MIÈNTRUNG VÀ TẤYNGUYÊN TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRỈẺN
TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐÓI TÁC
TOÀN DIỆN VÀ TIÉN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG đối vói phát triển kinh tế tư nhân ờ thành phố Đà Nang
ThS CHẾ VIÉTTRƯNGTHU
Học viện Chính trị khu vực III
V
ăn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xácđịnh: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng... Kinhtế tưnhânđược khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lình vực màpháp luật không cấm, được hỗ trợ phát
triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, cósức cạnh tranh cao”1.Tuy nhiên,trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mạitựdo thế hệ mới nói chung và Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyênThái Bình Dương (CPTPP)nói riêng bên cạnh những cơ hội cũng đặt ra không ít thách thức đối vớiphát triển kinh tế tư nhân(KTTN)Việt Nam, trong đó có KTTN ở Đà Nang. Bài viết này chúng tôi đề cập đênsự tác động của CPTPP đốivới phát triển KTTN ở thành phố Đà Nằng nhằm phát huy vai trò tích cực của loại hình kinh tế này trong thời gian tới.
1. Tác động tích cực của CPTPPđối với phát triển kinhtế tư nhân ử thànhphố Đà Nầng
Một là, CPTPP thúc đấy gia tăng so lượng doanh nghiệp tư nhân và tăng nguôn vốn đầu tư toànxã hội
Hiện nay, nhận thức về vai trò quan trọng của KTTN đối với sự phát triển của địa phương, quốc gianêntrong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN ở thành phố ĐàNằng. Đặc biệt, với những cơ hội thị trường và thể chế từ CPTPP, Việt Nam sẽ trở nên
hấpdẫn hơn trong mắtcác nhàđầutư và Đà Nằng là một trong những diêm đến của cácnhàđầutưtừcác thành viên CPTPP. Vì vậy, giai đoạn 2016 - 2019, sốlượng doanh nghiệp (DN)thực tế đang hoạt động trênphạmvitoànthànhphốnăm 2019 là15.168 DN (chiếm76%tổng số DN),tăng 3.654 DN so với năm 2016, tăng bình quân 9,62%/ năm về số lượng DN.
Vốn huy độngtừ thành phần KTTN giai đoạn này đạt270,7 nghìn tỷ đồng, bìnhquân giai đoạn 2016 - 2019 thu hút thêm 17,2% vốn đầu tư vào sàn xuất kinh doanh. Như vậy, sau khi CPTPP thực thi số lượng DN được thành lập đối với khu vực KTTN tăng lên, các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có cơ hội liênkết với các DN, tập đoàn lớn trong và ngoài nước nên đã làmcho quy mô vốn đầu tư toànxã hội của thành phố tăng lên.
Trongđó, quy mô vốn đầutưtoàn xãhội đốivới khu vực KTTN giai đoạn 2016 - 2020 tăng lên theo từng năm và chiếm tỷ trọng chủ yếutrongtổngnguồn vốn này, năm 2020 đạt 25.756 tỷ đồng (chiếm 65,13%) (Bảng 1). Khu vực KTTN có bước phát triển mới, dần dần trở thành động lực quantrọng của nền kinhtế; ngày càngđóng vai frò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế;tạo cơ hội cho người dân, người lao độngtrên địa bàn thành phố được hường lợi từ những triền vọng thịnh vượng của nềnkinh tế và CPTPP.
Hai là, CPTPPgóp phần tăng việc làm, nâng cao thu nhập đối với thành phần kinh tế tư nhân ở thành pho Đà Năng
MIÈN TRƯNG VÀ TÂY NGUYÊN TRÊNĐUỪNG PHÁTTRIÈN
Bàng 1. Vốn đầu tư thựchiệntoàn xã hội theogiá hiện hành phân theo thànhphần kinh tế
DlTlyđong
2016 2017 2018 2019 2020
Tông 33.880 37.324 38.616 40.162 39.548
Kinh lê Nhá nưóc 9.337 8.103 8.157 8.647 8.025
Kinh lẻ ngoài Nhà nước 22.229 25.892 26.379 25.651 25.756 Kinh lẻ có vôn dâu tư nước ngoái 2.314 3.329
_________
4.080 5.863 5.767 Nguồn: Cục nồng kê Đà Nằng, năm 2020:
KhiCPTPP thực hiện giúp các DNTN có cơ hội mở rộng thị trường góp phần thay đổi cấu kinh tế chuyêndần từ công nghiệp -dịch vụ - nông nghiệp sang dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Điển hình là lình vực dịch vụ, du lịch các cơ sở kinh doanh, DN hoạt động chủ yếu là thành phần KTTN chiếm tới 90% tổng số DN hiện nay. Trong thời gian qua tỷ trọng khu vực KTTN liên tục tăng lên còn tỷ trọng kinh tế Nhà nước giảm dần; các loại hình DNTNvà DN cóvốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữvai trò quan trọng trongnền kinh tế thành phố.
