• Tidak ada hasil yang ditemukan

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG Ở NGƯỜI BỆNH CÓ DI CHỨNG SAU ĐỘT QUỴ BẰNG CÁC BÀI TẬP VẬN ĐỘNG TẠI CỘNG ĐỒNG

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG Ở NGƯỜI BỆNH CÓ DI CHỨNG SAU ĐỘT QUỴ BẰNG CÁC BÀI TẬP VẬN ĐỘNG TẠI CỘNG ĐỒNG"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG Ở NGƯỜI BỆNH CÓ DI CHỨNG SAU ĐỘT QUỴ BẰNG CÁC BÀI TẬP VẬN ĐỘNG

TẠI CỘNG ĐỒNG

Nguyễn Đình Quang1*, Võ Huỳnh Trang2 1. Bệnh Viện Đa Khoa Đồng Nai, 2. Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ

* Email: [email protected] TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai và là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế ở ngưởi trưởng thành [4]. Bằng chứng cho thấy 80% sự phục hồi chức năng (PHCN) sau giai đoạn cấp của người bệnh đột quỵ xảy ra trong 3 tháng đầu[9]. Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định các loại và mức độ di chứng ở các người bệnh có di chứng sau đột quỵ. (2) Đánh giá hiệu quả phục hồi vận động và các yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp không nhóm chứng trên 187 người bệnh nhập viện điều trị đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai có di chứng khi xuất viện, từ năm 2018 đến 2019. Can thiệp PHCN bằng phương pháp hoạt động trị liệu cho bệnh nhân đột quỵ.

Đánh giá hiệu quả chương trình can thiệp tại thời điểm 3 tháng sau khi xuất viện bằng 2 thang điểm Barthel và Rankin điều chỉnh. Kết quả: Vị trí tổn thương não chủ yếu là ở hai bán cầu đại não chiếm 84,41%. Loại di chứng chủ yếu là yếu liệt nửa người người (86,63%). Hiệu quả PHCN năng tốt đạt 74,33% theo thang điểm Ranhkin hiệu chỉnh và 58,29% theo chỉ số Barthel. Tuổi, nghề nghiệp, loại di chứng là các yếu tố liên quan đến hiệu quả PHCN trên người bệnh. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy hiệu quả tích cực của chương trình PHCN dựa vào cộng đồng trên người bệnh có di chứng sau đột quỵ.

Từ khóa: Đột quỵ, di chứng sau đột quỵ, Phục hồi chức năng sau đột quỵ, thang điểm NIHSS, thang điểm Barthel, thang điểm Rankin điều chỉnh.

ABSTRACT

EVALUATE THE EFFICIENCY OF MOTOR REHABILITATION ON PATIENTS WITH POST STROKE SEQUELAE THROUGH MOTOR

EXERCISES AT COMUNITY

Nguyen Dinh Quang1, Vo Huynh Trang2 1. Dong Nai General Hospital 2. Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: Stroke has been the second-leading cause of death, and also the first reason for disability in adult. Evidence showed that 80% of the recovery by rehabilitation after the acute phase of stroke patients occurred in the first 3 months. Objectives: to identify the type and level of post- stroke sequelae on patients and evaluate the efficiency of motor rehabilitation and the related factors. Materials and methods: an intervention – non control group study on 187 patients discharged from Dong Nai General Hospital with post-stroke sequelae from 2018 to 2019. The motor rehabilitation therapy for intervention, and Barthel index modified Rankin scale was used to evaluate the efficiency of the Rehabilitation after 3 months left. Results: The location of brain damage on CT images or brain MRI images was mainly in two cerebral hemispheres accounting for 84.41%.

The main after-effect type of brain stroke was hemiplegic (86.63%). The proportion of patients had good recovery was 74.33% (followed modified Rankin scale) and 58.29% (followed Barthel Index). The patient’s age, career, type of post-stroke sequelae were related factors to the rehabilitation efficiency of patients. Conclusion:

a positive efficiency of the Rehabilitation base on a community on patients with post stroke sequelae.

