theo tiếp cận năng lực (competency – based assessment) được đề cập trong nhiều công trình gần đây của Percy J. Worsnop [12], Richard A. Voorhees [13],. . . Các tác giả đã phân tích qui trình, kĩ thuật và công cụ ĐG năng lực, và nhấn mạnh vai trò của cách tiếp cận này đối với giáo dục nghề nghiệp.

Vấn đề đánh giá kết quả học tập (ĐG KQHT) trong dạy học cũng được nhiều nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu như Lê Khánh Bằng [3], Trần Bá Hoành [5], Hà Thị Đức, Đặng Vũ Hoạt [4],... Tác giả Đặng Vũ Hoạt, trong những bài viết của mình đã trình bày những vấn đề về vị trí, chức năng và các quan điểm kiểm tra đánh giá tri thức của sinh viên dưới góc độ lí luận dạy

Ngày nhận bài:2/11/2016. Ngày nhận đăng:15/2/2017.

Liên hệ: Dương Thị Thúy Hà, e-mail: [email protected].

(2)

học. Theo ông “khi kiểm tra đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo chúng ta cần kiểm tra thường xuyên, có hệ thống, có kế hoạch, kết hợp nhiều dạng, nhiều phương pháp kiểm tra; Cần giáo dục cho sinh viên ý thức đúng đắn đối với việc kiểm tra; ý thức tự kiểm tra... Đồng thời cần bồi dưỡng cho sinh viên ý thức tự đánh giá một cách đúng đắn và khiêm tốn”.

Cùng với xu hướng chung của thế giới, giáo dục Việt Nam cũng đang có những chuyển biến mạnh mẽ trong kiểm tra ĐG từ chú trọng đến kiến thức là chính sang chú trọng vào ĐG năng lực.

Bài viết đi sâu phân tích nội hàm khái niệm kiểm tra ĐG theo tiếp cận năng lực và những định hướng vận dụng trong giáo dục đại học.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Đánh giá kết quả học tập của người học

Theo Từ điển Giáo dục học, (Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa 2001) thuật ngữ đánh giá kết quả học tập được định nghĩa như sau: “Xác định mức độ nắm được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh so với yêu cầu của chương trình đề ra”.

Có thể hiểu đánh giá kết quả học tập là sự so sánh, đối chiếu kiến thức, kĩ năng, thái độ thực tế đạt được ở người học để tìm hiểu và chuẩn đoán (diagnostic) trước và trong quá trình dạy-học (formative) hoặc sau một quá trình học tập với các kết quả mong đợi đó xác định trong mục tiêu dạy học (đánh giá kết thúc – summative).

ĐG theo năng lực là ĐG các khả năng người học áp dụng kiến thức, kĩ năng đã học được vào giải quyết các tình huống thực tiễn của cuộc sống hàng ngày [1].

Một số nguyên tắc cần được đảm bảo trong việc đánh giá kết quả học tập của người học:

- Mục đích cơ bản của đánh giá kết quả học tập là nhằm cải thiện thành tích học tập của người học. Một đánh giá tốt sẽ là hình ảnh về các loại hình học tập có giá trị tốt nhất cho học sinh và hướng dẫn học sinh đạt được thành tích học tập tốt nhất, đây chính là điều mà việc đánh giá cần đạt tới.

- Đánh giá kết quả học tập là một bộ phận cấu thành nội dung của quá trình đào tạo nói chung và bài giảng nói riêng. Đánh giá được thiết kế như một phần của bài học. Với mỗi chương trình giảng dạy và học tập cơ bản nên được thiết kế với đầy đủ kiến thức, để người học có thể trình diễn những gì chúng được học và nhìn thấy được kết quả về sự nỗ lực học tập của mình.

- Sự đa dạng của phương pháp đánh giá thích hợp cung cấp cho giáo viên những bằng chứng thể hiện những kiến thức và kĩ năng mà người học biết và có thể thực hiện, những mặt mạnh, mặt yếu kém trong học tập cũng như những vấn đề người học, giáo viên và phụ huynh cần làm để cải thiện kết quả học tập.