Giaiđoạn 2016 - 2020 thành phần KTTN đónggóp 62,25% GRDP của toàn thành phố cao nhất so với cácthành phần kinh tếkhác (kinh tế nhà nướcđóng góp 26,83%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoàiđóng góp 10,93%). Khu vực KTTN trên địa bàn thành phố thu hút nhiều lao động nhất, với 226 nghìn người (chiếm 76,3%toàn bộ doanh nghiệp, gấp 1,02 lầnnăm 2015,bình quân giai đoạn2016 - 2018 mỗi năm tăng thêm 5,8% (thấp hơn sovới giai đoạn2011 - 2015, bình quân mỗi năm tăng thêm 6,6%)3. Đặc biệt năm 2020, sốlượng DNcôngnghệ thông tin của thành phố Đà Nằng tăng 35%/nãm, chiếm 20% DN toàn thành phố (cứ 2,1 DN côngnghệ số/1.000 dân, cao hơn trung bình cà nước), thu hút 40.500 nhân lực4. Kết quả này cho thấy, việc phát triển thành phần KTTN đã và đang đóng vai trò quan trọng trongsựpháttriển của thành phố ĐàNằng.
Đặc biệt, phong trào khởi nghiệp của thành phố được quan tâmthúcđâyđã góp phần tạo ranhững thế hệ doanh nhân trẻ năng động, mạnh dạn và giàu ý tưởngkinhdoanh. Những nãm gầnđây, KTTN đã có nhiều đóng góp vào sự bứt phá, tạo nên diện mạo mới cuangành du lịch - dịchvụtại ĐàNằng. Sự có mặt của nhiều thương hiệu DN, nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước... đã góp phần nâng tầm, chuyển giao công nghệ dịch vụ hiện đại đem đến sự chuyên
nghiệp trong chất lượng ngànhdịch vụ - du lịch của thành phố.
Balà, CPTPP làm tăng năng suát, laođộng nâng cao sứccạnh tranh của thành phấn kinh tế tư nhản
Nhìnvào kết quả thống kêởbảng2, cho thấy giai đoạn 2016 - 2020, khu vực KTTN đónggóp tổng sản phâm cao nhất so với các khu vực kinh tế khác và tăng dầnqua các năm. Năm 2020, mặc dù có sựtác động cùa đại dịch Covid-19 trên toàn thế giới đà ảnh hương đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực kinh tế, nhưng khu vực KTTN vần đạt được 63.680tỷ đồng, chiếm 55,45% sovới tổng sản phẩm cua thành phố và tăng hơn 19.065tỷ đồng so vớinăm 2016'. Điều này cũng đồng nghĩa với việc CPTPP làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn thànhphố quan tâm hơn đếnchấtlượng, kiểm soát tốt hơncác tiêu chuân sảnphâm (từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm xuất khâu), nhất là kiêm soát chặt chẽ hơn về nguồngốc xuất xứ hàng hóa (maymặc, thủy sân...) (Bang 2).
Bàng 2: Tổng sàn phẩm trên địa bàn theo |>iá hiện hành phân theo thành phần kinh te Đ(T
2016 2017 2018 2019 2020
Tòng 80.457 80.457 101.405 110.792 114.849
Kinh té Nhà nước ., ....-.. .