Keywords: Stroke, post-stroke sequelae, post-stroke rehabilitation, NIHSS Score, Barthel index, modified Rankin scale

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

(2)

Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong thứ hai và là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế ở ngưởi trưởng thành [4], [5]. Tỷ lệ hiện mắc của đột quỵ và gánh nặng do nó gây ra có sự khác nhau rất lớn giữa các quốc gia, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển [6]. Hàng năm trên cả nước có khoảng 200.000 người mắc mới đột quỵ, trong đó tỷ lệ mắc ở nam giới cao gấp bốn lần nữ giới [8]. Khả năng và mức độ hồi phục chức năng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Người bệnh có thể hồi phục sớm và hoàn toàn nếu vùng não bị tổn thương tương ứng được tái tưới máu sớm do điều trị tái thông bằng thuốc và lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học tại bệnh viện, hoặc hồi phục muộn do những tế bào thần kinh vùng kế cận đảm nhận chức năng thay thế cho những tế bào thần kinh đã chết. Điều này có được nhờ tập luyện phục hồi chức năng sau giai đoạn cấp và tối ưu nhất là trong 3 tháng đầu sau khởi phát đột quỵ [9]. Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng giúp tối ưu hóa sự phục hồi chức năng và giảm thiểu tối đa sự tàn phế cho người bệnh khuyết tật nói chung và cho người bệnh đột quỵ nói riêng [3]. Nghiên cứu gần đây nhất về mô hình này trên người bệnh đột quỵ của tác giả Huỳnh Minh Phú năm 2017 tại thành phố Cần Thơ cho thấy những kết quả hồi phục rất khả quan các chức năng của người bệnh sau đột quỵ [1]. Tuy nhiên nghiên cứu chưa cung cấp thông tin về những điều trị cấp ban đầu ảnh hưởng trực tiếp lên kết cục về lâu dài của người bệnh đột quỵ, chỉ can thiệp gián tiếp qua người nhà người bệnh, nội dung can thiệp còn bao quát nên chưa làm rõ được sự khác biệt của can thiệp PHCN lên sự phục hồi người bệnh đột quỵ [1].

Khắc phục những hạn chế trên, với điều kiện thuận lợi là một đơn vị đột quỵ chuẩn, ngoài việc thực hiện những can thiệp chuyên sâu nhất trong điều trị đột quỵ cấp, tác giả mong muốn đánh giá được vai trò của PHCN tại cộng đồng lên sự độc lập chức năng của người bệnh đột quỵ giai đoạn sau xuất viện. Do đó, chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu tình hình di chứng, đánh giá hiệu quả chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và một số yếu tố liên quan trên người bệnh có di chứng sau đột quỵ tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai năm 2018-2019”.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện nghiên cứu can thiệp không nhóm chứng trên 187 người bệnh được chẩn đoán đột quỵ lần đầu, nhập viện điều trị tại khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai từ ngày 01/06/2018 đến ngày 01/6/2019 thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu.

2.2. Phương pháp nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn vào:

Người bệnh được chẩn đoán đột quỵ lần đầu theo tiêu chuẩn WHO (1990) và được khẳng định trên hình ảnh CT Scanner sọ não và/hoặc MRI não được nhập vào điều trị tại khoa Nội Thần kinh Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai từ ngày 01/06/2018 đến ngày 01/02/2019. Đồng thời chọn người bệnh có di chứng tại thời điểm xuất viện được đánh giá theo thang điểm Barthel và Rankin điều chỉnh và đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ:

Loại khỏi nghiên cứu những người bệnh được chẩn đoán cơn thiếu máu não thoáng qua, hình ảnh CTScanner hoặc MRI sọ não thấy tổn thương toàn bộ vùng chi phối của động mạch não giữa hoặc động mạch cảnh trong;

Có các bệnh đồng mắc nặng giai đoạn cuối ảnh hưởng đến sự PHCN;

Mất theo dõi hoặc tử vong trong thời gian nghiên cứu.

Thiết kế nghiên cứu:

Nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng. Chúng tôi sử dụng phương pháp hoạt động trị liệu cho bệnh nhân đột quỵ để hướng dẫn tập luyện cho người bệnh và người nhà trong thời

(3)

gian 3 tháng tính từ thời điểm xuất viện. Đánh giá hiệu quả PHCN của người bệnh đột quỵ tại thời điểm 3 tháng sau bằng 2 thang điểm Barthel và Rankin điều chỉnh.

Một số biến số nghiên cứu và định nghĩa biến:

Vị trí thương tổn não trên hình ảnh CT Scanner hoặc MRI não lúc nhập viện, hoặc được chụp lại lần hai sau 24-48 giờ nếu lần đầu không phát hiện thương tổn.

