ĐỔI MỚI GIÁO DỤC THEO HƯỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC - NHIỆM VỤ CẤP THIẾT CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
ThS. Nguyễn Thị Nga1 Trường Đại học Khánh Hòa
Tóm tắt: Trong xu hướng tăng cường liên kết, trao đổi hoạt động đào tạo, việc làm
trong khu vực và trên thế giới, cũng như yêu cầu cần phải nâng cao chất lượng đào tạo nên việc đổi mới chương trình, phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực người học là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của toàn ngành giáo dục, đặc biệt là các trường đại học. Bởi chỉ có sự thay đổi này mới giúp người học phát huy tối đa khả năng sáng tạo, chủ động, tích cực trong học tập, nghiên cứu; giúp người học vận dụng linh hoạt kiến thức lý thuyết với thực hành, ứng biến nhanh trong xử lý tình huống, trải nghiệm thực tiễn.
Từ khóa: đổi mới, giáo dục, năng lực người học
1. Đặt vấn đề
Toàn cầu hóa là xu hướng vận động tất yếu của lịch sử buộc các quốc gia muốn phát triển phải hòa mình vào dòng chảy chung của thời đại trên mọi lĩnh vực. Vì vậy đòi hỏi nền giáo dục quốc gia cũng phải nhanh chóng hội nhập, bắt kịp xu hướng giáo dục của khu vực và thế giới nhằm đào tạo được nguồn nhân lực có đầy đủ phẩm chất, trình độ, kỹ năng của một công dân toàn cầu để tiến vào thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên, nền giáo dục cả nước nói chung và bậc đại học nói riêng còn nhiều hạn chế, chất lượng giáo dục nước ta không được đánh giá cao trên bảng xếp hạng của một số tổ chức giáo dục uy tín thế giới. Trên bảng xếp hạng của U.S. News đánh giá về hệ thống giáo dục quốc gia, nền giáo dục Việt Nam xếp vị trí rất khiêm tốn 65/80. Và đối với hoạt động đào tạo đại học, các trường đại học Việt Nam cũng không được đánh giá cao khi hoàn toàn vắng bóng trong top 200 hệ thống giáo dục đại học tốt nhất thế giới trên các bảng xếp hạng của các tổ chức giáo duc uy tín của THE (Times Higher Education), QS (Quacquarelli Symonds), ARWU (Academic Ranking of Word Unversities). Bên cạnh đó, theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khoảng 60% sinh viên ra trường làm trái ngành và tính đến quý IV năm 2019 có hơn 140.000 cử nhân thất nghiệp. Và cũng theo báo cáo của Navigos Search, 39% sinh viên ở nước ta ra trường không có định hướng nghề nghiệp cụ thể nên khó khăn khi tìm kiếm việc làm (Dương Tâm, 2019). Mặt khác, từ việc không được đánh giá cao về chất lượng đào tạo nên nguồn lao động Việt Nam cũng không được đánh giá cao về chuyên môn, kỹ năng, đặc biệt là các kỹ năng mềm khi chất lượng nhân lực nước ta chỉ đạt 3.79/10 điểm và hơn 60% các nhà tuyển dụng không hài lòng về chất lượng
1 Email: [email protected]
đào tạo đaị học ở Việt Nam (Dương Tâm, 2019). Điều này phần nào chứng tỏ chất lượng giáo dục của nước ta đã và đang có vấn đề, chương trình đào tạo cũng như phương pháp giảng dạy đang “chệch nhịp” so với nền giáo dục tiên tiến của các nước.
Và những con số trên đây ít nhất cho chúng ta thấy hai vấn đề: một là, chất lượng đào tạo; hai là, nhu cầu lao động của xã hội có sự thay đổi nhưng chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy tại các trường đại học chưa bắt kịp xu thế. Đây thực sự là những con số đáng buồn và để thay đổi chúng ta cần nhìn thẳng, nhìn thật, phải đánh giá một cách khách quan, các trường đại học buộc phải nhìn nhận lại chất lượng đào tạo của mình, đồng thời thay đổi theo xu hướng hội nhập, theo nhu cầu chất lượng lao động của xã hội.
Và để đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ nhiều yếu tố, tuy nhiên trong giới hạn bài tham luận, tác giả đi sâu tìm hiểu đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực người học.
Bởi chỉ có sự thay đổi này mới giúp người học phát huy tối đa khả năng sáng tạo, chủ động, tích cực trong học tập, nghiên cứu; giúp người học vận dụng linh hoạt kiến thức lý thuyết với thực hành, ứng biến nhanh trong xử lý tình huống, trải nghiệm thực tiễn.
Từ đây nhà trường sẽ cung ứng được nguồn lao động có trình độ, kỹ năng, thái độ làm việc tích cực. Mặt khác, trong xu hướng tăng cường liên kết, trao đổi việc làm trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt Nam có thể tự tin hòa nhập vào môi trường lao động quốc tế.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm năng lực
Trước những hạn chế của nền giáo dục trong nước cũng như yêu cầu phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để xây dựng và phát triển đất nước, Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) đã nêu rõ yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Trong đó nội dung trọng tâm của việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là phát triển năng lực người học, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước. Vậy chúng ta hiểu thế nào là đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực người học?
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (2000) chủ biên thì năng lực được hiểu theo 2 cách như sau: (1)Năng lực là chỉ khả năng, điều kiện tự nhiên có sẵn để thực hiện một hoạt động nào đó, (2)Năng lực là phẩm chất tâm sinh lý tạo cho con người có khả năng để hoàn thành một hoạt động nào đó có chất lượng cao. Như vậy với hai cách hiểu này, chúng ta nhận thấy rằng năng lực của một người bao giờ cũng có mầm mống bẩm sinh, tuy nhiên nó chỉ được thể hiện, phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn và nhờ có năng lực con người sẽ giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả nhất.
