ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỦA CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH MẠCH MÁU TRONG HẸP TẮC ĐỘNG MẠCH CHI DƯỚI
Nguyễn Thị Thu Hiền1, Trần Minh Hoàng1, Hồ Quốc Cường1, Huỳnh Phượng Hải1, Võ Thị Thúy Hằng1, Lâm Thanh Ngọc1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện nay có nhiều phương pháp không xâm lấn để mô tả đặc điểm tổn thương của bệnh lý động mạch chi dưới, trong đó chụp cắt lớp vi tính mạch máu là phương pháp có độ nhạy độ đặc hiệu cao ngày được ứng dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh tổn thương trên chụp cắt lớp vi tính mạch máu ở bệnh nhân hẹp tắc động mạch chi dưới.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện tại khoa chẩn đoán hình ảnh và khoa phẫu thuật mạch máu bệnh viện Chợ Rẫy. 44 bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng hẹp tắc động mạch chi dưới được đưa vào nghiên cứu. Chụp cắt lớp vi tính mạch máu (CTA) động mạch chi dưới được thực hiện ở những bệnh nhân này với máy Siemens 128 lát cắt. Những đặc điểm về vôi hóa thành mạch, vị trí, số lượng và phân bố của các tổn thương trên mỗi tầng động mạch được phân tích. Tổn thương được phân loại theo Hiệp hội xuyên Đại Tây Dương (TASC II).
Kết quả: Vị trí tổn thương tầng đùi khoeo hay gặp nhất (44,7%), sau đó là tổn thương tầng dưới gối (39%) và tầng chủ chậu (16,3%). Trên cả ba tầng, hình thái tổn thương hay gặp là TASC B (27,9%), ít gặp là tổn thương TASC A (22,6%). Vị trí tổn thương động mạch hay gặp là động mạch đùi nông (17,3%), động mạch khoeo (12,7%) và động mạch chày trước (12,5%); ít gặp ở động mạch chủ bụng đoạn dưới thận (1,4%), động mạch đùi sâu (5,7%). Số đoạn mạch có vôi hóa trên toàn bộ chi dưới chiếm tỷ lệ cao (68,4%), chủ yếu là vôi hóa lan tỏa ba tầng (72,7%).
Kết luận: Chụp cắt lớp vi tính mạch máu là phương pháp không xâm lấn đáng tin cậy trong chẩn đoán và mô tả tổn thương bệnh lý hẹp tắc động mạch chi dưới, qua đó làm cơ sở để đưa ra quyết định và lập kế hoạch điều trị.
Từ khóa: bệnh động mạch chi dưới, chụp cắt lớp vi tính mạch máu, phân loại TASC II, can-xi hóa
ABSTRACT
STUDY ON IMAGING CHARACTERISTICS OF COMPUTED TOMOGRAPHY ANGIOGRAPHY IN PATIENTS WITH LOWER EXTREMITY ARTERIAL STENOSIS AND OCCLUSIVE
Nguyen Thi Thu Hien, Tran Minh Hoang, Ho Quoc Cuong, Huynh Phuong Hai, Vo Thi Hang, Lam Thanh Ngoc
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 46-52 Background: Currently, there are many non-invasive methods to characterize the lesion of lower extremity arterial disease, of which computed tomography angiography is a highly specific and sensitive method widely used in clinical practice.
Objective: Describe the characteristics of lesion imaging on computed tomography angiography of lower extremity arterial stenosis and occlusive patients.
1Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Thu Hiền ĐT: 0387201425 Email: [email protected]
Methods: The study was carried out in the department of radio-diagnosis in collaboration with departments of vascular surgery, Cho Ray Hospital. 44 patients presenting with clinical symptoms of lower extremity arterial stenosis and occlusive disease were recruited into the study. In these patients, computed tomography angiography (CTA) lower limb arteries were performed with Somatom Definition Edge 128 slices. The characteristics of vascular calcification, site, number and distribution of lesions on each stage were analyzed Lesions were classified according to the Trans Atlantic Inter Society Consensus (TASC II).
Results: The most common location of lesions was femoral-politeal segments (44.7%), followed by infrapopliteal segments (39%) and aortoiliac segments (16.3%). On all 3 stages, the common lesion morphology was TASC B, less common was TASC A. The common arterial lesion was superficial femoral arteries (17.3%), popliteal arteries (12.7%), anterior tibial arteries (12.5%); less common in infrarenal aorta (1.4%), deep femoral arteries (5.7%). The number of vascular segments with calcification on the entire lower extremity artery accounts for a high proportion (68.4%), most multiple segments (72.7%).