Điểm NIHSS: thang điểm đột quỵ đánh giá tại thời điểm nhập viện.

Điểm mRS: đánh giá mức độ giảm khả năng, tàn tật lúc xuất viện và sau 3 tháng can thiệp.

Có 3 mức độ là: nhẹ (0-2 điểm), vừa (3 điểm), nặng (4-5 điểm).

Chỉ số Barthel lúc xuất viện và sau 3 tháng can thiệp. Có 3 mức độ là: Độc lập (90-100 điểm), có trợ giúp (70-85 điểm), phụ thuộc (dưới 65 điểm).

Người bệnh được đánh giá là có hồi phục chức năng khi chêch lệch điểm mRS > 0 hoặc BI >10.

Phương pháp thu thập và xử lý số liệu

Khám lâm sàng tất cả người bệnh sau khi nhập viện tại khoa Nội thần kinh trong vòng 24 giờ, ghi nhận tất cả thông tin bệnh án về tiền sử, bệnh sử, lâm sàng, cận lâm sàng cần thiết; đánh giá điểm số Barthel và Rankin điều chỉnh lúc xuất viện;

Đánh giá lại điểm Barthel và Rankin điều chỉnh sau 3 tháng áp dụng can thiệp bằng cách khám trực tiếp tại phòng khám hoặc gọi điện thoại phỏng vấn người bệnh hoặc người thân của họ.

Số liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng phần mềm STATA 13.0;

Báo cáo tần số, tỷ lệ cho các biến số định tính; trung bình, độ lệch chuẩn cho các biến số định lượng. Dùng phép kiểm Chi bình phương ( 2), hoặc Fisher exact test cho biến số kết cuộc định tính. Các biến số có mức ý nghĩa với p<0,05, khoảng tin cậy 95%.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trong 8 tháng, chúng tôi chọn vào được 257 đối tượng thỏa mãn tiêu chuẩn chọn vào. Có 18 người bệnh tử vong và 52 bệnh nhân mất theo dõi hoặc ngừng tham gia nghiên cứu. Do đó còn lại 187 người bệnh được đưa vào nghiên cứu.

Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu tại thời điểm nhập viện

Các thông số Tần số (Tỉ lệ%) TB ± ĐLC

Tuổi (năm) 61,89±13,78

Nam giới 117(62,57%)

Điểm NIHSS 7,73±5,76

Tiền sử tăng huyết áp 118(63,44%)

Tiền sử đái tháo đường 15(8,06%)

Có tổn thương bán cầu não trên hình ảnh học 157(84,41%) Thời gian từ lúc khởi phát đến lúc nhập viện

(giờ) 3,54±0,065

Trong 187 mẫu nghiên cứu, độ tuổi trung bình của dân số khoảng 62, dao động từ 18 đến 91 tuổi. Nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn (62,57%). Số người bệnh có tiền sử tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao (63,44%), trong khi đó số người bệnh có tiền sử đái tháo đường chiếm tỷ lệ khá thấp (8,06%).

Vị trí thương tổn chủ yếu là hai bán cầu não (84,41%). Thời gian trung bình từ lúc khởi phát đến lúc nhập viện là 3,54 giờ.

Bảng 2. Đặc điểm điều trị ban đầu của nhóm nghiên cứu

Các thông số Tỉ lệ (%)

Điều trị ban đầu bằng thuốc tiêu sợi huyết 11(5,88%)

Điều trị ban đầu bằng lấy huyết khối cơ học 9(4,84%)

(4)

Có 5,88% người bệnh được điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch và 4,84%

người bệnh được điều trị bằng lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học. Ngoài ra có 4 người bệnh (chiếm tỷ lệ 2,14%) được điều trị kết hợp cả tiêu sợi huyết và lấy huyết khối bằng dụng cụ.

Bảng 3. Đánh giá theo thang điểm mRS, Barthel và di chứng lúc xuất viện

Các thông số Tỉ lệ (%) TB ± ĐLC

Điểm mRS lúc xuất viện 3,10±1,36

Điểm Barthel lúc xuất viện 58,21±31,59

Di chứng lúc xuất viện

Yếu liệt nửa người 163(86,63%)

Yếu liệt toàn thân 5(2,69%)

Rối loạn ngôn ngữ 35(18,82%)

Điểm mRS và Barthel trung bình lúc xuất viện lần lượt là 3,1 và 58,21. Loại di chứng thường gặp nhất sau đột quỵ não là yếu liệt nửa người với tỷ lệ 86,63%, sau đó là rối loạn ngôn ngữ chiếm 18,82%. Chỉ có 5 người bệnh yếu liệt toàn thân chiếm tỷ lệ rất thấp (2,69%).