Hay Denyse Tremblay (2002) cho rằng năng lực là khả năng hành động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống. Như vậy theo Denyse Tremblay năng lực của một người chính là khả năng người đó huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để giải quyết các tình huống trong công việc, cuộc sống như thế nào.
Đồng thời, chương trình giáo dục phổ thông của Quebec (Canada) có quan niệm về năng lực như sau: “Năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định” (Hoàng Hòa Bình, 2015).
Và theo quan niệm này thì năng lực được hiểu là sự kết hợp một cách linh hoạt của nhiều yếu tố để thực hiện có hiệu quả yêu cầu đặt ra trong một tình huống cụ thể.
Như vậy, năng lực là một khái niệm rộng với nhiều nội hàm do đó rất khó để đưa ra một khái niệm chính xác nhất, tuy nhiên chúng ta nhận thấy các nhà nghiên cứu đã có cách hiểu tương tự nhau về vấn đề này. Và điểm tựu chung nhất của các quan niệm về năng lực dù nó được nhìn nhận ở bất cứ lĩnh vực nào thì đều có ba đặc trưng: là được thể hiện, công nhận trong hoạt động thực tiễn; đem lại thành công hoặc “chất lượng cao” của việc thực hiện hoạt động đó và sự phối hợp linh hoạt, hiệu quả nhiều nguồn lực để thực hiện công việc.
2.2. Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục theo hướng tiếp cận năng lực người học ở các trường đại học
2.2.1. Những hạn chế của chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy ở bậc đại học hiện nay
Trong những năm qua công cuộc đổi mới chất lượng giáo dục nói chung và chương trình đào tạo nói riêng đã có những bước chuyển mình nhất định, tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa chương trình đào tạo đại học ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, để có thể hội nhập vào nền tri thức toàn cầu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho quốc gia cũng như trang bị đầy đủ các tiêu chuẩn để thị trường lao động Việt Nam đủ tự tin hội nhập vào thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi chúng ta phải thiết lập mô hình đảm bảo chất lượng và đánh giá theo tiêu chuẩn của tổ chức giáo dục khuc vực và trên thế giới như: AUN-QA, THE, QS, ARWU. Và để thực hiện được điều này, chúng ta phải thẳng thắn nhìn vào những yếu kém của nền giáo dục đại học nước nhà để tiến hành đổi mới. Và trong giới hạn của mình, tham luận xin chỉ ra những hạn chế trong chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy bậc đại học ở nước ta ở những khía cạnh sau:
Mục tiêu đào tạo ở nhiều trường chưa được xây dựng theo định hướng phát triển năng lực người học
UNESCO đã xác định bốn trụ cột của triết lý giáo dục thế kỷ XIX là: học để biết; học để làm; học để sống và làm việc chung; học để làm người. Và với bốn trụ cột này chúng ta thấy được mục tiêu giáo dục mà UNESCO đã đưa ra là đào tạo con người có đủ trình độ, kỹ năng, có phẩm chất, đạo đức để trở thành những công dân có trách nhiệm với xã hội. Và nếu như các nước có nền giáo dục hàng đầu thế giới luôn đặt mục tiêu giáo dục dựa theo hướng phát triển năng lực người học. Họ xác định một cách cụ thể sau khóa học sinh viên làm được gì? Phải có những kỹ năng gì? Phải hoàn thiện bản thân như thế nào? Như một trường đại học danh tiếng ở Mỹ đặt ra mục tiêu:
“Mục đích của môi trường giáo dục và sinh hoạt sinh viên là đào tạo những cá nhân thành đạt và công dân có trách nhiệm. Người tốt nghiệp cảm thấy tự tin trong việc tìm
hiểu rộng rãi nhiều vấn đề và kinh nghiệm ở môi trường đại học hay ngoài đời, dù là học bất cứ ngành chuyên môn nào” (Phạm Công Nhất, 2014). Tuy nhiên ở nước ta, mục tiêu cụ thể như thế này lại ít được đặt ra mà ngược lại rất chung chung, hầu hết mục tiêu đều hướng vào sau khóa học giúp sinh viên có được những kiến thức gì?
Hoặc các kỹ năng đã được đề cập tới, tuy nhiên lại chưa được cụ thể hóa một cách rõ ràng nhất. Chính vì xác định mục tiêu một cách chung chung, ít chú trọng vào các kỹ năng sinh viên cần phải thực hiện đặc biệt là các kỹ năng mềm nên nội dung đào tạo, hình thức đào tạo, phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá,… đều tồn tại nhiều hạn chế.
Chương trình đào tạo nặng lý thuyết, nhẹ thực hành
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổng số tín chỉ của một chương trình đào tạo bậc đại học 4 năm từ 120 đến dưới 140 tín chỉ (không kể các học phần Giáo dục thể chất và Giáo dục quốc phòng) và dường như các trường đều để số tín chỉ ở mức tối đa. Tuy nhiên hầu hết các chương trình đào tạo đều có số tín chỉ thực hành ít hơn so với lý thuyết. Nhiều môn học, ngành học đòi hỏi số tín chỉ thực hành cao nhưng nhà trường không đủ cơ sở vật chất để đáp ứng giờ thực hành cho sinh viên. Đồng thời lại thiếu sự liên kết giữa trường học với các cơ quan, công ty, tổ chức có ngành nghề mà nhà trường đào tạo nên chưa tạo được điều kiện tốt nhất để sinh viên vừa học vừa thực hành nghề tại cơ sở. Chính vì vậy, sau khi ra trường sinh viên thiếu kỹ năng nghề, khó khăn trong việc áp dụng lý thuyết vào thực tiễn. Đây là hạn chế rất lớn của chương trình đào tạo hiện nay, làm giảm chất lượng giáo dục, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn lao động quốc gia. Điều này được phản ánh phần nào qua kết quả khảo sát việc làm của sinh viên sau khi ra trường: “80% người học cho rằng chương trình đào tạo còn nặng về tính hàn lâm; 50% cho rằng kiến thức chuyên ngành mà họ tiếp thu được ít, chưa thể tiếp nhận công việc được giao ngay mà cần hướng dẫn và đào tạo lại” (Lương Thị Yến, 2019).