- Đánh giá đòi hỏi phải chú ý đến kết quả và quá trình. Những thông tin về kết quả đạt được của người học rất quan trọng để biết rằng họ đạt được ở mức nào, tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, cũng có thể hiểu được sự nỗ lực của người học dẫn đến đạt được những kết quả này.

- Đánh giá được thực hiện liên tục thường xuyên trước, trong và kết thúc quá trình dạy - học hay bài giảng. Hoạt động học tập của người học có hiệu quả tốt nhất khi việc đánh giá bao gồm một loạt những hoạt động được thực hiện trong một khoảng thời gian, vì vậy, sự tiến bộ trong học tập được theo dõi trên cơ sở những thành tích đạt được dựa trên mục đích của khóa học và của những tiêu chuẩn liên quan.

(3)

2.2. Đánh giá theo định hướng phát triển năng lực

Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Đánh giá kết quả học tập đối với các môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của người học. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa (Leen pil, 2011).

Bảng 1. So sánh đánh giá theo năng lực và đánh giá theo kiến thức, kĩ năng [2]

Tiêu chí so sánh Đánh giá năng lực Đánh giá kiến thức, kĩ năng

1. Mục đích chủ yếu nhất

Đánh giá khả năng HS vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn của cuộc sống. Vì sự tiến bộ của người học so với chính họ.

Xác định việc đạt kiến thức, kĩ năng theo mục tiêu của chương trình giáo dục.

Đánh giá, xếp hạng giữa những người học với nhau.

2. Ngữ cảnh đánh giá

Gắn với ngữ cảnh học tập và thực tiễn cuộc sống của người học.

Gắn với nội dung học tập (những kiến thức, kĩ năng, thái độ) được học trong nhà trường.

3. Nội dung đánh giá

Những kiến thức, kĩ năng, thái độ ở nhiều môn học, nhiều hoạt động GD và những trải nghiệm của bản thân người học trong cuộc sống xã hội (tập trung vào năng lực thực hiện).

Quy chuẩn theo các mức độ phát triển năng lực của người học.

Những kiến thức, kĩ năng, thái độ ở một môn học.

Quy chuẩn theo việc người học có đạt được hay không một nội dung đã được học.

4. Công cụ đánh giá Nhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối cảnh thực.

Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ trong tình huống hàn lâm hoặc tình huống thực

5. Thời điểm đánh giá

Đánh giá mọi thời điểm của quá trình dạy học, chú trọng đến đánh giá trong khi học.

Thường diễn ra ở những thời điểm nhất định trong quá trình dạy học, đặc biệt là trước và sau khi dạy.

6. Kết quả đánh giá

Năng lực người học phụ thuộc vào độ khó của nhiệm vụ hoặc bài tập đã hoàn thành.

Thực hiện được nhiệm vụ càng khó, càng phức tạp hơn sẽ được coi là có năng lực cao hơn.

Năng lực người học phụ thuộc vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay bài tập đã hoàn thành.

Càng đạt được nhiều đơn vị kiến thức, kĩ năng thì càng được coi là có năng lực cao hơn.

Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức kĩ năng, mà đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng.

(4)

Để chứng minh người học có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho họ được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó người học vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội). Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả kĩ năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hòa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,. . . được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.

2.3. Phương pháp và hình thức đánh giá theo định hướng phát triển năng lực 2.3.1. Đánh giá kết quả và đánh giá quá trình

Đánh giá kết quả thường được sử dụng vào khi kết thúc một chủ đề học tập hoặc cuối một học kì, một năm, một cấp học. Cách đánh giá này thường sử dụng hình thức cho điểm và nó giúp cho người học biết được khả năng học tập của mình.

Đánh giá quá trình được sử dụng trong suốt thời gian học của môn học. Cách đánh giá này là việc GV hoặc người học cung cấp thông tin phản hồi về hoạt động học của người học, giúp GV điều chỉnh hoạt động dạy phù hợp hơn, giúp người học có được các thông tin về hoạt động học và từ đó cải thiện những tồn tại. Việc đánh giá quá trình có ý nghĩa hơn, nếu người học cùng tham gia đánh giá chính bản thân mình vì khi người học đảm nhận vai trò tích cực trong việc xây dựng tiêu chí chấm điểm, tự đánh giá và đề ra mục tiêu tức là họ đã sẵn sàng chấp nhận cách thức đã được xây dựng để đánh giá khả năng học tập của mình.

