ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THIẾU MÁU THIẾU SẮT Ở TRẺ
TỪ 6 THÁNG ĐẾN 5 TUỔI
Nguyễn Thị Trang*,Nguyễn Ngọc Sáng*, Vũ Văn Quang*, Nguyễn Thị Ngọc Thủy*
TÓM TẮT29
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan tới mức độ thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em. Đối tượng: 134 bệnh nhi bị thiếu máu thiếu sắt điều trị tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ 01/06/2016 đến 31/05/2017.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỉ lệ trẻ trai mắc thiếu máu nhiều hơn trẻ gái. Thiếu máu thiếu sắt gặp nhiều hơn ở nhóm 6 - 23 tháng (71,7%). Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là da xanh, niêm mạc nhợt (92%), biếng ăn (70,9%). Các chỉ số số lượng hồng cầu, Hemoglobin, sắt huyết thanh và Ferritin huyết thanh đều giảm. Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê tới thiếu máu thiếu sắt nặng là trẻ đẻ nhẹ cân, cai sữa sớm, có tiền sử tiêu chảy và suy dinh dưỡng với p < 0,05. Kết luận: Thiếu máu thường gặp ở trẻ từ 6 - 23 tháng tuổi, với đặc điểm thiếu máu thiếu sắt hồng cầu nhỏ nhược sắc, thường gặp thiếu máu mức độ nhẹ. Các yếu tố liên quan tới thiếu máu thiếu sắt nặng là trẻ đẻ nhẹ cân, cai sữa sớm, có tiền sử tiêu chảy và suy dinh dưỡng.
Từ khóa: thiếu máu, thiếu sắt, trẻ em.
SUMMARY
CLINICAL EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERISTICS AND RISK
*Trường Đại học Y Dược Hải Phòng Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Trang Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 15.3.2021
Ngày phản biện khoa học: 15.4.2021 Ngày duyệt bài: 31.5.2021
DETERMINANTS OF IRON DEFICIENCY ANEMIA AMONG
CHILDREN FROM 6 MONTHS TO 5 YEARS
Objective: To describe clinical epidemiology characteristics and risk determinants of iron deficiency anemia among children. Subjects: 134 children with iron deficiency anemia treated in Haiphong Childen’s hospital from 01/06/2016 to 31/05/2017.
Method: Cross sectional study. Results: The proportion of boys with anemia is higher than girls. Iron deficiency anemia was more common in the 6 - 23 months group (71.7%) The most common clinical symptoms were pale skin, pale mucous membranes (92%) and anorexic (70.9%).
Red Blood Cell, Hemoglobin, serum iron and ferritin were decreased. Among the low birth weight, early weaning, a history of diarrhea and malnutrion had a significant effect on anemia (p
< 0.05). Conclusions: Anemia is common in children from 6 to 23 months with characteristic of iron dificiency anemia and hypochromic microcytic anemia, mild anemia is common.
Among the low birth weight, early weaning, a history of diarrhea and malnutrion had a significant effect on anemia.
Keywords: anemia, iron dificiency, children.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu là bệnh lý thường gặp trên lâm sàng, bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên, dẫn đến giảm nồng độ Hemoglobin trong một đơn vị thể tích máu [1]. Nếu bệnh không được điều trị sẽ gây
những hậu quả nghiệm trọng đến với trẻ. Tỉ lệ thiếu máu ở trẻ em có sự dao động lớn tại các quốc gia phát triển và đang phát triển, đó là tại các quốc gia phát triển tỉ lệ thiếu máu it hơn so với các quốc gia đang phát triển [1].
Nguyên nhân thiếu máu phổ biến nhất ở trẻ em liên quan tới tình trạng thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu sắt [2],[3],[4]. Mức độ thiếu máu nhẹ thường chiếm tỉ lệ cao và ít ảnh hưởng hơn tới sinh hoạt, cuộc sống của trẻ.
Tuy nhiên, thiếu máu mức độ vừa và nặng thì ảnh hưởng rất nhiều tới sự phát triển thể chất của trẻ cũng như các hoạt động thể chất, sinh hoạt hàng ngày. Tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng, hàng năm có nhiều bệnh nhi vào điều trị vì thiếu máu, trong đó nhiều trường hợp là thiếu máu thiếu sắt. Vậy, đặc điểm dịch tễ học lâm sàng, cận lâm sàng ở trẻ thiếu máu thiếu sắt tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng như thế nào? Yếu tố nào liên quan đến tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở những trẻ trên? Là những câu hỏi cần được giải đáp.