Conclusions: CT angiography is a reliable noninvasive imaging method in diagnosing and describing lesions of lower extremity arterial stenosis and occlusive patients, thereby serving as a basis for decision making and treatment planning.
Keywords: lower extremity arterial disease, computed tomography angiography, TASC classification, cancification
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh động mạch chi dưới (BĐMCD) là tình trạng hẹp hoặc tắc hoàn toàn của động mạch chủ bụng và các động mạch chi dưới, gây thiếu máu nuôi dưỡng đối với phần chi ở được cấp máu bởi các động mạch này. Biểu hiện lâm sàng từ nhẹ không có triệu chứng, cơn đau cách hồi chi dưới, đến nặng hơn là loét và hoại tử chi.
BĐMCD ngày càng gặp nhiều trong thực hành lâm sàng, ước tính trên thế giới có trên 200 triệu người mắc BĐMCD(1). Mặc dù BĐMCD gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và gia tăng nguy cơ tử vong của các bệnh lý tim mạch, nhưng bệnh lý này vẫn chưa được đánh giá đúng và điều trị kịp thời, đặc biệt là ở các nước đang hoặc kém phát triển. Hiện nay có nhiều phương pháp để chẩn đoán BĐMCD, trong đó chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) từ lâu đã được xem là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán cũng như góp phần điều trị. Tuy nhiên, DSA là một phương pháp xâm lấn, gây tỷ lệ biến chứng đáng kể, cách tiến hành không đơn giản, không cho phép làm đi làm lại nhiều lần. Ngày nay, chụp cắt lớp vi tính (CLVT) với độ nhạy và độ đặc hiệu gần tương đương với DSA ngày càng phổ biến và được ứng dụng rộng rãi trong chẩn
đoán cũng như điều trị bệnh lý động mạch ngoại vi, đặc biệt là từ khi có sự xuất hiện của CLVT đa dãy đầu dò. Chụp CLVT mạch máu (CTA) giúp mô tả đầy đủ các đặc điểm của bệnh ĐMCD, từ đó giúp các nhà lâm sàng lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp.
Mục tiêu
Mô tả các đặc điểm hình ảnh của chụp cắt lớp vi tính mạch máu (CTA) ở bệnh nhân hẹp tắc động mạch chi dưới.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuCác bệnh nhân được điều trị tại khoa Phẫu thuật Mạch máu bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/01/2019 - 30/04/2020.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân có triệu chứng hẹp tắc động mạch chi dưới trên lâm sàng, với cơn đau cách hồi hoặc loét, hoại tử chi dưới. Bệnh nhân được chụp CTA động mạch chi dưới.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tổn thương động mạch chi dưới do chấn thương.
Chúng tôi thu thập được 44 trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu để đưa vào phân tích, tuổi
của bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi dao động từ 34 đến 103 tuổi, gồm có 36 bệnh nhân nam và 8 bệnh nhân nữ.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang có phân tích.
Kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính mạch máu Phương tiện
Máy CLVT đa dãy đầu dò (128 dãy đầu dò) thuộc thương hiệu Somatom Definition Edge của hãng Siemens, chất tương phản được sử dụng là thuốc cản quang tan trong nước có chứa i-ốt nồng độ 350 - 370 mg I/ml (thường dùng Ultravist 370).
Phương pháp thực hiện
Để hạn chế những trường hợp thay đổi cung lượng tim làm ảnh hưởng đến huyết động, làm thay đổi chất lượng hình ảnh, ta áp dụng kỹ thuật Bolus tracking. Hệ thống theo dõi được cài đặt để bắt đầu hoạt động sau 15 giây chờ tính từ thời điểm tiêm thuốc cản quang. Thời điểm ghi hình bắt đầu 12 giây tính từ lúc đạt ngưỡng đậm độ thuốc trong động
mạch chủ ngang mức động mạch chủ bụng đoạn dưới thận (khoảng 150 HU).