Một số đặc điểm của đánh giá quá trình:

+ Các mục tiêu học tập phải được đề ra rõ ràng, phù hợp

+ Các nhiệm vụ học tập cần hướng tới việc mở rộng, nâng cao hoạt động học tập.

+ Việc chấm điểm hoặc cung cấp thông tin phản hồi chỉ ra các nội dung cần chỉnh sửa, đồng thời đưa ra lời khuyên cho các hành động tiếp theo.

+ Đánh giá quá trình nhấn mạnh đến tự đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chí của bài học và phương hướng cải thiện để đáp ứng tốt hơn.

Một số cách thức đánh giá quá trình:

+ Cách đánh giá nhu cầu của người học

+ Cách khích lệ tự định hướng, như tự đánh giá, thông tin phản hồi từ bạn bè và học tập hợp tác.

+ Cách giám sát sự tiến bộ.

+ Cách kiểm tra sự hiểu biết.

2.3.2. Đánh giá theo chuẩn và đánh giá theo tiêu chí

Đánh giá theo tiêu chí: người học được đánh giá dựa trên các tiêu chí đã định rõ về thành tích, thay vì được xếp hạng trên cơ sở kết quả thu được. Khi đánh giá theo tiêu chí, chất lượng thành tích không phụ thuộc vào mức độ cao thấp về năng lực của người khác mà phụ thuộc chính mức độ cao thấp về năng lực của người được đánh giá so với các tiêu chí đã đề ra. Thông thường,

(5)

đánh giá theo tiêu chí dùng để xác lập mức độ năng lực của một cá nhân.

Đánh giá theo chuẩn là hình thức đánh đưa ra những nhận xét về mức độ cao thấp trong năng lực của cá nhân so với những người khác cùng làm bài thi. Đây là hình thức đánh giá kết hợp với đường cong phân bố chuẩn, trong đó giả định rằng một số ít sẽ làm bài rất tốt, một số rất kém, số còn lại nằm ở khoảng giữa được đánh giá trung bình. Bài kiểm tra IQ là ví dụ rõ nhất về đánh giá theo chuẩn, hay cách xếp loại học tập của người họcở nước ta hiện nay cũng là cách đánh giá theo chuẩn.

2.3.3. Tự đánh giá

Tự đánh giá là việc người học tự đưa ra các quyết định đánh giá về công việc và sự tiến bộ của bản thân. Hình thức đánh giá này góp phần thúc đẩy học tập suốt đời, bằng cách giúp họ đánh giá thành tích học tập của bản thân và của bạn một cách thực tế, không khuyến khích sự phụ thuộc vào đánh giá của giáo viên. Tự đánh giá rất hữu ích trong việc giúp người học nhận thức sâu sắc về bản thân, nhận ra được điểm mạnh và điểm yếu của mình. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực để điều chỉnh hoạt động học kịp thời. Vì vậy, tự đánh giá cần được diễn ra trong suốt quá trình học tập và được sử dụng như một phần của đánh giá quá trình.

Tự đánh giá khác với tự chấm điểm: Tự chấm điểm là cho điểm bằng cách sử dụng các tiêu chí do người khác quy định. Trong khi đó tự đánh giá là quy trình xem xét, phản ánh, đồng thời là sự suy ngẫm về lựa chọn tiêu chí.

Trong thực tiễn đánh giá, trách nhiệm cuối cùng vẫn thuộc về giáo viên vì họ là người phải đảm nhận vai trò điều tiết, có thể phủ quyết nếu người học không cung cấp đủ minh chứng để bổ trợ cho số điểm tự cho mình. Đồng thời trên thực tế tự đánh giá có thể kết hợp với hình thức đánh giá đồng đẳng, nên có thể điều tiết điểm số tự đánh giá.

2.3.4. Đánh giá qua thực tiễn

Đánh giá qua thực tiễn đưa ra cho người học những thách thức thực tế và thường được đánh giá thông qua năng lực thực hiện các nhiệm vụ trong thực tiễn.

