• Tidak ada hasil yang ditemukan

đánh giá kết quả điều trị xoang hơi cuốn mũi giữa

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "đánh giá kết quả điều trị xoang hơi cuốn mũi giữa"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ XOANG HƠI CUỐN MŨI GIỮA BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG CẦN THƠ

NĂM 2016 – 2018

Nguyễn Minh Khoa*, Võ Văn Kha, Dương Hữu Nghị Trường Đại học Y Dược Cần Thơ

*Email: [email protected] TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Xoang hơi cuốn mũi giữa (XHCG) là vấn đề lâm sàng thường gặp, gây các triệu chứng khó chịu và nguy cơ viêm mũi xoang, nhất là khi có sự chèn ép vùng phức hợp lỗ ngách (PHLN). Phẫu thuật nội soi cắt bán phần ngoài cuốn mũi giữa là phương pháp phổ biến để điều trị XHCG. Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi cắt bán phần ngoài cuốn mũi giữa để điều trị XHCG tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ năm 2016 – 2018. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu có phân tích trên 95 bệnh nhân (≥ 18 tuổi). Khám lâm sàng, thang điểm VAS, thang điểm NOSE, nội soi mũi được sử dụng để đánh giá trước và sau phẫu thuật. Kết quả: 95 bệnh nhân (36 nam và 59 nữ) với 130 XHCG, tuổi trung bình 35,45 ± 12,23. Trước phẫu thuật: triệu chứng chủ yếu là đau đầu (88,4%), nghẹt mũi (74,7%), chảy mũi (31,6%). Điểm VAS trung bình 26,75 ± 17,17 mm, điểm NOSE trung bình 31,74 ± 21,48. Sau phẫu thuật: các triệu chứng đều giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Sau 3 tháng: điểm VAS trung bình 0,42 ± 2,02 mm, điểm NOSE trung bình 1 ± 4,59. 100% cuốn giữa thu nhỏ. Kết quả: tốt 85,3%, trung bình 14,7%. Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt bán phần ngoài cuốn giữa có kết quả tốt trong điều trị XHCG.

Từ khóa: Xoang hơi cuốn mũi giữa, cắt bán phần ngoài cuốn mũi giữa, đau đầu.

ABSTRACT

EVALUATE THE RESULTS OF TREATMENT OF CONCHA BULLOSA WITH ENDOSCOPIC SURGERY AT CAN THO ENT HOSPITAL

BETWEEN 2016 – 2018

Nguyen Minh Khoa, Vo Van Kha, Duong Huu Nghi Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: Concha Bullosa (CB) is a frequently encountered problem, causing irritated symptoms and sinusitis risk, especially when it causes obstruction in the osteomeatal complex (OMC). Endoscopic lateral laminectomy of middle turbinate is the most preferred technique in treatment of CB. Objectives: To evaluate results of endoscopic lateral laminectomy of the middle turbinate in treatment of CB at Can Tho ENT Hospital between 2016 - 2018. Materials and methods: Cross – sectional descriptive and prospective with analysis on 95 adult patients (18 years old or more). Clinical examination, VAS scale, NOSE scale, nasal endoscopy was used to access preoperative and postoperative outcomes. Results: 95 patients (36 males and 59 females) with 130 CB, mean age was 35,45 ± 12,23. Pre-operation: main symptoms were headache (88,4%), nasal obstruction (74,7%), runny nose (31,6%). Mean VAS was 26,75 ± 17,17 mm, mean NOSE was 31,74 ± 21,48. Post-operation: all symptoms were decreased with statistical significance (p < 0,05). After 3 months: mean VAS was 0,42 ± 2,02 mm, mean NOSE was 1 ± 4,59, all middle turbinates were smaller in size. Result: 85,3% good, 14,7% average. Conclusion:

Endoscopic lateral laminectomy of the middle turbinate has a good result in treatment of CB.

Keywords: Concha Bullosa, Lateral laminectomy of middle turbinate, headache.