Nội dung chương trình đào tạo chưa thực sự bám sát nhu cầu thực tiễn
Có thể nói rằng hạn chế lớn nhất của chương trình đào tạo đại học ở nước ta là việc dạy và học còn xa rời nhu cầu thực tiễn. Bởi chương trình đào tạo thiếu ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà tuyển dụng - những người hiểu rõ nhất yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực, họ đòi hỏi người lao động phải làm được gì? Cần các kỹ năng và thái độ làm việc như thế nào? Nhưng khi xây dựng chương trình đào tạo, chỉ một số trường đại học quan tâm tới việc tham khảo ý kiến đóng góp, đánh giá của họ, còn lại nhìn chung thiếu sự liên kết giữa nhà trường với các chuyên gia, nhà tuyển dụng trong xây dựng chương trình đào tạo cho các ngành nghề cụ thể. Nhà trường vẫn theo nếp cũ là dạy những gì mình có trong khi khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, tính chất công việc ở mỗi ngành nghề có nhiều biến chuyển theo thời gian. Do đó nội dung chương trình đào tạo ở các trường đại học có phần bị lỗi thời, lạc hậu so với sự phát triển và đòi hỏi chất lượng nguồn lao động cao của xã hội.
Chương trình đào tạo còn mang tính “khép kín”
Chương trình đào tạo chưa có sự liên thông giữa các chuẩn mực đại học trong nước và quốc tế, nội dung đào tạo chưa tiệm cận được nội dung đào tạo của các trường trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra còn có sự khác biệt về mục tiêu, phương pháp đào tạo, vì vậy khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục nước ta với các nước trên thế giới là vô vàn khó khăn (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo thỏa thuận).
Thậm chí nhiều hệ thống giáo dục đại học trên thế giới không chấp nhận kết quả đào tạo ở Việt Nam. Điều này không chỉ bị đánh giá thấp về mặt chất lượng đào tạo mà còn gây khó khăn cho người học khi có nhu cầu chuyển tới các cơ sở giáo dục ở nước ngoài cũng như việc công nhận các văn bằng, chứng chỉ khi người lao động chuyển công tác sang các nước.
Không chỉ nói tới phạm vi khu vực và thế giới, mà hiện tại ở trong nước do các trường ít công nhận kết quả đào tạo của nhau cũng như thiếu sự liên thông trong chương trình đào tạo nên việc người học muốn chuyển ngành, chuyển trường cũng không hề dễ dàng. Vì vậy các trường cần có tư duy cởi mở hơn, khách quan trong việc nhìn nhận, đánh giá kết quả của nhau và cần có sự liên thông trong chương trình đào tạo.
Hình thức đào tạo theo tín chỉ chưa đúng với tinh thần của tín chỉ
Hiện nay dường như tất cả các trường đại học trên cả nước đều thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện hình thức đào tạo theo tín chỉ. Nếu thực hiện đúng tinh thần của hình thức đào tạo này sẽ giúp người học căn cứ vào năng lực, nguyện vọng, khả năng sức khỏe, điều kiện tài chính của bản thân để rút ngắn hoặc kéo dài thời gian học tập. Đồng thời, so với chương trình đào tạo theo niên chế thì đào tạo theo học phần còn giúp người học được lựa chọn một số môn học theo nhu cầu và được lựa chọn giảng viên giảng dạy. Và theo đúng tinh thần của hình thức đào tạo này thì sinh viên được xem là trung tâm của quá trình đào tạo, được phát huy tốt đa khả năng tự học, tự nghiên cứu nhờ đó phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Vì vậy nó phản ánh được mối quan tâm, nguyện vọng của người học cũng như mong muốn, yêu cầu của nhà tuyển dụng. Do đó sinh viên được chú trọng rèn luyện các kỹ năng đáp ứng yêu cầu của công việc, cuộc sống. Tuy nhiên tại nhiều trường, nhiều ngành học việc đổi mới chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, thẫm chí chỉ là “bình mới rượu cũ”. Khi chương trình đào tạo còn quá ôm đồm về kiến thức, thời gian học tập trên lớp chiếm đa số nên người học không có thời gian tự đào sâu nghiên cứu. Nhà trường thiếu cơ sở vật chất (phòng thí nghiệm, thực hành, thư viện nghèo nàn sách giáo trình, tài liệu tham khảo,…) và nhiều lớp học với sỹ số quá đông nên giảng viên khó triển khai các phương pháp dạy học tích cực.
Mặt khác có nhiều ngành học mặc dù trong chương trình đào tạo có để các môn tự chọn, tuy nhiên chọn học môn nào là do tổ bộ môn quyết định, việc bố trí lịch học vẫn theo hình thức học theo niên chế. Và với nhiều lý do khách quan, chủ quan khác nhau mà nhiều trường đều đưa ra các biện pháp để bắt buộc sinh viên phải tới lớp như:
không được nghỉ quá 20% số tiết hay khống chế bởi cột điểm chuyên cần; ý thức, thái độ học tập. Điều này trái với tinh thần học theo tín chỉ.
Như vậy rõ ràng ở nhiều trường và nhiều ngành học thì việc đào tạo theo tín chỉ chỉ là hình thức còn chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, hình thức quản lý,… vẫn tiến hành theo phương thức đào tạo niên chế.
