TÁC ĐỘNG CỦA CẮT RỐN MUỘN TỚI MỘT SỐ CHỈ SỐ HỒNG CẦU Ở TRẺ SƠ SINH THƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN GREEN HẢI PHÒNG
Vũ Văn Quang1, Vũ Thị Yến1
TÓM TẮT47
1. Đặt vấn đề. Kẹp rốn muộn có nhiều lợi ích và có thể cải thiện được tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em trong những năm tháng đầu đời. Nghiên cứu này so sánh một số chỉ số hồng cầu ở ngày thứ 2-3 sau đẻ giữa nhóm trẻ khoẻ cắt rốn muộn và cắt rốn ngay.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
Đây là nghiên cứu mổ tả cắt ngang gồm 185 trẻ (27 trẻ nhóm cắt rốn ngay và 158 trẻ nhóm cắt muộn).
3. Kết quả. Trẻ nam có 86 trẻ (54,4%), nữ 72 (45,6%; đẻ thường 70 (44,3%), đẻ mổ 88 (55,7%); số lượng hồng cầu trung bình, lượng hemoglobin trung bình nhóm cắt rốn muộn cao hơn ở nhóm cắt rốn ngay, sự khác biệt với giá trị p lần lượt là 0,003 và 0,01. Chỉ số hematocrit trung bình ở nhóm cắt rốn muộn cũng cao hơn ở nhóm cắt rốn ngay, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kế (p=0,07).
4. Kết luận. Các chỉ số hồng cầu, hemoglobin, hematocrit ở nhóm cắt rốn muộn cao hơn ở nhóm cắt rốn ngay; điều này có thể góp phần làm giảm tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt ở nhóm trẻ cắt rốn muộn sau này.
Từ khoá. Cắt rốn muộn, chỉ số hồng cầu, thiếu máu thiếu sắt
1Trường đại học Y dược Hải Phòng Chịu trách nhiệm chính: Vũ Văn Quang Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 17.3.2021
Ngày phản biện khoa học: 20.4.2021 Ngày duyệt bài: 22.5.2021
SUMMARY
EFFECT OF DELAYED VERSUS EARLY UMBILICAL CORD CLAMPING ON RED BLOOD CELL INDICES OF NORMAL NEWBORNS
AT GREEN INTERNATIONAL HOSPITAL
1. Introduction. Iron deficiency and iron deficiency anaemia are major public health problems in young children worldwide. Delayed umbilical cord clamping has been suggested as a measure to prevent infant iron deficiency.
2. Materials and methods. We investigate the effects of delayed umbilical cord clamping, compared with early clamping on red blood cell indices. This is a cross sectional study.
3. Results. During the study period, the total of 185 newborns, including 27 children with early clamping cord and 158 children with delayed umbilical cord clamping, were analyzed.
Males, 86 (54,4%); females, 72(45,6%); Normal vaginal d elivery, 70 (44,3%); caesarean section, 88 (55,7%). Mean of red blood cell count, hemoglobin, and hematocrit in delayed umbilical cord clamping group were significantly higher than that of early cord clamping group with p=
0,003; 0,01; 0,07, respectively.
4. Conclusions. Red cell count, hemoglobin value, and hematocrit value of delayed umbilical cord clamping group were higher than that of early cord clamping group; This may contribute to a reduction iron deficiency anemia later.
Keywords. Delayed umbilical cord clamping, umbilical cord clamping, iron deficiency anaemia.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thời gian tối ưu để kẹp rốn đã được thảo luận trong y văn từ lâu. Có nhiều bằng chứng cho thấy kẹp rốn muộn có nhiều lợi ích và có thể cải thiện được tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em trong những năm tháng đầu đời[1][2][4]. Ở những phút đầu sau sinh, vẫn còn một lượng máu lưu thông từ nhau thai đến trẻ sơ sinh. Chờ đợi kẹp rốn trong 2-3 phút hoặc đến khi mạch rốn ngừng đập cho phép trẻ sơ sinh nhận thêm một lượng máu đáng kể và cung cấp một nguồn dự trữ sắt trong 6-8 tháng đầu đời. Điều này giúp ngăn ngừa thiếu máu thiếu sắt cho đến khi trẻ có thể hấp thụ sắt tốt hơn từ thức ăn. Kẹp rốn muộn đặc biệt phù hợp với các trẻ sơ sinh ở các nước đang phát triển như Việt Nam, nơi có tỉ lệ thiếu máu dinh dưỡng cao[1][2].
Thiếu máu là một vấn đề y tế cộng đồng phổ biến để lại các hậu quả nghiêm trọng với sức khoẻ con người, ảnh hưởng và cản trở sự phát triển kinh tế xã hội. Tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về hiệu quả của kẹp rốn muộn, tại Hải Phòng chúng tôi chưa nghi nhận báo cáo nào về vấn đề này. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: Đánh giá tác động của cắt rốn trễ tới một số chỉ số hồng cầu ở trẻ sơ sinh đủ tháng khoẻ mạnh tại Bệnh viện Quốc tế Green Hải Phòng năm 2017-2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
*Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Nhóm sơ sinh cắt rốn trễ: trẻ đủ tháng, không có bất kỳ một bất thường nào trong thời kỳ mẹ mang thai, không phải can thiệp
tham gia nghiên cứu.