19.518 19.518 23.670 26.397 27.153 Kinh lê ngoài Nhá nước 44.615 44.615 56.197 61.220 63.680 Kinh te có vén đấu tư nuó: ngoái 7.616 7.616 10.070 10.762 11.298 Thésan ptàníừnọqtsán phàm 8.708 8.708 11.468 12.413 12.718
Nguồn: Cục Thắng ké Dà Nằng, năm 2O2(f
Mặc dù, tình hình kinh tế trên thế giới có nhiều biến động nhưng năm 2018 tỷ lệ DNTN kinh doanh có lãi chiếm 44,8% trong tổng số DN, cao hơn năm 2015 với tỷ lệ 40,5% (40,9% DN ngoài nhà nước có lãi). Đặc biệt, khi tính hiệu suất sinh lời trên vốn chu sở hữu (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tông vốn chu sở hữu bir,h quân) năm 2018 cùa các DNTN đạt 8,1% (năm 2015 đạt 2,0%). Trong đó, hiệu suất sinh lời trên doanh thu (tính bằng tông lợi nhuận trước thuế/doanh thu thuần) năm 2018 DNTN với 3,3%, tăng 0,8% của năm 2015 (doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu suất thấp nhất với 3,1%, giảm so với hiệu suất 3,7%của nãm2015). Từkết quả về doanh thu, lợi nhuận là nhântốlàmcho năng suất lao động của thành phần KTTN tãng đều qua các năm và đạt
MIỀN TRUNG VÀ TÂYNGUYÊN TRÊN ĐƯỜNG PHÁTTRIẾN
187,7 triệu đồng/lao động năm 2019, thu nhập bình quân của lao động huởng lưong ước đạt 7,52 triệu/người/tháng, tăng 44,6% so với năm 20187.
Bốn là, tác động tích cực đen đa dạng các ngành nghề, mở rộng thị trường tiêu thụ và xuất kháu hàng hóa
Nhìn chung,KTTNcùa thành phố cótốc độ phát triển nhanh, chủ doanhnghiệpngày càng trẻ, có năng lựctốt, mô hình kinh doanhđa dạng với hàm lượng chất xám, giá trị gia tăng của sản phàm ngày càng cao... đáp ứng được nhu cầu thị trường. Cơ cấu về ngành, nghề, sàn phẩm và quy mô vốn đầu tư của K.TTNcó nhiều thay đổitíchcựcnhư xuất hiện nhiều ngành,nghề, sản phẩm mới, đápứngnhu cầu cùa đời sống xã hội ngày càng tăngcao, như ngân hàng, các ngành xây dựng, dịch vụ, du lịch... Một số ngành, nghềtrướcđây chi do kinh tế Nhà nước dam nhận,thì nay KTTN đã tham gia vào và khăng định được uy tín như công nghiệp cơ khi, ôtô, sản xuất thép, xuất khẩuhànghóa... Ket quả giai đoạn2016 - 2020, tổng mức lưu chuyển ngoại thương hàng hóa đạt 14.224 triệu USD, gấp gần 1,4 lần giai đoạn 2011 - 2015, trong đó xuất khẩuđạt 7.641 triệuUSD, gấp gần 1,5 lần; nhập khẩu đạt 6.583 triệu USD, gấp hơn 1,3 lần8. Trong đó, kim ngạchxuấtkhâu phần mềm giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 14%/nãm, năm 2020 kim ngạch xuất khẩu phần mềm đạt 92,7 triệu USD, tăng 4,2% so với năm 20199. Như vậy, giai đoạn này thànhphố Đà Nằng xuất siêu với 1.056 triệu USD, các sản phàm xuất khau thủy sản, may mặc, phần mềm đã được thâm nhập vào các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và EU... Thành tựu nàychothấy, một số DNTN đã tận dụng được các cơ hội của CPTPP nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng các mặt hàng, mở rộng thị trường xuất khầu hàng hóa và có nhiều cơ hội mở rộng thị trường nhập khẩunguyênliệu từ các nước thành viên CPTPP, giảm sức ép cạnh tranhtừ nhập khẩunguyên liệu từ cácnướcTrungQuốc, Ân Độ, Thái Lan.