Đánh giá qua thực tiễn giúp đánh giá một tập hợp các kĩ năng. Đây là hình thức đánh giá khả năng học tập đáng tin cậy bởi vì nó không phụ thuộc vào một phương pháp đánh giá duy nhất, mặt khác người học được đánh giá rất nhiều kĩ năng qua các tình huống khác nhau. Đánh giá qua thực tiễn cho thấy có điểm mạnh và điểm yếu của mỗi cá nhân... Hình thức đánh giá này mang tính chất đánh giá quá trình nên thúc đẩy việc học của người học có động lực và hiệu quả.

2.4. Một số định hướng vận dụng đánh giá theo năng lực trong giáo dục đại học Đào tạo theo hướng phát triển năng lực của người học đã và đang trở thành một xu thế tất yếu và phổ quát của giáo dục đại học nhiều nước trên thế giới. Việc chú trọng phát triển năng lực, kĩ năng cho SV trong khi thời lượng học tập ở nhà trường không tăng, đòi hỏi nhà trường phải giảm bớt việc truyền thụ tri thức, tăng thời gian cho người học hoạt động tự lực, sáng tạo. ĐG năng lực được đưa ra để nhấn mạnh xu hướng chung của chương trình hiện đại là chuyển từ “tập trung vào kiến thức” sang “tập trung vào năng lực” [1, 13-15]. ĐG năng lực hướng vào việc xác định mức độ người học giải quyết nhiệm vụ, hơn là việc người học biết những gì. Hơn nữa ĐG cần hướng tới việc người học, sau khi học xong, có thể vận dụng kĩ năng, kiến thức học được ở nhà trường vào cuộc sống, chứ không chỉ dừng ở việc ĐG từng đơn vị kiến thức, kĩ năng riêng lẻ.

(6)

Đối với sinh viên

+ Việc đánh giá kết quả học tập theo định hướng hình thành năng lực có tác dụng giúp cho mỗi sinh viên thấy được mình đã lĩnh hội những điều vừa học được đến mức độ nào, đã làm tốt cái gì, còn mắc những sai sót nào và phải làm như thế nào để bổ khuyết những lỗ hổng kiến thức còn tồn tại.

+ Việc đánh giá kết quả học tập một cách chính xác, khách quan, công bằng sẽ kích thích hoạt động học tập của sinh viên một cách tích cực, tự giác, kích thích ý chí vươn lên đạt những kết quả học tập cao hơn, củng cố lòng tin vào khả năng của mình, biết khắc phục những nhược điểm của bản thân.

+ Giúp sinh viên biết tự đánh giá kết quả học tập của bản thân.

+ ĐG theo năng lực giúp sinh viên biết được mình đang ở đâu trên con đường học tập, còn cách bao xa so với mục tiêu đề ra, giúp sinh viên nhận ra sự tiến bộ của bản thân.

ĐG theo tiếp cận năng lực được thực hiện thông qua việc sử dụng kết hợp các dạng chứng cứ trực tiếp, gián tiếp và phụ trợ trong phạm vi rộng thu thập được trong quá trình đào tạo. ĐG năng lực không chỉ quan tâm đến sản phẩm học tập mà quan tâm đến cả quá trình làm ra sản phẩm đó.

Trong quá trình đào tạo đại học, kết quả mà sinh viên đạt được là cơ sở quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đào tạo ở đại học. Đánh giá kết quả học tập là sự so sánh, đối chiếu kiến thức, kĩ năng, thái độ thực tế đạt được ở người học với các kết quả mong đợi đã xác định trong mục tiêu dạy học. Kết quả học tập phản ánh trong kết quả kiểm tra định kì, các kì thi, công trình nghiên cứu. Kết quả của việc đánh giá được thể hiện chủ yếu bằng điểm số theo thang điểm đã được qui định, bằng xếp loại, thể hiện bằng nhận xét, đánh giá phải dựa vào các bằng chứng được thu thập từ nhiều hoạt động khác nhau

Đánh giá thúc đẩy sinh viên học tập, nâng cao trách nhiệm trong học tập. Đánh giá thông báo kịp thời cho sinh viên biết tiến bộ của họ, có tác dụng thúc đẩy sinh viên học tập, động viên, khích lệ họ học nhiều hơn, tốt hơn, chỉ cho họ thấy những nội dung nào chưa tốt, nội dung nào cần học thêm, học lại v.v. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên được tiến hành tốt giúp cho họ có cơ hội để củng cố tri thức, phát triển trí tuệ. giúp hình thành cho họ nhu cầu thói quen tự đánh giá, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý chí vươn lên trong học tập và rèn luyện.