Hạn chế trong phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định tới chất lượng đào tạo. Hiện nay phương pháp giảng dạy được đánh giá cao nhất, tối ưu nhất là phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm. Phương pháp này thúc đẩy tư duy sáng tạo, logic và phản biện; kỹ năng làm việc độc lập, làm việc nhóm; kỹ năng ra quyết định; kích thích sự đam mê trong nghiên cứu, học tập. Đặc biệt với phương pháp này người học được nghe, được thấy và được làm nên khả năng ứng biến nhanh, linh hoạt trong vận dụng lý thuyết vào thực hành nghề nghiệp, kỹ năng xử lý tình huống. Ngoài ra còn một số phương pháp giảng dạy hiệu quả khác như sử dụng bản đồ tư duy trí tuệ, dạy học theo tình huống, dạy học theo vấn đề,… Tuy nhiên nếu nhìn nhận một cách khách quan thì phương pháp giảng dạy chủ yếu hiện nay vẫn là phương pháp dạy học truyền thống. Với phương pháp này, mục tiêu là chú trọng cung cấp tri thức mà thiếu kỹ năng; người dạy đóng vai trò trung tâm trong truyền tải tri thức một chiều, người học tiếp nhận tri thức một cách thụ động từ các nội dung đã được quy định sẵn từ giảng viên, sách giáo trình, tham khảo. Đồng thời với phương pháp giảng dạy này kéo theo cách kiểm tra, đánh giá là dựa trên các tiêu chí có sẵn và chỉ yêu cầu người học tái hiện lại hình ảnh, kiến thức đã học. Với phương pháp dạy học này dẫn tới hệ quả người học tiếp nhận tri thức một chiều nên hình thành thói quen chây ỳ, thiếu sự chủ động trong học tập và tìm kiếm tri thức mới, hơn nữa sẽ làm thui chột tư duy sáng tạo. Đồng thời nó hình thành thói quen chờ được “dọn sẵn” nên thiếu sự năng động trong cuộc sống. Mặt khác, kiến thức tiếp nhận được chỉ thông qua việc nghe giảng từ người dạy, học thuộc mà không được thực hành, vận dụng ngay thì lượng kiến thức còn lại trong bộ não người học là rất ít. Chính vì vậy, sinh viên sau khi ra trường thiếu các kỹ năng cần thiết, việc áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn còn kém lại thiếu tư duy sáng tạo. Do đó trong bối cảnh cần hội nhập nền giáo dục, hội nhập thị trường lao động toàn cầu thì phương pháp dạy học đơn thuần này sẽ đẩy chúng ta ra xa và trở nên tụt hậu so với chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực thế giới. Vì vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy là việc làm cấp thiết của các trường đại học hiện nay.
2.1.2. Những hệ lụy từ hạn chế, yếu kém của chương trình, phương pháp giảng dạy đại học ở nước ta
Như chúng ta đã phân tích ở trên, hiện chương trình đào tạo cũng như phương pháp giảng dạy bậc đại học ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chính điều này đã và đang làm cho nền giáo giục Việt Nam ngày càng trở nên lạc hậu, làm suy giảm chất lượng nguồn lao động và ảnh hưởng tới tiến trình hội nhập thị trường lao động thế giới.
Làm giảm năng lực cạnh tranh của các trường đại học
Xếp hạng hệ thống giáo dục quốc gia và xếp hạng hệ thống giáo dục đại học là xu thế tất yếu toàn cầu. Và bất cứ một nền giáo dục hay trường đại học nào lọt top cũng như đạt vị trí cao trên bảng xếp hạng đều cảm thấy rất tự hào bởi đó là sự công nhận của cả thế giới về chất lượng giáo dục về sức ảnh hưởng và sự đóng góp của trường đối với sự phát triển của nhân loại.
Hiện nay có một số bảng xếp hạng của các tổ chức giáo dục uy tín trên thế giới như:
THE, QS, ARWU,… Mỗi bảng xếp hạng sử dụng một bộ chỉ số khác nhau làm tiêu chí đánh giá các trường đại học. THE sử dụng 13 chỉ số được chia thành năm nhóm:
giảng dạy, nghiên cứu, trích dẫn khoa học, triển vọng quốc tế và thu nhập nhờ chuyển giao tri thức. QS sử dụng 6 thước đo: danh tiếng học thuật, danh tiếng người sử dụng lao động, tỷ lệ giảng viên/sinh viên, số trích dẫn khoa học trên mỗi giảng viên, tỷ lệ giảng viên quốc tế, tỷ lệ sinh viên quốc tế. Và ARWU xây dựng 4 tiêu chí: chất lượng giáo dục, chất lượng giảng viên, nghiên cứu khoa học và năng suất học thuật bình quân trên đầu người.
Và theo các bảng xếp hạng đã được công bố trong năm 2018, 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cũng như các trường đại học Việt Nam đều vắng bóng. Năm 2018 theo bảng xếp hạng của QS, có 50 hệ thống giáo dục đại học tốt nhất thế giới, trong khi có nhiều quốc gia Châu Á nói chung và quốc gia Đông Nam Á nói riêng lọt top:
Trung Quốc (8), Hàn Quốc (9), Nhật Bản (10), Malaysia (25), Singapore (28), Thái Lan (38), Indonesia (39), Philippines (45) thì hệ thống giáo dục đại học Việt Nam không có tên trong bảng xếp hạng2.
Và các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam cũng không có mặt trong bảng xếp hạng đại học hàng đầu thế giới năm 2018, 2019 của THE3 và ARWU4. Trong khi Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines đều có các trường đại học có tên trong bảng xếp hạng của THE. Và Singapore, Malaysia, Thái Lan có các trường đại học có mặt trong bảng xếp hạng của ARWU. Hay theo Báo cáo “Sự sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai” của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2018, Việt Nam xếp thứ 75/100 về chất lượng đào tạo đại học.