Bảng 4. Đánh giá theo thang điểm mRS và Barthel sau 3 tháng

Các thông số TB ± ĐLC

Điểm mRS 3 tháng 1,87± 1,76

Điểm Barthel sau 3 tháng 80,56±31,49

Điểm mRS của người bệnh sau khi thực hiện can thiệp PHCN là 1,87 với độ lệch chuẩn 1,76.

Đồng thời, điểm Barthel trung bình được ghi nhận là 80,56, độ lệch chuẩn 31,49.

Bảng 5. So sánh mức độ giảm khả năng tàn tật sau 3 tháng theo điểm mRS Mức độ giảm khả

năng, tàn tật

Điểm mRS

Giá trị p Lúc xuất viện (%) Sau 3 tháng (%)

Nhẹ 32,62 68,45 <0,001

Vừa 17,65 10,16

Nặng 49,73 21,39

TB±ĐLC 3,10±1,36 1,87±1,76

Có sự chênh lệch rõ rệt giữa tỷ lệ giảm khả năng, tàn tật mức độ nhẹ tại 2 thời điểm xuất viện và sau 3 tháng. Ngoài ra, điểm mRS trung bình giảm từ mức vừa (>3) xuống mức nhẹ (<2), khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Bảng 6. Đánh giá hiệu quả PHCN dựa trên điểm mRS

Phân loại mức độ PHCN theo mRS Tần số Tỷ lệ (%)

Tốt 139 74,33

Không tốt 48 25,67

TB±ĐLC 1,22±1,38

Trong 187 mẫu nghiên cứu sau can thiệp, có 139 người bệnh có hiệu quả phục hồi tốt theo chỉ số mRS, chiếm tỉ lệ 74,33%. Có 25,67% người bệnh được đánh giá không có hiệu quả sau chương trình can thiệp. Điểm mRS chênh lệch trung bình là 1,22 với độ lệch chuẩn 1,38.

Bảng 7. Đánh giá hiệu quả PHCN dựa trên chỉ số BI

Phân loại mức độ PHCN theo BI Tần số Tỷ lệ (%)

Tổt 109 58,29

(5)

Không tốt 78 41,71

TB±ĐLC 22,35±27,15

Đánh giá theo thang điểm BI, có 109 người bệnh (chiếm tỉ lệ 58,29%) có hiệu quả PHCN tốt. Các đối tượng có điểm số chênh lệch khá nhiều, khi điểm trung bình chỉ ở mức 22,35 với độ lệch chuẩn 27,15.

Bảng 8. Mối liên quan giữa đặc điểm dân số mẫu và hiệu quả PHCN Yếu tố

Hiệu quả PHCN

PR

(KTC 95%) p Tốt (%) Không tốt

(%) Nhóm tuổi

Dưới 60 tuổi 72(84,71) 13(15,29) 1

Từ 60 đến 80 tuổi 59(71,08) 24(28,92) 0,77(0,66-0,89) 0,001 Trên 80 tuổi 8(42,11) 11(57,89) 0,59(0,44-0,80) 0,001

Giới Nữ 51(72,86) 19(27,14) 1

Nam 88(75,21) 29(24,79) 1,03(0,87-1,23) 0,721

Học vấn

Dưới 1 năm 10(58,82) 7(41,18) 1

Từ 1 đến 5 năm 54(72,97) 20(27,03) 1,24(0,81-1,89) 0,317 Từ 6 đến 9 năm 39(81,25) 9(18,75) 1,38(0,91-2,11) 0,133 Từ 10 đến 12 năm 25(73,53) 9(26,47) 1,25(0,80-1,95) 0,328 Trên 12 năm 11(78,57) 3(21,43) 1,34(0,82-2,17) 0,241 Nghề nghiệp

Nông dân 34(79,07) 9(20,93) 1

Công nhân viên 24(92,31) 2(7,69) 1,17(0,86-0,98) 0,011 Buôn bán 20(90,91) 2(9,09) 1,15(0,74-0,96) 0,011 Khác 61(63,54) 35(36,46) 0,80(0,64-0,94) 0,011 Dân tộc* Kinh 137(75,27) 45(24,73)