Đánh giá có tác động tới phương pháp dạy và tới phương pháp học, yêu cầu về nội dung kiểm tra đánh giá đòi hỏi giảng viên và sinh viên phải phải thay đổi cách học để thể hiện được được kết quả học tập thực sự.

Trong đánh giá KQHT của SV theo tiếp cận năng lực thì tự đánh giá là rất quan trọng.

Chính vì thế, cần rèn luyện cho SV có kĩ năng tự đánh giá. Theo Nguyễn Dương Hoàng [3], I.Ia Lecne [6]... có thể xác lập các bước rèn luyện cho sinh viên kĩ năng tự đánh giá KQHT gồm các giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: Giới thiệu cho sinh viên vị trí, vai trò, thao tác và trình tự của việc TĐG KQHT (Giai đoạn nhận thức).

Giai đoạn 2: Giảng viên làm mẫu, hướng dẫn sinh viên TĐG.

Giai đoạn 3: Tổ chức cho sinh viên làm thử - thực hiện theo mẫu (luyện tập kĩ năng TĐG).

Giai đoạn này gồm 4 bước:

Bước 1: Giảng viên giao nhiệm vụ học tập cho sinh viên

(7)

Bước 2: SV thực hiện hoạt động học tập Bước 3: SV thực hiện ĐG và TĐG

Bước 4: Giảng viên bổ sung, góp ý để SV điều chỉnh, rút kinh nghiệm và hoàn thiện kĩ năng TĐG được xác định trong các khâu của bài lên lớp bao gồm các thao tác:

+ Giảng viên giao nhiệm vụ học tập (câu hỏi bài cũ; kiểm tra chuẩn bị bài mới; câu hỏi, bài tập, bài tập tình huống để hình thành kiến thức mới; câu hỏi, bài tập củng cố sau mỗi nội dung hay toàn bài).

+ Nhiệm vụ của sinh viên sau khi được giảng viên giao nhiệm vụ học tập:

- Xác định mục tiêu, nhiệm vụ học tập. Mục tiêu, nhiệm vụ học tập là kết quả cần phải đạt được ở sinh viên sau mỗi bài học/môn học/học phần/tín chỉ/năm học. . . của họ. Mục tiêu, nhiệm vụ học tập phải bám sát và dựa trên cơ sở là chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học.

- Thực hiện hoạt động học tập. Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ học tập, sinh viên tiến hành hoạt động học tập. Có thể là hoạt động học tập nhóm hay cá nhân, hoạt động ở lớp, ở nhà, có thể có giảng viên hướng dẫn trực tiếp hoặc không. Hoạt động có thể diễn ra trong thời gian ngắn hay dài tuỳ thuộc vào mục tiêu đặt ra là mục tiêu ngắn hạn hay dài hạn, mục tiêu trước mắt hay lâu dài, mục đích tạo ra sản phẩm học tập.

- Đối chiếu kết quả học tập với mục tiêu, nhiệm vụ học tập. Để kiểm nghiệm hiệu quả hoạt động học tập, sinh viên phải biết đối chiếu kết quả với mục tiêu, nhiệm vụ của bài học, môn học...

nhằm xác định mức độ đạt được sau khi học (xem mục tiêu nào đã đạt được, mục tiêu nào chưa đạt được). Trên cơ sở đối chiếu, so sánh KQHT với mục tiêu, nhiệm vụ học tập, người học phân tích, bình luận, nhận xét và TĐG,... về năng lực giáo dục của mình. Từ đó, họ xác định được nguyên nhân, bước tiếp theo trong hoạt động học của mình nhằm tự rút kinh nghiệm, tự điều chỉnh kiến thức, KN và cải thiện việc học tập.

- Đảm bảo cho mọi SV kiên trì trong việc học tập và luyện tập: mọi sinh viên cần có ý thức tự giác và kiên trì trong quá trình học tập, rèn luyện.