Như vậy với những kết quả xếp hạng, đánh giá của các tổ chức có uy tín trên thế giới có thể thấy vị thế của hệ thống giáo dục đại học nước ta là rất thấp, so với hệ thống giáo dục đại học của các nước trong khu vực thì chúng ta đang thua xa họ. Chính vì điều này đã làm giảm năng lực cạnh tranh của các trường đại học trong nước so với các trường đại học trong khu vực và trên thế giới trong việc thu hút du học sinh, thu hút nhân tài. Hàng năm, Việt Nam có hàng ngàn học sinh, sinh viên đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau ở khắp các trường đại học trên thế giới. Theo số liệu báo cáo của Cục Hợp tác quốc tế năm 2019 hiện có 170.000 du học sinh Việt Nam đang học tập ở nước ngoài. Và Việt Nam luôn nằm trong tốp 10 về số
2 www.topuniversities.com/system-strength-rankings/2018
3 www.timeshighereducation.com/world-university-rankings/2019/world
4 www.cwur.org/2018-19.php
lượng du học sinh tại nhiều thị trường giáo dục: lượng du học sinh Việt Nam đứng thứ 6 trong danh sách những quốc gia dẫn đầu về lượng sinh viên du học tại Mỹ, đứng thứ 4 ở Canada, thứ 4 ở Australia và đứng thư 2 ở Nhật Bản. Và trong một nghiên cứu về giá trị giáo dục, HSBC ước tính chi phí du học của du học sinh Việt Nam vào khoảng 3 tỉ USD mỗi năm (Bích Trâm, 2019). Lượng du học sinh Việt Nam ngày càng lớn điều này cũng phản ánh phần nào chất lượng đào tạo, dịch vụ đại học trong nước không đáp ứng được nguyện vọng của “khách hàng” và cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng “chảy máu chất xám” ở nước ta. Và theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay có gần 21.000 du học sinh nước ngoài đang học tập tại các trường Đại học ở nước ta. Như vậy chúng ta thấy rõ rằng các trường đại học Việt Nam đang mất năng lực cạnh tranh so với các trường đại học ở các nước trong thu hút du học sinh.
Và hiện nay sự cạnh tranh giữa các trường đại học trong nước cũng rất lớn, trừ những trường đại học có tiếng trong top đầu thì nhiều trường rất khó khăn trong tuyển sinh khi chỉ đạt 70-80% chỉ tiêu, thậm chí có trường chỉ đạt 50% chỉ tiêu. Vì vậy, hiện nay chất lượng đầu vào của nhiều trường đại học là vô cùng thấp do tình trạng “vơ bèo vạt tép” điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng đào tạo nói chung. Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh trong tuyển sinh ngay chính sân nhà thì các trường cần nâng tầm thương hiệu, vị thế của mình bằng việc nâng cao hiệu quả đào tạo. Bởi về cơ bản thương hiệu trường đại học có giá trị cũng tương tự như thương hiệu của mọi doanh nghiệp và tổ chức. Nó được thể hiện qua tên giao dịch của trường, gắn liền với bản sắc riêng, uy tín và hình ảnh của nhà trường nhằm gây dấu ấn sâu đậm đối với người học, đối tác, nhà tuyển dụng. Hay nói cách khác, thương hiệu của một trường chính là nhận thức của người học, giảng viên, cán bộ nhân viên nhà trường, đối tác hợp tác, nhà tuyển dụng và cả xã hội với hình ảnh mà một trường đại học có được qua những gì họ cung ứng cho xã hội. Và chính việc đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực người học là một yếu tố quan trọng góp phần nâng tầm thương hiệu của nhà trường. Bởi sự đổi mới này sẽ giúp nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, các bạn sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong xin việc và mức độ hài lòng các nhà tuyển dụng sẽ cao hơn. Qua đây uy tín của nhà trường được nâng cao, chất lượng đào tạo được khẳng định và nó sẽ là tiêu chí để thu hút người học. Và ngược lại nếu nhà trường bị chính người học, nhà tuyển dụng đánh giá thấp về chất lượng đào tạo sẽ mất đi năng lực cạnh tranh trong tuyển sinh. Do đó, đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực người học là nhiệm vụ hàng đầu của các trường đại học hiện nay.
Làm suy giảm chất lượng nguồn nhân lực quốc gia
Có câu nói rằng: “Chỉ có những quốc gia thu hút những cái đầu vĩ đại hoặc coi trọng giáo dục mới có thể trở nên giàu có”, như vậy chiến lược giáo dục đúng đắn là vũ khí tối quan trọng để xây dựng đất nước trở nên hùng mạnh. Nhưng nền giáo dục của nước ta nói chung và bậc đại học nói riêng đang rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc.
Chất lượng nguồn nhân lực không đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế. Ngân hàng Thế giới đánh giá trên thang điểm 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng và chỉ số
cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam cũng chỉ đạt 3,39/10 (Dương Tâm, 2019). Thực sự đây là những con số đáng buồn về chất lượng lao động nước ta, nó ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao động, tới sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đặc biệt cuộc cạnh tranh trong thời đại công nghệ 4.0 là cuộc cạnh tranh về nhân lực, quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thay đổi của khoa học công nghệ thì nước đó thắng trong cạnh tranh. Đồng thời nguồn nhân lực chất lượng sẽ hội nhập nhanh vào xu hướng dịch chuyển nguồn lao động trong khu vực và trên thế giới, điều này góp phần giải quyết việc làm, nâng cao hiệu suất lao động, tăng thu nhập và thúc đẩy sự phát triển đất nước. Tuy nhiên với chỉ số trên, nguồn lao động Việt Nam đang ở mức báo động đỏ về chất lượng.