(2)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

XHCG là một sự thay đổi về giải phẫu của cuốn mũi giữa. Do quá trình phát triển của các tế bào sàng, một số tế bào sàng phát triển vào xương cuốn giữa và hình thành nên tế bào khí ở cuốn giữa. Chính sự hình thành xoang hơi này làm cho cuốn mũi giữa to ra làm tắc nghẽn sự lưu thông của phức hợp lỗ ngách, có thể gây ra đau đầu, chảy mũi, viêm xoang hàm, xoang trán, xoang sàng… Nhờ sự tiến bộ của nội soi, CT scan và sự phát triển của phẫu thuật nội soi mũi xoang mà việc chẩn đoán và điều trị XHCG trở nên dễ dàng hơn. Với mục đích chẩn đoán sớm và điều trị tốt chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

“Đánh giá kết quả điều trị xoang hơi cuốn mũi giữa bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ năm 2016 – 2018”, với mục tiêu: đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi cắt bán phần ngoài cuốn mũi giữa để điều trị XHCG tại bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ năm 2016-2018.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Bệnh nhân có XHCG trên hình ảnh CLVT lát cắt Coronal và Axial và:

Bệnh nhân có sự chèn ép vùng phức hợp lỗ ngách trên cắt lớp vi tính.

Hoặc bệnh nhân có XHCG có chỉ định can thiệp phẫu thuật theo tác giả Dog˘ru [7]:

Loại bỏ các thành phần bệnh của cuốn giữa như trong trường hợp nhiễm trùng và bệnh tích của niêm mạc.

Giảm bớt sự tắc nghẽn của mũi trong trường hợp XHCG lớn.

Điều trị hội chứng tắc nghẽn khe giữa, gây ra đau đầu, nghẹt mũi và giảm hoặc mất khướu.

Tiêu chuẩn loại trừ

Các bệnh nhân đã phẫu thuật mũi xoang trước đó.

Cuốn mũi giữa có bệnh lý khác kèm theo như khối u, trĩ mũi, polyp.

Bệnh nhân có quá phát cuốn mũi dưới.

Các bệnh nhân không thích hợp tiến hành phẫu thuật: có bệnh lý nội khoa nặng hoặc rối loạn đông máu kèm theo, phụ nữ có thai.

Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tiến cứu có can thiệp lâm sàng.

Cỡ mẫu: 95 mẫu.

Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện.

Nội dung nghiên cứu

- Thời gian phẫu thuật: từ lúc phẫu thuật viên bắt đầu mổ đến khi kết thúc cuộc mổ.

- Tai biến trong và sau phẫu thuật: chảy máu trong mổ, chảy máu sau mổ (còn Merocel), chảy máu sau rút Merocel.

- Triệu chứng cơ năng sau phẫu thuật 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng: mức độ, thang điểm VAS đánh giá đau đầu, thang điểm NOSE đánh giá nghẹt mũi.

- Nội soi mũi sau phẫu thuật 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng: tình trạng vảy mũi, sự thu nhỏ cuốn mũi giữa, tình trạng dính sau mổ.

- Đánh giá kết quả điều trị sau phẫu thuật 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng:

 Tốt: hết triệu chứng thực thể, hết triệu chứng cơ năng.

(3)

 Trung bình: hết triệu chứng thực thể và giảm các triệu chứng cơ năng.

 Xấu: không hết triệu chứng thực thể, còn triệu chứng cơ năng.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu

95 bệnh nhân (36 nam và 59 nữ), nam chiếm tỷ lệ 37,89% và nữ 62,11%. Tuổi trung bình là 35,45 ± 12,23 tuổi, tuổi thấp nhất là 18 tuổi và cao nhất là 80 tuổi.

Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi Thời gian phẫu thuật

Thời gian phẫu thuật trung bình là 25 ± 6,28 phút. Thời gian phẫu thuật nhanh nhất là 15 phút và chậm nhất là 40 phút.