Đối với giảng viên

Đánh giá là một bộ phận hợp thành quan trọng không thể thiếu được của quá trình dạy học.

Trong quá trình dạy học, đánh giá không chỉ là hoạt động chắp nối thêm vào sau bài giảng mà nó có quan hệ hợp thành với việc ra quyết định của giảng viên, đánh giá đúng đắn, chính xác sẽ cung cấp cho giảng viên thông tin để ra quyết định hiệu quả hơn, quyết định đó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học, giúp cho giảng viên có thể đi đến những quyết định phù hợp, nâng cao hiệu quả giảng dạy.

Trong đánh giá thành tích học tập của sinh viên không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Vì vậy, để đánh giá kết quả học tập của sinh viên một cách tốt nhất, yêu cầu giảng viên có các kĩ năng như:

- Kĩ năng xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá:

Xây dựng những tiêu chuẩn, tiêu chí là một thành tố đánh giá có tính quyết định, là cơ sở

(8)

nền tảng cho công việc đánh giá, cho biết kết quả đánh giá có đáng tin cậy hay không. Tiêu chuẩn đánh giá KQHT của sinh viên là mức độ yêu cầu và điều kiện mà sinh viên phải đáp ứng để được công nhận đạt mục tiêu học tập. Tiêu chí là những hành động hoặc những khía cạnh cụ thể để minh chứng sẽ đạt tới chuẩn. Các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá KQHT là cơ sở để giảng viên đối chiếu, xem xét để ra quyết định sinh viên có đạt hay không đạt tiêu chuẩn đề ra.

Kĩ năng này giúp cho giảng viên thiết kế được tiêu chuẩn, tiêu chí đúng, cụ thể, rõ ràng, phù hợp với mục đích đánh giá, mục tiêu học tập, đảm bảo được các yêu cầu cơ bản, tính đầy đủ, tính độc lập tương đối.

- Kĩ năng lựa chọn, xây dựng công cụ đánh giá:

Tính năng cơ bản của các công cụ đánh giá là thu thập thông tin để cung cấp cho giảng viên và sinh viên trong quá trình đánh giá và tự đánh giá. Do đó, lựa chọn và xây dựng công cụ đánh giá phù hợp sẽ góp phần nâng cao tính khách quan, độ tin cậy, độ giá trị của kết quả đánh giá. Kĩ năng này giúp giảng viên lựa chọn và xây dựng được những loại công cụ khác nhau phù hợp.

- Kĩ năng tổ chức, triển khai hoạt động để thu thập thông tin:

Kĩ năng này cho phép giảng viên tổ chức triển khai một cách linh hoạt các hoạt động học tập khác nhau để đảm bảo sinh viên với những ưu nhược điểm khác nhau đều có cơ hội thể hiện tốt nhất những điều mà các em học được so với mục tiêu học tập đề ra hay điều mong đợi của thầy cô.

Theo hướng dạy học tập trung vào người học, vai trò chủ động tích cực, sáng tạo của người học được phát huy. Do đó, trong quá trình đánh giá, vai trò của người học cũng có sự thay đổi theo hướng phải tăng cường vai trò và trách nhiệm. Người học không chỉ là người chịu sự đánh giá và thực hiện những quy định của quá trình đánh giá mà còn là người trực tiếp tham gia vào quá trình đánh giá chính bản thân mình. Vì vậy, bên cạnh khả năng tổ chức triển khai các hoạt động để giảng viên đánh giá, đòi hỏi giáo viên cũng phải có khả năng tổ chức triển khai được các hoạt động để phát triển khả năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau trong lớp học, giúp các em điều chỉnh cách học.

- Kĩ năng phản hồi kết quả đánh giá:

Một trong những mục đích chính của hoạt động đánh giá KQHT của sinh viên là cải tiến chất lượng quá trình dạy học. Giảng viên đánh giá KQHT của sinh viên không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc đánh giá chính xác, khách quan, công bằng thực trạng KQHT mà còn phải biết đề xuất các quyết định làm thay đổi thực trạng theo hướng mục tiêu học tập đã đề ra. Muốn vậy, giảng viên cần phải có kĩ năng truyền tải thông tin kết quả đánh giá đến các đối tượng khác nhau. Kĩ năng này giúp cho giảng viên truyền đạt thông tin về kết quả đánh giá đến người học, những người quan tâm và các nhà giáo dục khác một cách chính xác, cụ thể, chi tiết và đảm bảo sự quan tâm chung;

ngôn ngữ diễn đạt dễ hiểu, thân thiện, tạo cho người bị đánh giá một không khí tin tưởng, an toàn.