Và theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới và Viện nghiên cứu quản lý trung ương với sự tham gia của 350 công ty thuộc lĩnh vực sản xuất và dịch vụ tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thì có tới 66% người sử dụng lao động nước ngoài và 36% doanh nghiệp trong nước không hài lòng với chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam (Dương Tâm, 2019). Đây là hệ quả của tình trạng người học được tiếp cận rất nhiều kiến thức nhưng chủ yếu là lý thuyết suông mà ít được thực hành để vận dụng vào thực tiễn, ít được đi thực tế để trải nghiệm, thiếu kỹ năng mềm. Mặt khác, bản thân người học lại không đặt ra mục tiêu trong học tập nên thiếu động lực và thụ động trong tiếp nhận tri thức, thiếu tư duy sáng tạo, khả năng tự tìm tòi, nghiên cứu. Chính vì vậy sau khi rời ghế nhà trường với tấm bằng cử nhân trong tay nhưng sinh viên không xin được việc làm đúng ngành nghề. Và trường hợp sinh viên với tấm bằng loại giỏi nhưng trầy trật khi xin việc do không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng cũng rất nhiều. Đồng thời, nhiều cử nhân khi được nhận vào làm việc tại các cơ quan, doanh nghiệp thì vẫn phải đi đào tạo lại. Đây thực sự là bức tranh ảm đảm về chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay.
Do đó, đứng trước thực trạng trên buộc nhà trường, người dạy, người học phải thay đổi cả trong tư duy và trong cách làm để “Xây dựng nền giáo dục mới, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt”. Và để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi chương trình đào tạo phải bám sát nhu cầu lao động của xã hội nhằm tránh tình trạng nhà trường tuyển sinh những ngành nghề mà xã hội ít có nhu cầu dẫn đến thừa nguồn nhân lực và dạy thừa lý thuyết nhưng thiếu thực hành dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường không thạo việc, không có kinh nghiệm thực tiễn nên xin việc rất khó khăn. Và việc chỉnh sửa chương trình đào tạo, đề cương chi tiết các môn học cần cụ thể hóa các kỹ năng mà sinh viên cần đạt được cũng như thay đổi phương pháp giảng dạy từ truyền thống sang tiếp cận năng lực người học là cần thiết và bắt buộc. Điều này góp phần quan trọng để tăng năng lực con người trong nền kinh tế mới: nền kinh tế tri thức và cách mạng 4.0 hiện nay.
Như vậy, đổi mới chất lượng giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia nhằm đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chuyên môn, đồng thời có khả năng sáng tạo, thích nghi nhanh trong môi trường làm việc năng động với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Và để đạt được kết quả này, cần thiết phải đổi mới chương trình đào tạo, thay đổi phương pháp dạy học theo hướng
tích cực, đào tạo thực hành, thực nghiệm song hành cùng lý thuyết để người học trải nghiệm, tiếp cận với ngành nghề của mình ngay khi ngồi trên ghế nhà trường.
2.2. Một số đề xuất đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực người học
2.2.1. Xây dựng chương trình đào tạo phải bám sát nhu cầu thực tiễn
Để thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo nguồn nhân lực với nhu cầu lao động xã hội cũng như việc nâng cao uy tín của mình thì nhà trường cần phải đổi mới nội dung chương trình đào tạo, xây dựng nội dung học phần đảm bảo bám sát yêu cầu của thị trường lao động và đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực người học. Như thiết kế lại chương trình học sao cho thời gian thực tế, thực hành của sinh viên tăng lên nhằm tạo điều kiện cho các bạn sinh viên biết việc, thạo việc. Đồng thời nhà trường cần linh hoạt hơn trong việc tính giờ chuẩn của tiết học thực hành cho giảng viên và tạo điều kiện thuận lợi để trong từng môn học giảng viên có thể đưa sinh viên đi thực nghiệm nhằm nắm bắt tốt hơn kiến thức từng học phần. Và để thực hiện được điều này, các trường đại học cần tạo ra sự gắn bó hữu cơ giữa cung và cầu, giữa các bộ phận trong trường với nhau và với xã hội. Nhà trường hãy xem sinh viên là khách hàng, hãy “lắng nghe tiếng nói” của nhu cầu thị trường lao động để đào tạo được nguồn nhân lực làm được việc, làm hài lòng các nhà tuyển dụng, đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Đồng thời một giải pháp đặt ra là các trường đại học cần thiết lập được hệ thống các yếu tố đảm bảo chất lượng và hàng năm cần tiến hành khảo sát để có được thông tin hữu ích. Và dữ liệu chúng ta cần thu thập thông tin bao gồm: đánh giá của thông tin về chương trình, về giảng viên, bài giảng,…; sự tiến bộ của người học; tỷ lệ sinh viên ra trường và bỏ học; tỷ lệ sinh viên ra trường làm đúng chuyên ngành; phản hồi từ thị trường lao động; phản hồi từ cựu sinh viên. Từ các thông tin này, nhà trường tiến hành phân tích, đánh giá và trên cơ sở đó ra các quyết định điều chỉnh chương trình học, phương pháp giảng dạy, thậm chí là xóa bỏ hay mở thêm ngành học mới (ngành học mới phải phù hợp với mục tiêu, chức năng của nhà trường; đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất đảm bảo) nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu người học và nhu cầu lao động xã hội cần.
Mặt khác, nhà trường cần kết nối tốt với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để tạo điều kiện cho sinh viên tới thực tế, thực tập. Đồng thời, quan hệ tốt với đối tác và doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho sinh viên ra trường có việc làm, từ đó tạo điều kiện cho trường phát triển. Không những thế, chúng ta cần phải tham khảo ý kiến của nhà tuyển dụng trong việc xây dựng chương trình đào tạo của ngành học nhằm bám sát nhu cầu thực tiễn của xã hội.