Dữ liệu của bệnh nhân được lấy từ hệ thống dữ liệu của Bệnh viện Chợ Rẫy và được lưu vào đĩa với định dạng DICOM. Từ đĩa lưu trữ, dữ liệu được nhập vào hệ thống PACS của trường Đại học Y dược Hồ Chí Minh, sau đó sử dụng ứng dụng VesselIQTM Xpress để tiến hành phân tích, tái tạo hình ảnh mạch máu qua các kỹ thuật:
phóng chiếu cường độ tối đa (MIP), tái tạo đa mặt phẳng (MPR), tái tạo mặt phẳng cong (CPR) và tạo khối thể tích (VRT) để thu thập số liệu.
Đánh giá tổn thương theo hướng dẫn của Hiệp hội xuyên Đại Tây Dương (Trans Atlantic Inter Society – TASC)(2,3) về tổn thương động mạch chi dưới ở tầng chủ chậu, tầng đùi khoeo và tầng dưới gối.
Đánh giá tình trạng vôi hóa theo ba mức độ:
C0: Không có vôi hóa.
C1: Vôi hóa nhẹ (vôi hóa chiếm <50% chu vi thành mạch).
C3: Vôi hóa nặng (vôi hóa chiếm >50% chu vi thành mạch).
Hình 1: Hình ảnh mô phỏng đánh giá mức độ vôi hóa thành mạch Thu thập và xử lý số liệu
Số liệu được nhập, phân tích và xử lý bằng phần mềm SPSS 26.0 để tính ra các thông số thống kê như: Biến số định tính được mô tả bằng tần số và tỷ lệ %, biến số định lượng được mô tả bằng trung bình ± độ lệch chuẩn, kiểm định sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p <0,05.
Y đức
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 731/HĐĐĐ-ĐHYD, ngày 6/12/2019.
Không vôi hóa Vôi hóa nhẹ
Vôi hóa nặng
KẾT QUẢ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 81,8%; gấp trên 4 lần số bệnh nhân nữ (chiếm tỷ lệ 18,2%). Độ tuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu là 69,8 tuổi, đa số bệnh nhân tập trung ở nhóm tuổi trên 60 (chiếm tỷ lệ 77,3%). Bệnh nhân nhập viện phần lớn ở giai đoạn trễ khi đã có biến chứng loét và hoại tử chi (54,5%).
Bảng 1: Đặc điểm vị trí động mạch bị tổn thương
Vị trí động mạch Số lượng Tỷ lệ (%)
Động mạch chủ bụng 5 1,4
Động mạch chậu chung 23 6,2
Động mạch chậu trong 46 12,5
Động mạch chậu ngoài 36 9,8
Động mạch đùi chung 30 8,1
Động mạch đùi nông 64 17,3
Động mạch đùi sâu 21 5,7
Động mạch khoeo 47 12,7
Động mạch chày trước 46 12,5
Động mạch chày sau 30 8,1
Động mạch mác 24 6,5
Tổng 369 100
Trong số 44 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, vị trí tổn thương gặp nhiều nhất là ở động mạch đùi nông (17,3%), tiếp theo là động mạch khoeo (12,7%) và động mạch chày trước (12,5%).
Tổn thương ít gặp ở động mạch chủ bụng (1,4%), động mạch đùi sâu (5,7%) (Bảng 1).
Bảng 2: Đặc điểm về hình thái tổn thương trên chụp CTA
Vị trí tổn thương
Hẹp trên 50%
Tắc hoàn
toàn Tổng P
N % N % N %
Tầng chủ chậu 11 6,4 17 9,9 28 16,3 >0,05 Tầng đùi khoeo 32 18,6 45 26,2 77 44,7 >0,05 Tầng dưới gối 23 13,4 44 25,6 67 39 <0,05 Tổng 66 38,4 106 61,6 172 100 <0,05
Trong số 44 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, tổn thương gặp nhiều nhất ở tầng đùi khoeo (44,7%), sau đó là tầng dưới gối (39%), thấp nhất ở tầng chủ chậu (16,3%). Ở tầng dưới gối, tổn thương tắc nhiều hơn tổn thương hẹp và có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Ở tầng chủ chậu và tầng đùi khoeo, sự khác biệt giữa tổn thương
hẹp và tắc không có ý nghĩa thống kê (p >0,05) (Bảng 2).
Trong số 44 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, hình thái tổn thương TASC B chiếm tỷ lệ cao nhất trên cả 3 tầng (27,9%), tổn thương ít gặp nhất trên 3 tầng là TASC A (22,6%) (Bảng 3).