- Kĩ năng sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh quá trình dạy học

Kĩ năng này giúp cho giảng viên đưa ra các quyết định phù hợp để sinh viên cải tiến việc học của mình cũng như để giảng viên có thể điều chỉnh mục tiêu học tập, điều chỉnh nội dung cho phù hợp với các đối tượng khác nhau, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất có thể trong quá trình dạy học.

Việc đánh giá cần được sử dụng trong suốt thời gian học của môn học. Cách đánh giá này là việc GV hoặc SV cung cấp thông tin phản hồi về hoạt động học của người học, giúp GV điều

(9)

chỉnh hoạt động dạy phù hợp hơn, giúp SV có được các thông tin về hoạt động học và từ đó cải thiện những tồn tại. Việc đánh giá quá trình có ý nghĩa hơn, nếu SV cùng tham gia đánh giá chính bản thân mình vì khi SV đảm nhận vai trò tích cực trong việc xây dựng tiêu chí chầm điểm, tự đánh giá và đề ra mục tiêu thì tức là SV đã sẵn sàng chấp nhận cách thức đã được xây dựng để đánh giá khả năng học tập của họ.

Giảng viên cần đổi mới phương pháp dạy học, tích hợp ĐG KQHT theo tiếp cận quá trình trong tổ chức giảng dạy trên lớp, thu thập thông tin về sự tiến bộ của người học trong cả quá trình học tập bằng nhiều phương pháp, đa dạng hóa các hoạt động lớp học, trao cho người học nhiều cơ hội thể hiện khả năng của họ, cải thiện kết quả điểm thành phần và góp phần cải thiện KQHT môn học, trình độ của người học.

Sử dụng đa dạng cách thức cung cấp phản hồi về học tập cho SV, giúp SV phát hiện lỗi, liên tục hoàn thiện bản thân, định hướng giá trị của mình và kịp thời điều chỉnh học tập. Hỗ trợ SV xử lí thông tin trong các phản hồi trên lớp. Tạo điều kiện cho SV tham gia ĐG (tự ĐG, ĐG chéo, ĐG GV), GV vừa thu được các thông tin phản hồi ngược, vừa là cơ hội cho SV trải nghiệm, học về ĐG bằng việc thực hành, đặt mình trong chính thực tế của ĐG.

Một số điểm cần chú ý:

+ Các mục tiêu học tập phải được đề ra rõ ràng, phù hợp

+ Các nhiệm vụ học tập cần hướng tới việc mở rộng, nâng cao hoạt động học tập.

+ Việc chấm điểm hoặc cung cấp thông tin phản hồi chỉ ra các nội dung cần chỉnh sửa, đồng thời đưa ra lời khuyên cho các hành động tiếp theo.

+ Đánh giá quá trình nhấn mạnh đến tự đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chí của bài học và phương hướng cải thiện để đáp ứng tốt hơn. Một số cách thức đánh giá quá trình như: đánh giá nhu cầu của người học; Khích lệ tự định hướng, như tự đánh giá, thông tin phản hồi từ bạn bè và học tập hợp tác; Giám sát sự tiến bộ và kiểm tra sự hiểu biết. . . .

3. Kết luận

Đánh giá là một yếu tố quan trọng của quá trình dạy học, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay dạy học nhằm phát triển năng lực cho người học thì đánh giá dựa trên năng lực người học trở thành yêu cầu tất yếu. Vì đánh giá theo năng lực chủ yếu đánh giá đầu ra nên quá trình đánh giá tập trung thu thập xử lí thông tin để có thể đánh giá năng lực của người học so với mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, để các phương pháp đánh giá theo năng lực đạt chất lượng theo yêu cầu thì giảng viên cần đánh giá bằng nhiều hình thức và công cụ khác nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Công Khanh, 2014.Giáo trình kiểm tra đánh giá trong giáo dục theo tiếp cận năng lực. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2014.Dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Tài liệu tập huấn giáo viên THCS, THPT.