Tai biến trong và sau phẫu thuật Bảng 1: Tai biến trong và sau phẫu thuật

Tai biến Số bệnh nhân Tỷ lệ %

Không có tai biến 88 92,6

Chảy máu trong mổ 4 4,2

Chảy máu sau mổ (còn Merocel) 2 2,1

Chảy máu sau rút Merocel 1 1,1

Tổng 95 100

Nhận xét: Đa số bệnh nhân không có tai biến chiếm 92,6%.

Triệu chứng cơ năng sau phẫu thuật Bảng 2: Triệu chứng cơ năng sau phẫu thuật

Triệu chứng cơ năng Trước phẫu thuật

Sau phẫu thuật 1 tuần

Sau phẫu thuật 1

tháng

Sau phẫu thuật 3

tháng

Số bệnh nhân Tỷ lệ %

Đau đầu 84

88,4%

10 10,5%

8 8,4%

4 4,2%

Nghẹt mũi 71

74,73%

11 11,58%

8 8,4%

3 3,16%

Chảy mũi 30

31,58%

18 18,95%

7 7,37%

5 5,26%

Giảm khứu 6

6,3%

6 6,3%

3 3,2%

0 0%

Nhận xét: Sau phẫu thuật có sự cải thiện đáng kể triệu chứng cơ năng.

Nội soi mũi sau phẫu thuật Bảng 3: Tình trạng vảy mũi

Tình trạng vảy mũi Sau phẫu thuật 1 tuần

Sau phẫu thuật 1 tháng

Sau phẫu thuật 3 tháng

Số cuốn mũi Tỷ lệ %

Không vảy 14

10,77%

130 100%

130 100%

Vảy ít 106

81,54%

0 0%

0 0%

Vảy vừa 10

7,69%

0 0%

0 0%

Vảy nhiều 0 0 0

(4)

Tình trạng vảy mũi Sau phẫu thuật 1 tuần

Sau phẫu thuật 1 tháng

Sau phẫu thuật 3 tháng

0% 0% 0%

Tổng 130

100%

130 100%

130 100%

Nhận xét: Từ sau phẫu thuật 1 tháng không còn thấy vảy mũi.

Bảng 4: Tình trạng cuốn mũi giữa sau phẫu thuật Tình trạng cuốn mũi giữa sau

phẫu thuật

Sau phẫu thuật 1 tuần

Sau phẫu thuật 1 tháng

Sau phẫu thuật 3 tháng

Số cuốn mũi Tỷ lệ %

Thu nhỏ 130

100%

130 100%

130 100%

Không thu nhỏ

0 0%

0 0%

0 0%

Tổng 130

100%

130 100%

130 100%

Nhận xét: Sau phẫu thuật quan sát qua nội soi 100% cuốn mũi giữa thu nhỏ.

Bảng 5. Tình trạng dính sau phẫu thuật

Nhận xét: Sau phẫu thuật 1 tháng và 3 tháng không còn tình trạng dính.

Bảng 6. Đánh giá kết quả điều trị sau phẫu thuật Kết quả điều trị Sau phẫu thuật

1 tuần

Sau phẫu thuật 1 tháng

Sau phẫu thuật 3 tháng

Số bệnh nhân Tỷ lệ %

Tốt 52

54,7%

69 72,6%

81 85,3%

Trung bình 43 45,3%

26 27,4%

14 14,7%

Xấu 0

0%

0 0%

0 0%

Tổng 95

100%

95 100%

95 100%

Nhận xét: Sau phẫu thuật 1 tuần có 55,7% bệnh nhân đạt kết quả tốt, tăng lên 72,6% sau phẫu thuật 1 tháng và 85,3% sau phẫu thuật 3 tháng.

IV. BÀN LUẬN

Nghiên cứu của chúng tôi: thời gian phẫu thuật trung bình là 25 ± 6,28 phút. Thời gian phẫu thuật nhanh nhất là 15 phút và chậm nhất là 40 phút. Như vậy thời gian phẫu thuật XHCMG thường không kéo dài.

Ở bảng 1 cho thấy: đa số bệnh nhân không có tai biến chiếm 92,6% (88 bệnh nhân).