Bảng 3: Phân loại hình thái tổn thương theo TASC
TASC
Tầng chủ chậu
Tầng đùi khoeo
Tầng dưới gối
Tổng các tầng
N % N % N % N %
A 3 10,7 10 12,9 26 38,9 39 22,6 B 5 17,9 27 35,1 16 23,9 48 27,9 C 9 32,1 19 24,7 15 22,4 43 25,0 D 11 39,3 21 27,3 10 14,8 42 24,5 Tổng 28 100 77 100 67 100 172 100
Bảng 4: Tỷ lệ vôi hóa thành mạch theo tầng giải phẫu
Vôi hóa Tầng
giải phẫu
Không vôi hóa
Có vôi hóa
Tổng Nhẹ Nặng Tổng vôi
hóa
Chủ chậu N 82 171 55 226 308
% 26,6 55,5 17,9 73,4 100 Đùi
khoeo
N 110 142 100 242 352
% 31,2 40,3 28,5 68,8 100 Dưới gối N 100 91 73 164 264
% 37,8 35 27,7 62,7 100 Toàn bộ
chi dưới
N 292 404 228 632 924
% 31,6 43,7 24,7 68,4 100
Trong số 44 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, tỷ lệ số đoạn mạch có vôi hóa (68,4%) chiếm tỷ lệ cao hơn gấp đôi so với số đoạn mạch không có vôi hóa (31,6%); số trường hợp vôi hóa nặng ở tầng đùi khoeo chiếm tỷ lệ cao nhất (28,5%) (Bảng 4).
Bảng 5: Tỷ lệ số các tầng có vôi hóa thành mạch
Số tầng Số lượng Tỷ lệ (%)
0 tầng 5 11,4
1 tầng 0 0
2 tầng 7 15,9
3 tầng 32 72,7
Tổng 44 100
Trong số 44 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, tình trạng vôi hóa lan tỏa trên cả ba tầng chiếm tỷ lệ cao nhất (72,7%), không có trường hợp nào chỉ vôi hóa một tầng đơn độc (0%) (Bảng 5).
Hình 2: Bệnh nhân Trần Văn Đ. 70 tuổi, vào viện vì loét ngón chân, hình ảnh tổn thương vôi hóa lan tỏa ở cả 3 tầng động mạch với các mức độ vôi hóa khác nhau được xác định dựa trên hệ thống PACS
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vị trí động mạch tổn thương hay gặp nhất là ở động mạch đùi nông, thường gặp ngay sau vị trí phân chia hoặc tại ống cơ khép (17,3%), tiếp theo là động mạch kheoo (12,7%) và động mạch chày trước (12,5%). Kết quả này khá tương tự với kết quả của Trần Đức Hùng(4), trong đó tổn thương ở động mạch đùi nông là hay gặp nhất (24,9%), sau đó là động mạch chày trước (20,6%) và chày sau (20,4%). Điều này có thể giải thích như sau:
động mạch đùi nông là đoạn động mạch có chiều dài lớn nhất, có độ uốn cong đáng kể và đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp máu cho vùng chi dưới. Những thay đổi về hướng cũng như tốc độ dòng chảy tạo điều kiện cho huyết khối hình thành gây tắc động mạch, đặc biệt là ở đoạn trong ống cơ khép. Do đó khu vực động mạch đùi nông và động mạch khoeo (hay còn gọi là đoạn đùi khoeo) là khu vực thường gặp tổn thương nhất trong bệnh lý động mạch ngoại vi(5). Đối với tầng dưới gối, tổn thương tầng này chiếm tỷ lệ cao có thể giải thích là do
trong BĐMCD tổn thương thường xuất phát trước tiên từ các động mạch nhỏ ở ngoại vi phía ngọn chi và lan lên các động mạch lớn ở gốc chi.