2. Những vấn đề đặt ra đối vói sự phát triến kinhtế tư nhântrong quá trìnhthựcthi CPTPP
Đà Nằng sau hơn 23 năm phát triến (từ năm 1997 đến nay), đặc biệt là sau hai năm CPTPP thực thi đã giúp thành phần K.TTN ờ thành phố đã và đang tạo nhiều bước chuyển biến mạnh mẽ từ số
lượng, đến quy mô, cơ cấu nguồn vốn xã hội, giải quyết việc làm trên nhiều lĩnhvực từ cơ sở sản xuât tư nhân nhỏ lẻ, hoạt động chủ yếu trong các ngành sản xuất, chế biến truyền thống như ăn uống, bánh kẹo, cơ khí, dệt may,thủy sản, du lịch,dịch vụ. Tuy nhiên, phát triên K.TTN Đà Nằng trong điều kiện thực thi các nội dung, cam kết tù CPTPP vẫn còn một sốvấn đề đặt ra, cụ thê là:
Một là, các doanhnghiệp tư nhânchưachủđộng tậndụng tối đa các cơ hộitừ CPTPP
Nhìnchung, các doanh nghiệp, cơsởkinh doanh thuộc thành phần KTTN vần còn trong tình trạng thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nguồn vốn chủ sở hữu của các DN nhỏ, nguồn vốn hoạt động chu yếu là vốn vay ngân hàng, vốnchù sởhữu của doanh nghiệp và cơ chế cho vay theo lãi suất không cố định, tha nổi theo lãi suấtthị trường từng thời điểm, sẽ gây rủi ro rất lớn trong hoạt động sản xuất, kinh doanhcủa DN; đồng thời kéo theorủi ro trong hoạt động cùa cáctổchứctíndụng.
Thực tế, khu vực K.TTN ờ thành phố Đà Nằng phát triến chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, du lịch, dịch vụ, chưa có nhiều đơn vị đầu tưvào các ngành công nghiệp, nông nghiệp và mức độ quan tâm hiểu biết của DN về CPTPP cònhạn chế, chì có 1,86% doanh nghiệp tìmhiểu tương đốikỳ. Hầu hết các DNchưa hoặc lần đầunghenóihaycónghe nói, nhưng chưa tìm hiểu gì, chiếm khoảng 71,55% và có khoảng 26,59% đã từng tìm hiêu một số thông tin10. Vì vậy, tận dụng cơ hội tối đa của doanh nghiệp tư nhân khi CPTPP thực thi là rất hạn chế nên sự hợp tác, liên kêt giữa các đơn vị này đê tạo nên sức mạnh về quy mô vốn, về kỳ thuật công nghệ...cònhạn chê.
Hai là, khả năng thực hiện các cam kết về thê che cùa CPTPP cònnhiều hạn chế
Trong thời gian qua, cáccác cơ sở kinhdoanh từ khu vực KTTN đà có nhiều chuyến biến tích cực trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của DN, thực hiện đúng và đầy đủ các quy định, chính sách đối với người lao động, đối với bảo vệ môi trường, đảm bảocáctiêu chuẩn vê xuất xứnguồn gốc sản phâm...
Tuy nhiên, mức độ nội dung cam kết CPTPP đề ra nhữngtiêu chuẩncao hơn, mới sovới các FTA the hệ cũtrước đâybao gồm cả vềtiêu chuẩn tự do hóa
MIÈN TRUNG VÀ TÂY NGUYÊNTRÊNĐƯỜNGPHÁT TRIẾN
- mờ cửa thị trường dịch vụ, đầu tư, và tiêu chuẩn bảo vệ quyền lợi cho các nhàcung cấpdịch vụ, đầu tư nước ngoài, các vấn đề thương mại điện tử, viền thông, sở hữu trí tuệ... Chính vìvậy, quá trình thực thi các cam kết từ hiệp định này gặp rất nhiều khó khăn mà DN cùa khu vực KTTN phải cập nhật và tiếp cận hệ thống thể chế pháp luật (khi Việt Nam phải sửa đổi các văn bản pháp luật để thực thi CPTPP) và môi trường kinh doanh cua Việt Nam (khi các tiêu chuẩn cao của CPTPP về tự do hóa, minh bạch và bình đẳng áp dụng làm thay đổimôi trường kinh doanh). Đặc biệt, trong quá trình thực thi các cam kết đó đòi hỏi nguồn lực lớn nhưng hiện nay đa số là các sơ sở sản xuấtcùa khu vực KTTN cóquy mô vừa và nhỏnênviệctuânthủđầyđủ quy định về điều kiện kinh doanh, hàng hóa có chất lượng có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, các quy định về bảo vệ môi trường, quy định về tiêu chuẩn của người lao động còn hạn chế... đây sẽ là vấn đề trở ngại lớn đối với khu vực KTTNtrong thời gian tới.