Chảy máu trong mổ chiếm 4,2% (4 bệnh nhân). Chảy máu sau mổ (còn Merocel) chiếm Tình trạng dính Sau phẫu thuật 1

tuần

Sau phẫu thuật 1 tháng

Sau phẫu thuật 3 tháng

Số cuốn mũi Tỷ lệ %

Không dính 128

98,46%

130 100%

130 100%

Dính vách ngăn

2 1,54%

0 0%

0 0%

Tổng 130

100%

130 100%

130 100%

(5)

2.1% (2 bệnh nhân) và chảy máu sau rút Merocel 1,1% (1 bệnh nhân). 4 bệnh nhân có chảy máu trong mổ được chúng tôi đặt tạm mèche tẩm Ephedrine cầm máu, và cuộc mổ được tiến hành tiếp sau đó thuận lợi. 2 bệnh nhân có chảy máu sau mổ còn Merocel được chúng tôi xử lý bằng cách nhét thêm 1 đoạn mèche tăng cường để cầm máu, các bệnh nhân này sau 48 giờ dược rút Merocel và mèche đều không có chảy máu. 1 trường hợp bệnh nhân chảy máu sau rút Merocel được chúng tôi xử lý bằng cách nhét 1 đoạn mèche có tẩm naphazoline 0,05%, rút sau 12 giờ và không cần phải xử lý gì thêm. Như vậy đa số bệnh nhân không có tai biến chiếm 92,6%, còn lại thường là chảy máu nhẹ, dễ xử trí.

Sự cải thiện các triệu chứng cơ năng sau phẫu thuật ở bảng 2 cho thấy: trước phẫu thuật triệu chứng chủ yếu là đau đầu chiếm tỷ lệ 88,4%, nghẹt mũi 74,73%, chảy mũi 31,58% và giảm khứu chỉ 6,3%. Sau phẫu thuật 1 tuần và 1 tháng các triệu chứng này giảm đáng kể trừ giảm khứu giác vẫn còn không thay đổi. Đến sau phẫu thuật 3 tháng đau đầu giảm chỉ còn 4,2%, nghẹt mũi 3,16%, chảy mũi 5,26% và không còn bệnh nhân nào có giảm khứu. Kết quả này cũng phù hợp với các tác giả khác như Phạm Trung Kiện [2], Nguyễn Nguyện [3] và Belli [6]. Thang điểm VAS đánh giá đau đầu: VAS trung bình trước phẫu thuật là 26,75 ± 17,17 mm, sau phẫu thuật 1 tuần là 3,13 ± 8,22 mm, sau phẫu thuật 1 tháng là 1,16 ± 4,09 mm và sau phẫu thuật 3 tháng là 0,42 ± 2.02 mm. Sự giảm điểm VAS trung bình sau phẫu thuật có ý nghĩa thống kê (p < 0.001). Thang điểm NOSE đánh giá nghẹt mũi: điểm NOSE trung bình trước phẫu thuật là 31,74 ± 21,48, sau phẫu thuật 1 tuần là 8,37 ± 11,7, sau phẫu thuật 1 tháng là 2,68 ± 7,95 sau phẫu thuật 3 tháng là 1 ± 4,59. Sự giảm điểm trung bình NOSE sau phẫu thuật có ý nghĩa thống kê (p <

0.001). Sự giảm điểm trung bình VAS và NOSE là phù hợp với sự cải thiện triệu chứng đau đầu và nghẹt mũi của bệnh nhân.

Tình trạng vảy mũi sau phẫu thuật ở bảng 3 thấy được: sau phẫu thuật 1 tuần có 10,77% cuốn mũi giữa không thấy vảy, 81,54% có vảy ít, và 7,69% có vảy vừa. Sau phẫu thuật 1 tháng và 3 tháng toàn bộ cuốn mũi giữa đều không có vảy. Như vậy, sau phẫu thuật cắt bán phần ngoài XHCG vảy mũi thường có ít và không tồn tại lâu. Từ sau phẫu thuật 1 tháng, không còn trường hợp nào còn thấy vảy mũi.