Trên cả ba tầng tổn thương tắc nhiều hơn tổn thương hẹp (p <0,05), càng ra phía ngoại biên tổn thương ở mức độ nặng càng tăng. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả trong nghiên cứu của các tác giả khác. Trong nghiên cứu của Trần Đức Hùng được đăng trên tạp chí Y học Việt Nam năm 2015(4), trên ba tầng tổn thương tắc cũng nhiều hơn tổn thương hẹp (p <0,05), trong đó tổn thương tầng đùi khoeo chiếm tỷ lệ cao nhất (43,8%) sau đó đến tổn thương ở dưới gối (39%), thấp nhất là tổn thương ở tầng chủ chậu (17,2%). Trong nghiên cứu của Dương Văn Nghĩa năm 2018(6), tổn thương tầng đùi khoeo chiếm tỷ lệ cao nhất (43,7%), sau đó là tầng dưới gối (37,3%), cuối cùng là tầng chậu (19%), tổn thương tắc chiếm tỷ lệ cao ở tầng đùi khoeo và tầng dưới gối. Khẩu kính động mạch tầng dưới gối nhỏ hơn đáng kể so với hai tầng còn lại nên sự bù trừ bằng cách tăng chu vi của lòng mạch sẽ kém hiệu quả hơn,
Vôi hóa nặng (động mạch chủ bụng)
Vôi hóa nhẹ (động mạch chậu ngoài phải)
Không vôi hóa (động mạch chày trước trái)
do đó tổn thương ở tầng này thường có xu hướng nặng nề hơn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hình thái tổn thương hay gặp nhất trên 3 tầng là tổn thương TASC D (27,9%), tổn thương TASC A chiếm tỷ lệ thấp nhất (22,6%). Kết quả này có sự khác biệt so với kết quả của các tác giả khác.
Trong nghiên cứu của Trần Đức Hùng(4), tổn thương TASC D chiếm tỷ lệ 59,9%, tổn thương TASC A chỉ chiếm 4,8%. Trong nghiên cứu của Dương Văn Nghĩa(6), tổn thương TASC D chiếm 56%, tổn thương TASC A chỉ chiếm 1%. Sự khác biệt này chủ yếu đến từ tầng dưới gối, trong nghiên cứu của chúng tôi, tổn thương trên động mạch chày đích được mô tả theo phân loại mới được cập nhật vào năm 2015 cho tầng dưới gối(2), với chiều dài tổn thương phân theo mức hẹp hoặc tắc từ 3 đến 10 cm. Trong nghiên cứu của Trần Đức Hùng(4) và Dương Văn Nghĩa(6), tổn thương tầng dưới gối được phân loại theo TASC II (2007)(3). Ở bảng phân loại này, mức độ tổn thương của từng tầng nhẹ hơn (chiều dài tổn thương tương ứng là 1, 2 và 4 cm). Ví dụ tổn thương tắc có độ dài 3 cm được phân loại là TASC D theo phân loại năm 2007, nhưng lại được phân loại là TASC B theo phân loại mới năm 2015. Hệ thống phân loại TASC cập nhật năm 2015 đại diện cho sự thay đổi lớn trong phân loại tổn thương ở tầng dưới gối, thu hẹp phạm vi phẫu thuật và có tính chính xác cao hơn trong mô tả các tổn thương phức tạp ở tầng này so với phân loại cũ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổng số đoạn mạch có vôi hóa chiếm 68,4%. Kết quả này tương tự với kết quả của Rahul JS năm 2015(7), nghiên cứu vai trò của MSCT trong đánh giá tổn thương động mạch chi dưới thấy có 43/70 (71%) trường hợp gặp vôi hóa trên MSCT. Trong nghiên cứu của Phạm Hồng Đức và Nguyễn Thị Cẩm Nhung đăng trên tạp chí Y học Việt Nam năm 2016(8), trên 45 bệnh nhân đái tháo đường bị bệnh lý động mạch chi dưới, tổng số đoạn mạch vôi hóa là 536/890 đoạn mạch (60%). Tình trạng vôi hóa thành mạch chiếm tỷ lệ cao vì hầu hết
bệnh nhân vào viện ở giai đoạn muộn. Bên cạnh đó, tình trạng vôi hóa động mạch cũng có liên quan với tuổi và bệnh lý đái tháo đường, trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, độ tuổi trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao (77,3%), và tỷ lệ bệnh nhân bị đái tháo đường cũng khá lớn (47,7%). Tình trạng vôi hóa động mạch liên quan tới tiên lượng bệnh và hiệu quả điều trị. Tình trạng vôi hóa thành mạch 100% là yếu tố dự báo tốt nhất cho sự thất bại của điều trị can thiệp nội mạch đối với hẹp tắc ở đoạn động mạch đùi khoeo(9).
Hầu hết các bệnh nhân có tình trạng vôi hóa trên nhiều tầng động mạch với vôi hóa trên 3 tầng chiếm tỷ lệ 72,7%, tổn thương một tầng chiếm tỷ lệ 0%. Kết quả này tương tự với kết quả của Phạm Hồng Đức và Nguyễn Thị Cẩm Nhung(8), vôi hóa một tầng chỉ chiếm tỷ lệ 4,5%, vôi hóa cả ba tầng chiếm tỷ lệ cao nhất là 65,9%.