Ba là, tínhliên kết trong hoạt độngsản xuất kinh doanh củakhuvực kinh tế tư nhân cònhạn chế
CPTPP với nhiều nội dung cam kết mới sẽ là điều kiện giúp các cơ sở sản xuất kinh doanh nói chung và khu vựcKTTNở thành phố Đà Nằng nói riêng tận dụng tối đa các cơ hội và giảm thiều thách thức, biến thách thức thành cơ hội như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, các doanhnghiệpViệt Nam nói chung và DNTN ở thành phố Đà Nằng nói riêng vẫn chưachủ động trong việc tìmhiểuvà tiếp cận các lợi íchtừcác nội dung cùa CPTPPquy định, nên chưa tận dụngđượchiệu quảcác cam kết tù hiệp định này. Đối với các cơ sở sản xuất của khu vực KTTN hiện nay trên địa bàn thành phố như ngành dệt may, thùy sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ tính liên kết vần còn yếu.
Cho nên, việc tìm kiếm nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất còn phụ thuộc rất nhiềuvàocác thịtrường truyền thống (đối với dệt may: thị trường nguyên liệu phụ thuộc vào Trung Quốc, Ấn Độ...); tìm kiếm thông tin, chia sẻ thông tin về các đơn đặt hàng, nhu cầu sản lượng hàng hóa, về thị trường nguyênliệucònhạn chế.
Bôn là, thách thức về chât lượng lao động và năngsuất lao động
Khi tham gia CPTPP, ngoài việc phải áp dụng các tiêu chuân về lao động của Tô chức Lao động quốc te (ILO), cácquốc giathuộc CPTPPsè phải áp dụng nhiều tiêu chuẩn cao hơn như tiền công tối thiêu, thời gian làm việc, an toàn vệ sinh lao động...
và đây là một thách thức khôngnhođôi với các DN cua nước ta, do trình độ của người lao động không đồng đều, năng suấtvàhiệu quả lao động còn thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực.
Đâykhông chỉ là thách thức đối với các cơ sở sản xuấtkinh doanh khu vực KTTNtrên địa bàn thành phố Đà Nằng mà cũng là một thách thức lớn khi Việt Nam tham gia CPTPP.
3. Mộtsố giải pháp nhằm pháttriểnkinh tế tư nhân ởthành phố Đà Nằng trongquá trình thực thi CPTPP p
Trêncơ sởthực trạng vànhững vấn đề đặt rađã nêu trên, thiết nghĩ KTTN ở thành phố Đà Nằng phải tận dụng tối đa các thời cơ vàtháo gỡ những hạn chế, vướng mắc các nội dungđã được cam kết từCPTPP cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp, cụ thề nhưsau:
Mộtlà, tăng cường công tác tuyêntruyền, hướng dân các nội dung cam kết từ CPTPP đem đen cho kinh tế tư nhân
Khi Việt Nam tham gia CPTPP, thì các DN nói chung và các DN thuộc khu vực KTTN nói riêng cần phải nhận thức một cách đầy đủ lợi ích lâu dài về kinh tế tùxuấtkhâu hàng hóa, đầutư nước ngoài, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nguyên liệu nhập khâu từ thị trường lớncủacác nước thành viên CPTPP (Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico...).
Mặt khác, CPTPP có nhiều nội dung cam kết tiêu chuâncao và mới sovới cáchiệp địnhtựdo thương mại trước đây mà Việt Nam đã tham gia cho nên quá trình thực thi CPTPP cần hiểu rõ, tuân thù các cam kết, quy định về quy tắc xuất xứ, quy định về lao động, môi trường cùa các thành viên mà đã được ban hành.Vỉ vậy, các cơ quan quảnlýnhànước, các hiệp hội kinh doanh các ngành cần phối hợp xây dựng các chương trình tập huấn, ban hành sáchtóm tắt tắtcác nội dungCPTPP để giúp DNTN trên địa bànthành phố hiểu rõ, chi tiết cáccamkết, quy định về quy tắc ứng xử, quy địnhvề lao động, luậtbảovệ môi trường, quy tắc xuất xứ hànghóa... Nếu làm tốt
MIỀNTRUNGVÀTÂY NGUYÊN TRÊNĐƯỜNGPHÁT TRIỂN
điềunàycũng sẽ thúc đẩyviệc cải cách các tổchức, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng và minh bạch.