[3] Nguyễn Dương Hoàng, 2008.Hệ thống kĩ năng dạy học toán ở THPT. Tạp chí Giáo dục, Số 186, tr 23-25.

[4] Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức, 2004. Lí luận dạy học đại học. Nxb Đại học Sư phạm.

(10)

[5] Trần Bá Hoành, 1997.Đánh giá trong giáo dục. Nxb Giáo dục.

[6] Phạm Đức Quang, 1999.Hình thành kĩ năng giải toán hình học phẳng bằng các phép biến hình cho học sinh lớp 10 phổ thông trung họcLuận án Tiến sĩ Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.

[7] Institute of International Education, 2013. Building research and teaching capacity in Indochina through international collaboration. Reported by Flavia Ramos – Mattoussi, Jeffrey AyalaMilligan.

[8] James H. McMillan, 2001. Classroom Assessment (second edition), A Pearson Education Company.

[9] James H. McMillan, 2008. Assessment essentials for standard-based education, 2nd edition, Thousand Oaks, Corwin Press.

[10] Airasian, P.M., 2005. Classroom assessment: Concepts and applications (fifth edition), Boston McGraw Hill.

[11] Irons, A., 2007.Enhancing learning through formative assessment and feedback. New York:

Routledge.

[12] Worsnop, Percy J., 1993. Competency-based training, How to do it for trainers, developed for the Competency Based Training Working Party of the Vocational Education and Training Advisory Committee, Canberra, Australia.

ABSTRACT

Assessment of students’ learning-outcome following competence and practical appication orientations in higher education

Duong Thi Thuy Ha Institute for Educational Research, Hanoi National University of Education Approaching competence in innovation education is one popular trend in many countries all over the world. It is shown in every step, every side of education including test and asessment. The article goes deeply into the assessment of students’ learning-outcome following competence orientation. The issues of evaluating students’ learning-outcome, assessment following competence development orientation, formation and methodology of the assessment following competence development orientation are all discussed in details. On this basis, the author proposes some orientations which can be applied in educational universities.

Keywords: Assessment, learning-outcome assessment, competence, the formation of competence, assessment forms.

Referensi

Dokumen terkait

Thực trạng việc vận dụng giáo dục STEM trong dạy học kiến về “Máy phát điện, động cơ điện xoay chiều” - Vật lí 12 Để tìm hiểu và định hướng cho quá trình thiết kế tiến trình tổ chức

Theo đề án đổi mới chương trình sách giáo khoa sau năm 2015, môn Lịch sử ở THCS là môn tích hợp, để hình thành nhân cách và phát triển năng lực của học sinh thì trong quá trình dạy học,

Để lựa chọn được thời gian phù hợp áp dụng các bài tập xoa bóp lên các bộ phận cơ thể nhằm thúc đẩy quá trình hồi phục cho nam sinh viên Khoa GDTC – Đại học Huế, trên cơ sở kết quả quan

Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy cho HS trong dạy học Lịch sử ở trường THPT Quá trình dạy học ở trường phổ thông chính là quá trình nhận thức của HS dưới sự tổ chức,

Hơn nữa, trong quá trình triển khai hệ thống lớp học ảo, vì có thể thực hiện trình chiếu trực tiếp trên máy tính, việc truy cập và truyền phát thông tin dễ dàng hơn so với giảng dạy tại

2020 đã tiến hành chọn tạo chủng nấm sò mới bằng việc lai giữa hai chủng nấm sò Pleurotus tuoliensis và Pleurotus eryngii, các tác giả đã tiến hành 9 tổ hợp lai trong đó có 6 tổ hợp lai

Dưới đây là một số đề kiểm tra cụ thể mà chúng tôi đã thiết kế và sử dụng trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THCS và THPT Nguyễn Tất Thành Chương trình Lịch sử lớp 10 Kiểm tra

Vì vậy, Bài viết đánh giá về nghề nghiệp của giáo viên tiểu học mới vào nghề; Một số lí do khi lựa chọn nghề giáo viên; Kinh nghiệm cá nhân trong dạy học và kiến thức đã được đào tạo ở