Do đó chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng, cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ từ 6 tháng đến 5 tuổi vào điều trị tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ 01/06/2016 đến 31/05/2017.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt mức độ nặng ở các bệnh nhân trên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu:
Gồm 134 trẻ được chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt điều trị tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ 01/06/2016 đến 31/05/2017.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
- Bệnh nhi từ 6 tháng đến 5 tuổi, được chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt theo tiêu chuẩn WHO năm 2001:
+ Hb < 110 g/l
+ Ferritin huyết thanh < 30 ng/ml 2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ:
- Chảy máu, rối loạn chảy máu, xuất huyết
- Truyền máu hoặc phẫu thuật trong 2 tháng gần đây.
2.1.4. Tiêu chuẩn về mức độ thiếu máu:
- Thiếu máu nhẹ: 90 Hb < 110 g/l - Thiếu máu vừa: 60 Hb < 90 g/l - Thiếu máu nặng: 30 Hb < 60 g/l - Thiếu máu rất nặng: Hb < 30 g/l 2.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang - Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:
Chọn mẫu thuận tiện, lấy toàn bộ bệnh nhân đủ tiêu chuẩn trong thời gian thực hiện nghiên cứu.
- Nội dung nghiên cứu:
+ Về dịch tễ học lâm sàng: tuổi, giới, địa dư, chiều cao, cân nặng, lý do vào viện, tiền sử, da xanh, niêm mạc nhợt, móng tay, móng chân, tóc, lông, biếng ăn, mệt mỏi, chậm phát triển,…
+ Về cận lâm sàng: xét nghiệm công thức máu, huyết đồ, sắt huyết thanh, Ferritin huyết thanh,…
+ Về các yếu tố liên quan: cân nặng lúc sinh, tình trạng dinh dưỡng, yếu tố dinh dưỡng, tiền sử bệnh tật, tiền sử sản khoa, tiền sử dinh dưỡng phát triển,…
- Phương pháp thu thập số liệu: Mỗi bệnh nhân có một bệnh án riêng theo mẫu nghiên cứu, trong đó ghi chép đầy đủ họ và tên trẻ, tuổi, giới, ngày vào viện, ngày ra viện, lí do vào viện, bệnh sử, tiền sử, các yếu tố liên quan, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán và điều trị chăm sóc...
- Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm SPSS 20.0, tính tỷ lệ phần trăm, so sánh tỷ lệ phần trăm bằng test khi bình phương, có sự khác nhau khi p<0,05, So sánh 2 số trung bình bằng t-test, có sự khác nhau khi p<0,05, Tính OR để tìm mối liên quan giữa một số yếu tố liên quan với mức độ thiếu máu.
Đạo đức nghiên cứu:
- Nghiên cứu được sự đồng ý cho phép của Hội đồng Y Đức Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng và gia đình bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu phục vụ cho khoa học, không phục vụ bất cứ mục tiêu nào khác.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Một số đặc điểm dịch chung của 134 trẻ thiếu máu:
Đặc điểm Số bệnh nhân Tỉ lệ (%)
Giới Trẻ trai 100 74,6
Trẻ gái 34 25,4
Địa dư Nội thành 49 36,6
Ngoại thành 85 63,4
Tuổi (tháng)
6 - <12 47 35,1
12 - <24 49 36,6
24 - <35 23 17,2
36 - <48 8 6,0
48 - <60 7 5,1
Bảng 1 cho thấy kết quả cho thấy bệnh ưu thế ở trẻ trai. Độ tuổi từ 6 đến 24 tháng chiếm tỉ lệ thiếu máu cao nhất.
Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt (n=134):
Triệu chứng Số bệnh nhân (n) Tỉ lệ %
Mệt mỏi 75 56
Hoa mắt chóng mặt 15 11,2
Ăn kém 95 70,9
Kém tập trung 7 5,2
Da xanh niêm mạc nhợt 123 92
Móng tay khô có vết khứa 6 4,5
Rụng tóc, tóc khô dễ gãy 9 6,7
Nhịp tim nhanh 65 48,5
Bảng 2 cho thấy da xanh niêm mạc nhợt là triệu chứng thường gặp nhất với tỉ lệ 92%.