Hai là, các cơ sở sản xuất kinh doanh khu vực kinh tế tư nhân cần chủ động liên kết, tăng cường xúc tiên thương mại nham nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình thực thi CPTPP
Đenắm bắt cơ hộikhithamgia CPTPP, các chủ thể kinh doanh cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới luôn xem cạnh tranh là động lực nên cần tìm kiếm và thực hiện các giải pháp hữu hiệu để đổi mới và phát triển. Vì vậy, các cơ sở sản xuất kinh doanh khu vực KTTN phải tích cực chủ động liên kết theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, chuyênnghiệp hóa quy trình bán hàng, tích cực xây dựng và quảng bá thương hiệu... để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, vị thế của DN. CácDNTN cầnnắm vững, tìmhiểu kỹ và tuân theo các quy định về quy tắc xuất xứ, minh bạch hóa nguồn gốc, nguồnnguyên liệu, liên quanđến lao động trẻ em, đặc biệt lưu ýbảo đảm hàng xuất khẩu của mình an toàn thâm nhập thị trườngcác nước thành viên CPTPP tránhtình trạng hàng đến nước nhập khẩu bị trả lại hoặc bị tiêu hủy, đảm bảo cân bằng giữa thuận lợi hóa thương mại và phòng tránh gian lận thương mại. Đồng thời, các cơ sở sản xuất kinh doanh khu vực K.TTN trên địa bàn thành pho Đà Nằng cần chủ động liên kết với các DN trong nước theo từng lình vực nhằm thay đổi, thích ứng với thị trường quốc tế các sản phẩm đạt tiêu chuẩn theo lộ trình cam kết của CPTPP. Nếu làm tốt khâu này, hàng hóa các DN Việt Nam nói chung và ở thành phố Đà Nằng nói riêng sẽ được hưởng với mức thuế quan thấp và cũng là cơ hội khắc phục được trình trạng xuất khẩu thô, làm gia công cho các thương hiệu nước ngoàivớiphần giá trịthu được không cao.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện và cụ the hóa các cơ che chính sách hô trợ, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển
Kinh tế tư nhân làmột thành phần kinh tế quan trọngnhưngchủyếu cóquy mô vừa và nhỏ. Vì vậy, Nhànước cần có chính sách, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo sự bình đẳng khi tiếp cận các nguồn lực và thị trường; khuyến khích và bảo vệ
cạnh tranhlành mạnh,chống độc quyền; bảo vệ môi trường, chống sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng... đặc biệt là các quy định về sở hừu tài sản, sở hữu trí tuệ, nguồn gốc xuất xứ sản phẩm tạo cơ sởpháp lý cho các khu vực KTTN hoạt động kinh doanh.
CPTPP đem lại lợi ích về lao động, việc làm, tăng thu nhập chocácDNTNtrên địa bànthành phố ĐàNằng và đây cũng là cơ hội để các DN, cơ quan quản lý chủ động kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ, chất lượng, kỹ năng cho người lao động. Hiện nay, lao độngcủacácthànhviên CPTPP có trìnhđộ tay nghề cao, kỹ năng quản lý tốt sẽ là yếu tố thúc đẩy cạnh tranh, tiếp cận thị trường, tạo ra nhiều hànghóa chất lượng, tiêu chuẩn, đơn đặt hàng tăng lên và như vậy sẽ tạo ra giá trị ngày càng giatăng cho DN.
Bốn là, tăngcường công tácquản lý, giảm sát thường xuyên xuất xứ hàng hóa, chất lượng, tiêu chuân sản phãm của thành phần kinh tế tư nhân trên địabànthành phố
CPTPP yêu cầu bắt buộc các nước thành viên trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa cần có được giấy chứng nhận xuất xứ CPTPP, hoặc tự chứng nhận xuất xứ CPTPP, thì ngay từ khâu nhập khẩu nguyên liệu, DN đã phảilấy được giấychứng nhận xuất xứ CPTPP cho cácnguyên liệu của mình để phục vụ cho việc chứng nhận xuất xứ CPTPP cho hàng hóa thành phẩm sau này. Do đó, DN khu vực KTTN trên địa bàn thành phố Đà Nằng cần chủ động thay đối quy trình sản xuất, nguồn nguyên liệu để đáp ứng được quy tắc xuất xứ của hiệp định này. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các doanh nghiệp từ thiết chế, tạo lập trật tự kỷcương trong sản xuất kinh doanh, bảovệ lợi ích chính đáng và quyền sở hữu công nghiệp chocác DN trong quá trình thực thi CPTPP. Đồng thời, phát hiện và ngăn chặnkịp thời các biểu hiện sai phạm trong các DN như làm hàng giả, đầu cơ, buôn lậu,trốn thuế,ăn cắp bản quyền mầumã hàng hóa... dẫn đến vi phạm gian lận thương mại, gian lận xuất xứ.
Xem tiếp trang 65