Khác 2(40,00) 3(60,00) 0,53(0,18-1,56) 0,108

*Kiểm định Fisher

Không có mối liên quan giữa hiệu quả PHCN với giới tính, học vấn, dân tộc. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hiệu quả PHCN ở các nhóm tuổi khác nhau. Những người bệnh ở nhóm tuổi cao hơn có hiệu quả PHCN thấp hơn so với nhóm tuổi dưới 60 tuổi (p=0,001). Ngoài ra, thống kê cho thấy có mối liên quan giữa nghề nghiệp người chăm sóc với hiệu quả PHCN của người bệnh. Những người bệnh có người người chăm sóc là nông dân có hiệu quả PHCN thấp hơn so với các nhóm công nhân viên và buôn bán (p=0,011), nhưng cao hơn so với nghề khác (p=0,011).

Bảng 9. Mối liên quan giữa các loại di chứng lên hiệu quả PHCN

Di chứng Hiệu quả PHCN

PR (KTC 95%) p Tốt (%) Không tốt (%)

Yếu nửa người Không 18(72,00) 7(28,00) 1

121(74,69) 41(25,31) 1,04(0,80-1,34) 0,774

Yếu toàn thân* Không 135(74,59) 46(25,41) 1

3(60,00) 2(40,00) 0,80(0,39-1,65) 0,605

Yếu 1 chi* Không 131(73,18) 48(26,82) 1

7(100) 0 1,37(1,25-1,49) 0,193

RLTLC, chậm vận động*

Không 131(74,01) 46(25,99) 1

7(77,78) 2(22,22) 1,05(0,73-1,51) 1,000

Không 132(73,33) 48(26,67) 1

(6)

Di chứng Hiệu quả PHCN

PR (KTC 95%) p Tốt (%) Không tốt (%)

Rối loạn cảm giác*

6(100) 0 1,36(1,25-1,49) 0,341

Mất ngôn ngữ Không 121(80,13) 30(19,87) 1

17(48,57) 18(51,43) 0,61(0,43-0,86) <0,001 Tiêu tiểu không

tự chủ*

Không 133(76,44) 41(23,56) 1

5(41,67) 7(58,33) 0,55(0,28-1,07) 0,014

Khác Không 113(81,29) 26(18,71) 1

25(53,19) 22(46,81) 0,65(0,49-0,87) <0,001

*Kiểm định Fisher

Nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa hiệu quả PHCN với di chứng mất ngôn ngữ. Người bệnh có di chứng mất ngôn ngữ có hiệu quả PHCN thấp hơn, bằng 0,61 lần so với người bệnh không có di chứng mất ngôn ngữ. Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001, KTC95% 0,43-0,86.

Người bệnh có di chứng tiểu tiện không tự chủ hoặc các di chứng khác có hiệu quả PHCN thấp hơn so với người bệnh không có di chứng tiểu tiện không tự chủ hoặc không có di chứng khác (p<0,05). Các khác biệt về hiệu quả PHCN với di chứng yếu nửa người, yếu toàn thân, yếu 1 chi, rối loạn trương lực cơ-chậm vận động, rối loạn cảm giác không có ý nghĩa thống kê.

IV. BÀN LUẬN

Sự khác biệt lớn về hiệu quả PHCN trước và sau khi tiến hành can thiệp trong nghiên cứu của chúng tôi là sự thay đổi về chỉ số Barthel và điểm Rankin điều chỉnh rất lớn. Chỉ số Barthel tăng từ 58,21 lên 80,56 và điểm Rankin điều chỉnh giảm từ 3,1 xuống còn 1,87 (p<0,001). Điều này có thể lý giải bởi điểm Rankin điều chỉnh trung bình của người bệnh lúc xuất viện thấp với 3,1±1,36. Có nghĩa là người bệnh xuất viện chỉ với di chứng tàn tật nhẹ nên khả năng hồi phục dự đoán sẽ tốt hơn. Ngoài ra còn những lý do khác như tuổi người bệnh trong nghiên cứu này không cao (trung bình 61,89) với hơn 45% là người bệnh trẻ có tuổi nhỏ hơn 60, và sự chênh lệch tuổi về tuổi là không nhiều.