Tình trạng tổn thương thành động mạch do xơ vữa và vôi hóa thường có tính chất lan tỏa và hệ thống, gây khó khăn cho các nhà lâm sàng trong điều trị nội mạch bệnh lý động mạch chi dưới.
Hạn chế của đề tài
Cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi không đủ lớn (44 bệnh nhân), hơn nữa được lấy tại khoa phẫu thuật mạch máu, hầu hết bệnh nhân vào điều trị khi triệu chứng lâm sàng đã tiến triển sang giai đoạn nặng nên kết quả có thể không bao quát cho tất cả các trường hợp hẹp tắc động mạch chi dưới trong dân số.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 44 bệnh nhân được chẩn đoán hẹp tắc động mạch chi dưới được điều trị tại khoa Phẫu thuật Mạch máu Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 9/2019 đến tháng 4/2020, kết quả cho thấy:
Vị trí tổn thương tầng đùi khoeo hay gặp nhất, sau đó là tổn thương tầng dưới gối và ít gặp nhất ở tầng chủ chậu, càng ra ngoại biên mức độ nặng của tổn thương càng tăng. Trên cả ba tầng, hình thái tổn thương hay gặp nhất là TASC D, ít gặp là tổn thương TASC A. Vị trí tổn thương động mạch hay gặp là động mạch đùi
nông đùi nông, động mạch khoeo và động mạch chày trước; ít gặp ở động mạch chủ bụng đoạn dưới thận, động mạch đùi sâu. Số đoạn mạch có vôi hóa trên toàn bộ chi dưới chiếm tỷ lệ cao và chủ yếu là vôi hóa lan tỏa ba tầng.
KIẾN NGHỊ
Chụp CTA là một phương pháp chẩn đoán không xâm nhập, đáng tin cậy, có thể thay thế DSA, trở thành phương tiện chẩn đoán đầu tay ở các tuyến có đầy đủ trang thiết bị trong chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị các tổn thương hẹp, tắc động mạch chi dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gerhard-Herman MD, Gornik HL, Barrett C, et al (2017). 2016 AHA/ACC Guideline on the Management of Patients with Lower Extremity Peripheral Artery Disease. Circulation, 135(12):726-779.
2. Michael RJ, Christopher JW (2015). An Update on Methods for Revascularization and Expansion of the TASC Lesion Classification to Include Below-the-Knee Arteries: A Supplement to the Inter-Society Consensus for the Management of Peripheral Arterial Disease (TASC II). Journal of Endovascular Therapy, 20(5):465-478.
3. Norgren L, Hiatt WR, Dormandy JA, et al (2007). Inter-Society Consensus for the Management of Peripheral Arterial Disease (TASC II). Journal of Vascular Surgery, 45(1):5-67.
4. Trần Đức Hùng, Đoàn Văn Đệ, Tạ Tiến Phước (2015). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và chụp động mạch cản quang ở bệnh nhân bệnh động mạch chi dưới mãn tính. Y học Việt Nam, 7(2):128 - 130.
5. Nishtha S, Abhishek O (2018). Peripheral Arterial Disease: A Practical Approach, 1st ed, pp.4-8. IntechOpen, London UK.
6. Dương Văn Nghĩa, Phan Kim Toàn (2018). Nghiên cứu một số đặc điểm cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh động mạch chi dưới mạn tính. Y - Dược học Quân sự, 6(43):73-79.
7. Rahul JS, Aathish S, Chethan TK (2015). Role of MDCT in Evaluation of Peripheral Vascular Disease of the Lower Limb Arteries and Comparison with Colour Doppler. Journal of Evolution of Medical and Dental Sciences, 4(54):9336-9346.
8. Phạm Hồng Đức, Nguyễn Thị Cẩm Nhung (2016). Vai trò của siêu âm trong đánh giá hẹp động mạch chi dưới ở bệnh nhân đái tháo đường. Y học Việt Nam, 1(1):44-48.
9. Nathan KI, Tanner K, Anna MS, et al (2017). Lower extremity computed tomography angiographymcan help predict technical success of endovascular revascularization in the superficial femoral and popliteal artery. Journal of Vascular Surgery, 3(66):835-842.
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021