Về tình trạng cuốn mũi giữa sau phẫu thuật qua nội soi ở bảng 4 nhận thấy: tất cả trường hợp sau phẫu thuật 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng đều có cuốn mũi giữa thu nhỏ, thon gọn. Nghiên cứu của Nguyễn Nguyện [3] và Phạm Trung Kiện [2] cũng cho kết quả tất cả cuốn giữa thon gọn sau phẫu thuật giống kết quả của chúng tôi. Như vậy sau phẫu thuật 100% cuốn mũi giữa thon gọn có thể quan sát dễ dàng qua nội soi đánh giá sau mổ.

Tình trạng dính sau phẫu thuật ở bảng 5: sau phẫu thuật 1 tuần chỉ có 2/130 cuốn mũi giữa (1,54%) dính vào vách ngăn mũi, không có trường hợp nào dính vào vách mũi xoang. Sự dính này có thể do trong lúc phẫu thuật có làm trầy xước phần niêm mạc cuốn mũi giữa bên phía đối diện vách ngăn mũi. 2 trường hợp này sau đó được chúng tôi tách dính ở phòng soi bằng cách dùng kẹp khuỷu kẹp bông tẩm Naphazoline 0,05% và Lidocaine 10% tách 2 phần dính ra và đặt vào giữa 1 miếng Spongel nhỏ, theo dõi sau đó 1 tuần không còn tình trạng dính. Đến sau phẫu thuật 1 tháng và 3 tháng không còn trường hợp nào có xơ dính sau mổ. Bệnh nhân phẫu thuật XHCG có tỷ lệ xơ dính sau phẫu thuật rất thấp, và không có trường hợp nào dính cuốn mũi giữa vào vách mũi xoang, chủ yếu là dính vào vách ngăn mũi do sự trầy xước niêm mạc trong khi phẫu thuật và phần niêm mạc cuốn mũi giữa bên phía đối diện vách ngăn thường không được chèn Merocel để tránh sự tiếp xúc giữa niêm mạc cuốn giữa và vách ngăn sau phẫu thuật.

(6)

Đánh giá kết quả điều trị sau phẫu thuật ở bảng 6 nhận thấy: sau phẫu thuật 1 tuần có 54,7% bệnh nhân đạt kết quả tốt, 45,3% bệnh nhân đạt kết quả trung bình. Kết quả này tăng lên sau phẫu thuật 1 tháng: 72,6% bệnh nhân đạt kết quả tốt và 27,4% bệnh nhân có kết quả trung bình. Đến sau phẫu thuật 3 tháng: có 85,3% bệnh nhân đạt kết quả tốt và 14,7% bệnh nhân có kết quả trung bình. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0.05).

Sau phẫu thuật không có bệnh nhân nào có kết quả xấu. Sau 3 tháng phẫu thuật, tất cả bệnh nhân đều cải thiện triệu chứng hoàn toàn hoặc một phần. Nghiên cứu của Phạm Trung Kiện [2]: sau phẫu thuật 1 tuần có 80,6% bệnh nhân đạt kết quả tốt và 19,4% trung bình. Sau 3 tháng có 91,7% bệnh nhân kết quả tốt và 8,3% trung bình. Nghiên cứu của Badran và cộng sự [5] tiến hành trên 47 bệnh nhân có XHCMG với thời gian theo dõi là 6 tháng có kết quả: sau phẫu thuật 6 tháng có 46/47 bệnh nhân (97,87%) cải thiện các triệu chứng hoàn toàn hoặc một phần và chỉ 1/47 bệnh nhân (2,13%) không cải thiện triệu chứng. Như vậy, kết quả điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi có thấp hơn tác giả Phạm Trung Kiện đôi chút và cao hơn tác giả Badran. Nguyên nhân có thể do cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi lớn hơn tác giả Phạm Trung Kiện. Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành trên 95 bệnh nhân còn tác giả Phạm Trung Kiện là 36 bệnh nhân.