Qua phân tích chúng tôi nhận thấy có nhiều yếu tố liên quan đến hiệu quả hồi phục chức năng của người bệnh sau đột quỵ. Nhóm tuổi và nghề nghiệp của người chăm sóc là 2 yếu tố nền có mối liên quan chặt chẽ tới hiệu quả phục hồi của người bệnh. Lý giải cho kết quả trên, thực tế cho thấy các đối tượng thuộc nhóm tuổi trẻ hơn luôn có khả năng phục hồi tế bào tốt hơn so với các tế bào lão hóa ở các nhóm tuổi cao hơn. Kết quả này cũng hằng định với nhiều nghiên cứu trong nước và trên thế giới [2], [3] , [7]. Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 74,33%

người bệnh phục hồi chức năng tốt sau 3 tháng can thiệp qua chỉ số đánh giá mRS, và 58,29% theo chỉ số Barthel. Con số này cao hơn so với của tác giả Nguyễn Bá Thắng với 49,6% [3]. Điều này được lý giải do tác giả Nguyễn Bá Thắng chỉ nghiên cứu tiến cứu theo dõi sự hồi phục của người bệnh mà không tiến hành can thiệp PHCN. Ngoài ra, trong các yếu tố lâm sàng, loại di chứng sau đột quỵ đóng vai trò quan trọng quyết định sự hồi phục chức năng sinh hoạt của người bệnh. Chỉ số thống kê cho thấy các loại di chứng mất ngôn ngữ, tiểu tiện không tự chủ và các di chứng khác cho tỉ lệ phục hồi chức năng thấp hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với cơ sở lý thuyết về PHCN sau đột quỵ và tương đồng kết quả với các nghiên cứu khác [1],[2].

V. KẾT LUẬN

Tuổi trung bình của người bệnh đột quỵ là 61,89±13,78, nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn với 62,57%.

(7)

Tỷ lệ tàn tật sau đột quỵ rất cao với 89,32% người bệnh có yếu liệt nửa người hoặc toàn thân.

Có sự khác biệt rất rõ về sự PHCN trước và sau can thiệp với 74,33% người bệnh có kết cục phục hồi chức năng tốt sau 3 tháng can thiệp qua chỉ số đánh giá mRS, và 58,29% theo chỉ số Barthel.

Nhóm tuổi, nghề nghiệp, loại di chứng là những yếu tố liên quan đến hiệu quả PHCN của người bệnh có di chứng sau đột quỵ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huỳnh Minh Phú (2017), "Nghiên cứu tình hình di chúng và đánh giá kết quả chăm sóc sức khỏe tại nhà của người nhà người bệnh có di chứng tai biến mạch máu não tại thành phố Cần Thơ năm 2016- 2017", luận án bác sĩ chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược Cần Thơ.

2. Lê Tự Phương Thảo (2007), "Những yếu tố tiên lượng hậu quả chức năng trên các người bệnh nhồi máu não tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 10/2006 đến 04/2007", kỷ yếu Hội nghị khoa học Bệnh viện nhân Dân Gia Định, Tập13(6), tr. 52.

3. Nguyễn Bá Thắng (2014) "Tiên lượng hồi phục chức năng trong nhồi máu não động mạch não giữa:

khảo sát tiến cứu 149 trường hợp", Tập 11(1), tr.314-324.

4. Vũ Anh Nhị (2011), "Nghiên cứu biến chứng sau nhồi máu não cục bộ", Tạp chí Y học Tp.Hồ Chí Minh tập 15(1), tr.587-594.

5. Johnson W. et al. (2016), "Stroke: a global response is needed", Bulletin of the World Health Organization. 94 (9), pp. 634..

6. Norrving B. et al. (2013), "The global burden of stroke and need for a continuum of care", Neurology. 80 (3 Supplement 2), pp. S5-S12..

7. Paker N. et al. (2016), "Functional recovery in stroke patients with and without diabetes mellitus", Turkish Journal of Physical Medicine & Rehabilitation/Turkiye Fiziksel Tip ve Rehabilitasyon Dergisi. 62 (3).

8. Tirschwell D. L. et al. (2012), "A prospective cohort study of stroke characteristics, care, and mortality in a hospital stroke registry in Vietnam", BMC neurology. 12 (1), pp. 150..

9. Wissel J. et al. (2013), "Navigating the poststroke continuum of care", J Stroke Cerebrovasc Dis.

22 (1), pp. 1-8..

(Ngày nhận bài: 05/09/2019 - Ngày duyệt đăng bài:04/10/2019)

Referensi

Dokumen terkait