2.2.2. Xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tiệm cận các chuẩn chung của nền giáo dục đại học trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền giáo dục đại học Việt Nam cũng phải tiệm cận được các chuẩn chung của thế giới chính vì vậy phải đổi mới nội dung chương trình và
phương pháp dạy học theo hướng hội nhập quốc tế. Các trường đại học cần nghiên cứu, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các trường đại học hàng đầu thế giới để tiến hành đổi mới trên cơ sở vẫn giữ được nét đặc thù của giáo dục đại học trong nước.
Trong lịch sử theo từng giai đoạn nền giáo dục đại học trên thế giới đã trải qua nhiều cách tiếp cận trong việc xây dựng chương trình đào tạo như: Cách tiếp cận nội dung, tiếp cận mục tiêu, tiếp cận theo định hướng phát triển năng lực,… Mỗi cách tiếp cận đều có ưu và hạn chế nhất định. Tuy nhiên xét một cách tổng thể thì phương pháp tiếp cận có ưu điểm vượt trội, trở thành xu thế trong xây dựng chương trình đào tạo của các trường đại học trên thế giới là cách tiếp cận theo định hướng phát triển năng lực. Do đó trong đổi mới chương trình đào tạo, các trường đại học Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế này. Chương trình đào tạo cần đặt mục tiêu trọng tâm là hình thành năng lực bao gồm cả năng lực chung và năng lực chuyên biệt, phải xác định rõ người học không chỉ là biết được gì? có được kiến thức nào? mà phải làm được gì? phải có được kỹ năng, kỹ xảo gì thông qua thực hành nghề nghiệp, trải nghiệm thực tiễn, giải quyết tình huống. Và nội dung đào tạo cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi đồng thời mang tính tích hợp, liên ngành cao, cần đa dạng phương pháp giảng dạy cũng như không gian, môi trường học tập, đa dạng cách kiểm tra, đánh giá người học.
Mặt khác, hiện nay việc xếp hạng đại học là xu thế toàn cầu cho nên khi xây dựng chương trình đào tạo, các trường đại học trong nước cần tham khảo tiêu chí đánh giá của một số bảng xếp hạng THE, QS, ARWU,… nhằm từng bước chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để tham gia đánh giá xếp hạng. Và nhìn chung trong ba bảng xếp hạng này thì ARWU có các tiêu chí phù hợp hơn với các trường đại học ở nước ta.
2.2.3. Nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, nghiên cứu
Nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật như phòng học, máy chiếu, phòng thực hành đầy đủ trang thiết bị để hiện thực hóa các vấn đề cần đổi mới trong dạy học.
Đồng thời cần đầu tư cơ sở dữ liệu phục vụ công tác nghiên cứu, học tập của giảng viên và sinh viên trong trường bởi với chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực người học đòi hỏi sinh viên phải chủ động tìm tòi, nghiên cứu tài liệu. Vì vậy, nhà trường cần xây dựng tài liệu học tập mở, cập nhật giáo trình, tài liệu mới kể cả giáo trình, tài liệu tham khảo nước ngoài và đa dạng các nguồn tìm kiếm.
2.2.4. Giảng viên cần đa dạng hóa các phương pháp giảng dạy
Có câu nói nổi tiếng: “Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn”. Qua câu nói này, chúng ta thấy rằng vai trò của nhà giáo không phải là truyền đạt kiến thức một cách thụ động, “bắt ép”
người học tiếp nhận tri thức một cách khiên cưỡng mà vai trò quan trọng của người
“đưa đò” là biết khơi dậy niềm đam mê, sự chủ động, hứng thú trong lĩnh hội kiến thức, biết “khai phá” năng lực tiềm năng trong bản thân người học. Và để đạt được điều này, người dạy cần thay đổi quan điểm và phương pháp dạy học theo hướng tích cực, cần “cởi trói” tư duy tiếp nhận tri thức một chiều. Người thầy cần có quan điểm dạy học mới: Giảng dạy là khai thác và nuôi dưỡng nội lực của sinh viên để họ sẽ tự học suốt đời và tạo ra thói quen rèn luyện tư duy, kĩ năng phân tích vấn đề, khả năng
tiếp thu, diễn đạt, tổ chức, xử lí thông tin ở người học. Giáo viên cần sáng tạo, linh hoạt trong việc áp dụng và lồng ghép các phương pháp giảng dạy nhằm thay đổi không khí học tập, tạo hứng thú cho sinh viên trong tiếp nhận kiến thức. Và tùy theo từng chủ đề, nội dung buổi học, giảng viên có thể tổ chức lớp học một cách sinh động như: sinh viên có thể học ở lớp, ở phòng thực hành, phòng thí nghiệm, đi thực tế tại cơ quan, doanh nghiệp, điền dã, học ở hiện trường, học cá nhân, học theo nhóm,… để nâng cao hiệu quả học tập từ việc lĩnh hội tri thức thông qua quá trình nghe - nhìn và thực hành các kỹ năng trong từng môn học.
Mặt khác, không chỉ trông chờ vào mối quan hệ của nhà trường với các tổ chức, doanh nghiệp mà bản thân đội ngũ giảng viên cũng cần năng động trong việc khai thác các mối quan hệ với đối tác và doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện đưa sinh viên tới thực tế và tăng cơ hội việc làm cho sinh viên sau khi ra trường. Đồng thời qua đây có thể điều chỉnh, bổ sung kiến thức vào bài giảng cho phù hợp với sự biến đổi nhanh của khoa học và yêu cầu chất lượng lao động của xã hội.
2.2.5. Nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên
Để phát huy hiệu quả đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực người học đòi hỏi cần có sự “cộng tác” của người học với người dạy.