V. KẾT LUẬN

Phẫu thuật nội soi cắt bán phần ngoài cuốn mũi giữa để điều trị XHCG có hiệu quả cao trong điều trị XHCG với tỷ lệ tai biến rất thấp, sự lành thương sau phẫu thuật tốt, tỷ lệ xơ dính sau phẫu thuật ít (chủ yếu là dính cuốn mũi giữa vào vách ngăn mũi), không trường hợp nào dính cuốn mũi giữa vào vách mũi xoang. Kết quả sau phẫu thuật 3 tháng có 85,3% bệnh nhân đạt kết quả tốt và 14,7% trung bình, tất cả bệnh nhân đều cải thiện triệu chứng hoàn toàn hoặc một phần.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Minh Hảo Hớn (2004), Khảo sát Concha Bullosa qua nội soi, CT-scan – Giải phẫu bệnh lý – Chỉ định điều trị phù hợp và đánh giá kết quả, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Dược TP HCM.

2. Phạm Trung Kiện (2016), Đánh giá kết quả phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn kết hợp cắt túi hơi cuốn giữa, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Dược Huế.

3. Nguyễn Nguyện (2014), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cắt lớp vi tính và kết quả phẫu thuật bệnh nhân có túi hơi cuốn giữa, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược Huế.

4. Ahmed E. A., Hanci D., Ustun O. (2018), ”Surgical Techniques for the Treatment of Concha Bullosa: A Systematic Review”, Otolaryngol Open J.2018, 4(1), pp. 9-14.

5. Badran H. S. (2011), ”Role of surgery in Isolated Concha Bullosa”, Clinical Medicine Insights: Ear, Nose and Throat, 4, pp. 13-19.

6. Belli E., Rendine G., Mazzone N. (2009), ”Concha Bullosa: Endoscopic Treatment”, J Carniofa Surg 2009, 20, pp. 1165 – 1168.

7. Dog˘ru H. et al. (2001), “A New Turbinoplasty Technique for the Management of Concha Bullosa: Our Short-Term Outcomes”, Laryngoscope, 111, pp. 172-174.

(Ngày nhận bài: 10/8/2018- Ngày duyệt đăng: 10/9/2018)

Referensi

Dokumen terkait

Thứ nhất, tỷ lệ thải ghép nội mô sau phẫu thuật còn khá cao, khoảng 20% trong 5 năm.5 Thứ hai, đây là phẫu thuật mở nhãn cầu nên có thể gặp các biến chứng như xuất huyết nội nhãn, đục

Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu Trong hai năm nghiên cứu, chúng tôi tiến hành được 15 trường hợp phẫu thuật nội soi liên bản sống điều trị thoát vị đĩa đệm L5/S1.. Toàn

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐẶT MẢNH GHÉP HOÀN TOÀN NGOÀI PHÚC MẠC Ở BỆNH NHÂN TRÊN 40 TUỔI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG Lê Huy Cường1*, Nguyễn

Do vậy, phẫu thuật phục hồi chức năng nghe cho bệnh nhân là rất cần thiết vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị viêm tai giữa mạn thủng nhĩ

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân đục thể thủy tinh bằng phẫu thuật phaco kết hợp đặt vòng căng bao” với 2 mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng

Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu này thực hiện nhằm đánh giá kết quả điều trị tủy răng cửa bằng phương pháp trâm xoay kết hợp lèn dọc nóng bằng hệ thống EQ-V sau 1 tuần điều trị.. Đối

KẾT LUẬN Qua nghiên cứu phẫu thuật nội soi cắt trước thấp trong điều trị ung thư trực tràng trên và giữa, chúng tôi nhận thấy đây là phẫu thuật có tính khả thi cao, an toàn và đảm bảo

Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn lựa chọn: tất cả các BN được chẩn đoán trước, trong và sau mổ có U đại tràng được phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Trung ương Huế cơ sở 2 thời gian từ