Bảng 3: Kết quả xét nghiệm máu của 134 bệnh nhi thiếu máu
Chỉ số Min Max X ± SD
Chỉ số HC trưởng thành RBC (T/l)
Hb (g/l)
2,25 57
5,15 89
4,09 ± 0,85 75,6 ± 10,86
MCV (fL) MCH (pg) MCHC (g/l)
36,5 13 209
79,9 31,3 377
65,92 ± 8,5 20,81 ± 3,84 305,87 ± 23,94 Nồng độ sắt huyết thanh
< 4 µmol/l 62 (46,3%)
4- 7 µmol/l 52 (38,8%)
>7- 27 µmol/l 20 (14,9%)
Nồng độ Ferritin
< 15 ng/mL 99 (73,9%)
15- 30 ng/mL 35 (26,1%)
Bảng 3 cho thấy các chỉ số RBC, Hb trung bình đều giảm. Các chỉ số MCV, MCH, MCHC giảm cho thấy hồng cầu nhỏ, nhược sắc. Tỉ lệ bệnh nhân có nồng độ sắt huyết thanh giảm chiếm tỉ lệ cao, nồng độ sắt huyết thanh trung bình là 4,46 ± 2,46 (µmol/L). Tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ Ferritin < 15 ng/mL là 73,9%.
Bảng 4: Một số yếu tố liên quan đến mức độ thiếu máu thiếu sắt (n=134) Yếu tố
liên quan
Thiếu máu nặng
Thiếu máu
vừa Tổng OR (95% CI) p
Đẻ non 13
(9,7%)
25
(18,6%) 38 (28,3%) 1,33 (0,55- 3,19)
>
0,05
Nhẹ cân 18
(13,4%)
9
(6,7%) 27 (20,1%) 7,72 (3,05- 19,53)
<
0,05
Cai sữa sớm 41
(30,6%)
29
(21,6%) 70 (52,2%) 3,4 (1,52- 7,62)
<
0,05 Bú mẹ hoàn toàn
< 6 tháng
38 (28,3%)
89 (66,4%)
127 (94,7%)
1,07 (0,17- 8,35)
>
0,05 Chế độ ăn dặm
không đúng
38 (28,3%)
88
(65,7%) 126 (94%) 1,29
(0,25- 6,71)
>
0,05 Tiền sử viêm
phổi
15 (10,9%)
36
(26,9%) 51 (37,8%) 0,967 (0,45- 2,1)
>
0,05 Tiền sử tiêu chảy 35
(26,1%)
25 (18,6%)
60 (44,7%)
2,8 (1,22- 6,51)
<
0,05 Có suy dinh
dưỡng
22 (16,4%)
17
(12,7%) 39 (29,1%) 2,418 (1,01- 5,71)
<
0,05 Bảng 4 cho thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê tới thiếu máu thiếu sắt mức độ nặng ở trẻ em là cân nặng sơ sinh thấp, cai sữa sớm, tiền sử mắc bệnh tiêu chảy và tình trạng suy dinh dưỡng với p < 0,05.
IV. BÀN LUẬN
Về một số đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em
Về đặc điểm dịch tễ học:
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy số trẻ trai mắc thiếu máu nhiều hơn trẻ gái. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Chaparro [1] và Akbari [5]
- Thiếu máu thiếu sắt gặp ở tất cả các giai đoạn phát triển của trẻ, trong đó nhóm tuổi từ 6 tháng đến 23 tháng tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 71,7%. Ở giai đoạn dưới 2 tuổi, cơ thể phát triển nhanh, nhu cầu sắt tăng cao, dễ thiếu sắt khi cung cấp không đầy đủ. Kết quả của chúng tôi tương đồng với kết quả của Perrine và cộng sự [6].
- Theo nghiên cứu của chúng tôi, các triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là da xanh niêm mạc nhợt (chiếm 92%), ăn kém (70,9%), hoa mắt chóng mặt (chiếm 11,2%) ... Đây là nhóm triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân thiếu máu, không có triệu chứng đặc hiệu cho nhóm bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt.
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các chỉ số số lượng hồng cầu, Hemoglobin trung bình đều giảm. Các chỉ số MCV, MCH, MCHC giảm cho thấy hồng cầu nhỏ, nhược sắc. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Koren [7].
- Sắt huyết thanh là sắt gắn trên transferrin và có thể được vận chuyển đến các tế bào. Nếu thiếu sắt, sắt huyết thanh giảm và ngược lại. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 46,3% bệnh nhân có nồng độ sắt huyết thanh rất thấp (<4µmol/L). Đồng thời, nồng độ sắt trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 4,46 ± 2,46 (µmol/L).
- Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ ferritin < 15ng/mL chiếm tỉ lệ cao nhất là 73,9%.
Về một số yếu tố liên quan tới thiếu máu thiếu sắt mức độ nặng
- Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một số yếu tố như: nhẹ cân lúc sinh, cai sữa sớm, bệnh tiêu chảy và tình trạng suy dinh dưỡng có liên quan tới thiếu máu vừa và nặng, có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Về mối liên quan giữa tiền sử trẻ đẻ nhẹ cân lúc sinh với nguy cơ thiếu máu nặng, kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của tác giả Vendt [3]. Về yếu tố cai sữa sớm có nguy cơ bị thiếu máu nặng cao hơn gấp 3,4 lần trẻ cai sữa đúng, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Joo EY [2]. Các yếu tố khác có liên quan tới thiếu máu nặng như bệnh tiêu chảy và tình trạng suy dinh dưỡng trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Semba R.D [8].
V. KẾT LUẬN
- Về đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của bệnh lý thiếu máu ở trẻ từ 6 tháng- 5 tuổi, Hb trung bình là 95 ± 10 g/l. Bệnh thiếu máu thiếu sắt có đặc điểm là hồng cầu nhỏ nhược sắc, kích thước không đều (MCV 65 ± 8;
MCH 20 ± 3), sắt huyết thanh giảm (4 ± 2 ng/l), nồng độ Ferritin thường dưới 15 ng/ml.
- Các yếu tố liên quan ý nghĩa thống kê tới thiếu máu nặng, đó là trẻ đẻ nhẹ cân, cai sữa sớm, có tiền sử tiêu chảy và suy dinh dưỡng.
VI. KHUYẾN NGHỊ
Qua kết quả và bàn luận nói trên, chúng tôi có một số khuyến nghị sau đây:
1. Cần phát hiện sớm thiếu máu thiếu sắt ở trẻ dưới 5 tuổi, nhất là trẻ từ 6 - 24 tháng tuổi, đặc biệt khi trẻ có suy dinh dưỡng hay cân nặng lúc sinh thấp.
2. Những nghiên cứu hơn nữa về thiếu máu thiếu sắt là cần thiết để có các giải pháp điều trị và phòng bệnh thích hợp.
3. Tuyên truyền rộng rãi tới các bà mẹ vê thiếu máu thiếu sắt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chaparro CM, Suchdev PS (2019).
Anemia epidemiology, pathophysiology, and etiology in low- and middle-income countries. Ann N Y Acad Sci.
2019;1450(1):15–31.
2. Joo EY, Kim KY, Kim DH, Lee J-E, Kim SK (2016). Iron deficiency anemia in infants and toddlers. Blood Res. Dec 2016;51(4):268–73.
3. Vendt N, Grünberg H, Leedo S, Tillmann V, Talvik T (2007). Prevalence and causes of iron deficiency anemias in infants aged 9 to 12 months in Estonia. Med Kaunas Lith.
2007;43(12):947–52.
4. Cappellini MD, Musallam KM, Taher AT (2020). Iron deficiency anaemia revisited. J Intern Med. 2020;287(2):153–70.
5. Akbari M, Moosazadeh M, Tabrizi R, Khatibi SR, Khodadost M, Heydari ST, et al (2017). Estimation of iron deficiency anemia in Iranian children and adolescents: a systematic review and meta-analysis.
Hematol Amst Neth. May 2017;22(4):231–9.
6. Gupta PM, Perrine CG, Mei Z, Scanlon KS (2016). Iron, Anemia, and Iron Deficiency Anemia among Young Children in the United States. Nutrients. 30 2016;8(6).
7. Koren G, Ross L, Zwang O, Benari O (2020). The prevalence of iron deficiency anemia among African asylum seeking children residing in Tel Aviv. Isr J Health Policy Res [Internet]. 25 Nov 2019 [cited 4 Dec 2020];8. Available at:
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/P MC6876069/
8. Semba RD, de Pee S, Ricks MO, Sari M, Bloem MW (2008). Diarrhea and fever as risk factors for anemia among children under age five living in urban slum areas of Indonesia. Int J Infect Dis IJID Off Publ Int Soc Infect Dis. Dec 2008;12(1):62–70.