Bản thân các bạn sinh viên phải xác định được muc tiêu, nhiệm vụ học tập; cần bỏ thói quen chây ỳ, thói quen tiếp nhận tri thức một chiều và thay vào đó phải chủ động, tích cực trong lĩnh hội tri thức, tự giác trong học tập, nghiên cứu.
Đồng thời sinh viên cần có kỹ năng quản lý thời gian vì nhiều bạn sinh viên để thời gian trôi qua rất lãng phí, thay vì giành thời gian đọc sách, lên thư viện để tự nghiên cứu tiếp cận tri thức, học thêm các khóa đào tạo kỹ năng nềm như ngoại ngữ, tin học hay đi làm thêm để bổ sung các kỹ năng nghề nghiệp thì nhiều bạn giành thời gian để ngủ, lướt web, facebook, zalo,… Vì vậy các bạn sinh viên cần lên kế hoạch cho việc sử dụng quỹ thời gian hàng ngày của mình một cách hiệu quả, hãy dùng nó để phục vụ cho việc tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện các kỹ năng nhằm chinh phục các nấc thang tri thức và chuẩn bị hành trang bước vào nghề sau khi tốt nghiệp.
3. Kết luận
Có câu nói rằng: “Nếu đất nước nào thắng trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong phát triển kinh tế” hay “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới”để nói lên tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển quốc gia và tầm ảnh hưởng của nó đối với sự đổi thay của thế giới. Đồng thời đứng trước thực trạng với nhiều hạn chế của hệ thống giáo dục đại học nên vấn đề đổi mới chất lượng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia hiện nay, trong đó có đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực người học. Các trường đại học phải xem đó là nhiệm vụ vô cùng cấp thiết cần triển khai ngay bởi chất lượng đào tạo sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực - nhân tố quan trọng bậc nhất để phát triển đất nước. Và đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng trên mọi mặt thì vấn đề đổi mới nền giáo dục nói chung và chương trình đào tạo đại học nói riêng theo hướng tiệm cận nền giáo dục quốc tế càng trở nên cấp bách
hơn lúc nào hết. Bởi hiện tại các trường đại học Việt Nam đang vắng bóng trên các bảng xếp hạng chất lượng của các tổ chức giáo dục uy tín thế giới, nội dung đào tạo và phương pháp giảng dạy lạc hậu so với các nước. Chính vì vậy, các trường đại học Việt Nam không đủ năng lực cạnh tranh so với các trường đại học của các quốc gia khác trong thu hút du học sinh; các văn bằng, chứng chỉ được đào tạo ở nước ta không được đánh giá cao. Do đó đổi mới chương trình đào tạo nói riêng và đổi mới toàn diện nền giáo dục nói chung không thể dừng lại ở việc hô hào khẩu hiệu mà cần thiết phải thực hiện ngay nếu không muốn giáo dục đại học Việt Nam ngày càng tụt hậu so với khu vực và thế giới.
Tuy nhiên để thực hiện thành công công cuộc đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cần phải có sự phối hợp đồng bộ từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền tới nhà trường, người dạy và người học. Như một câu nói đã chỉ ra: “Nhiệm vụ của một trường đại học tiến bộ không phải là cung cấp những câu trả lời thích hợp, mà chính phải là đặt ra các câu hỏi thích hợp” và “Người thầy thực sự hiểu biết không bắt bạn bước vào ngôi nhà tri thức của thầy, mà hướng dẫn bạn đến ngưỡng của tư duy và tri thức của bạn”. Và đối với người học hãy ghi nhớ “Người nào chỉ biết ngồi nghe giáo sư giảng chứ bản thân mình trong lòng không cảm thấy khát khao đọc sách, không tự tìm hiểu, nghiên cứu thì có thể nói tất cả những điều người ấy nghe giảng ở trường đại học cũng sẽ chỉ như một tòa nhà xây trên cát mà thôi”. Và khi các “mắt xích” này cùng nhau quyết tâm thay đổi cách quản lý, cách dạy, cách học thì các cơ sở đào tạo sẽ thoát khỏi lối tư duy giáo dục truyền thống để thực hiện đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực người học đạt hiệu quả cao nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bích Trâm (2019). Chi 3 tỉ USD mỗi năm, du học sinh Việt Nam đến nước nào? https://forbesvietnam.com.vn/tin-cap-nhat/chi-3-ti-usd-moi-nam-du-hoc- sinh-viet-nam-den-nuoc-nao-8274.html
Dương Tâm (2019). Chất lượng nhân lực - thách thức lớn của Việt Nam, https://vnexpress.net/giao-duc/chat-luong-nhan-luc-thach-thuc-lon-cua- viet-nam-4013069.html
Hoàng Hòa Bình (2015). Năng lực và đánh giá theo năng lực. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh 6(71): 21-31.
Hoàng Phê (chủ biên) (2000). Từ điển tiếng Việt. Trung tâm Từ điển học: Nxb. Đà Nẵng.
Lương Thị Yến (2019). Nâng cao chất lượng đào tạo ngành kế toán, kiểm toán trong bối cảnh hội nhập quốc tế, http://tapchitaichinh.vn/ke-toan-kiem-toan/nang-cao- chat-luong-dao-tao-nganh-ke-toan-kiem-toan-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te- 302421.html
Phạm Công Nhất (2014). Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Tạp chí Lý luận chính trị 10: 53-58. http://tapchicongsan.org.
vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/30373/doi-moi-giao-duc-dai-hoc-theo-huong-hoi -nhap-quoc-te-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx
Tremblay, D. (2002). Adult education, a lifelong journey: the competency-based approach: helping learners become autonomous. Gouvernement du Québec, Ministère de l'éducation.