- Nhóm cắt rốn sớm: trẻ đủ tháng, không có bất kỳ một bất thường nào trong thời kỳ mẹ mang thai, không phải can thiệp sau đẻ và được cắt rốn trước 30 giây. Gia đình trẻ tự nguyện tham gia nghiên cứu.
*Tiêu chuẩn loại trừ: những trẻ không đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn hoặc gia đình không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Khoa sơ sinh Bệnh viện Quốc tế Green Hải Phòng từ tháng 12/2017 đến tháng 2/2018
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2. Cỡ mẫu: lấy trọn các đối tượng đủ tiêu chuẩn lựa chọn trong thời gian nghiên cứu. Tổng số chúng tôi có được 185 trẻ, trong đó nhóm trẻ cắt rốn sớm là 27, cắt rốn muộn là 158.
2.2.3. Một số chỉ số nghiên cứu
- Tiền sử mang thai của bà mẹ, hình thức sinh, các chỉ số apggar, chiều dài, cân nặng, vòng đầu.
- Xét nghiệm máu: trẻ được lấy máu tĩnh mạch làm xét nghiệm khi đủ 24 giờ tuổi.
Máu được bảo quản trong ống có sẵn chất chống đông EDTA sau đó dược phân tích bằng máy tự động Celldyn 3700 theo đúng quy trình của nhà sản xuất.
2.2.4. Thu thập số liệu: Mỗi trẻ đều có một bệnh án nghiên cứu thống nhất để thu thập số liệu.
2.2.5. Xử lý số liệu: theo phương pháp thống kê y học, ứng dụng phần mềm phân tích thống kê mã nguồn mở R. Các biến rời rạc được tính ra tỉ lệ %, so sánh bằng test Khi bình phương; sự phác biệt có ý nghĩa
trung vị và độ lệch chuẩn; so sánh 2 trung bình bằng t-test, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p< 0,05.
2.2.6. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được sự chấp thuận của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của Trường Đại học Y Dược Hải Phòng số 444/QĐ-YDHP ngày 05/05/2017.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.3. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Trong 185 đối tượng nghiên cứu có 102 trẻ nam, 83 trẻ nữ; nhóm trẻ được cắt rốn ngay là 27 trẻ, nhóm cắt rốn trễ là 158.
Bảng 1. Một số đặc điểm về giới và phương thức mổ
n %
Giới Nam 86 54,4
Nữ 72 45,6
Phương thức sinh Sinh thường 70 44,3
Sinh mổ 88 55,7
Nhận xét: Tỉ lệ trẻ nam cao hơn nữ; tỉ lệ sinh mổ cao hơn sinh thường nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
2.4. So sánh một số chỉ số hồng cầu ở nhóm trẻ cắt rốn muộn và cắt rốn ngay
Hình 1. So sánh số lượng hồng cầu giữa nhóm cắt rốn ngay và cắt rốn muộn
Nhận xét. Số lượng hồng cầu trung bình ở nhóm trẻ cắt rốn muộn cao hơn hẳn nhóm cắt rốn ngay, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,003.
Hình 2. So sánh lượng huyết sắc tố giữa nhóm cắt rốn ngay và cắt rốn muộn
Nhận xét. Lượng huyết sắc tố ở nhóm trẻ cắt rốn muộn cao hơn hẳn nhóm cắt rốn ngay, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,01
Hình 3. So sánh lượng hematocrit giữa nhóm cắt rốn ngay và cắt rốn muộn
Nhận xét. Lượng hematocrit ở nhóm trẻ cắt rốn muộn cao hơn nhóm cắt rốn ngay nhưng
Bảng 2. Tỉ lệ thiếu máu và đa hồng cầu ngay sau đẻ Nhóm cắt rốn ngay
(n = 27)
Nhóm cắt rốn muộn
(n=158) p
Thiếu máu (Hb<145) 5(18,5%) 15(8,2%) 0,2
Đa hồng cầu
(Hct≥65%) 1(3,7%) 2 (1,3%) 0,91
Nhận xét. Ở nhóm cắt rốn muộn chúng tôi ghi nhận 2 bệnh nhân (1,3%) bị đa hồng cầu, 15 bệnh nhân thiếu máu nhưng không có sự khác biệt với nhóm cắt rốn ngay
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu ở 185 trẻ, có 102 trẻ có giới tính nam và chỉ có 83 trẻ nữ. Chúng tôi ghi nhận tỉ lệ trẻ nam cao hơn trẻ nữ cho thấy phần nào sự mất cân bằng giới tính hiện nay.
Từ Bảng 1 cho thấy trong 185 trẻ thì có 109 trẻ đẻ mổ và chỉ có 76 trẻ đẻ thường. Điều này cho thấy tỉ lệ trẻ mổ lấy thai ngày càng cao[1]. Mổ lấy thai có ảnh hưởng nhiều hơn đến sức khỏe và sức khỏe sinh sản của bà mẹ, ít ảnh hưởng đến sức khỏe của con.
Bằng chứng là tỉ lệ mổ lấy thai tăng lên nhưng tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh không tăng.
Trong tổng số 185 trẻ, số lượng hồng cầu trung bình là 4,86 T/l, haemoglobin trung bình là 171g/l, haematocrit trung bình là 0,5l/l. Kết quả này khá tương đồng với nghiên cứu của một số tác giả khác[3][5][6].
Trong 27 trẻ được cắt rốn muộn bao gồm 16 trẻ nam và 11 trẻ nữ cho kết quả như sau: số lượng hồng cầu trung bình là 4,3 T/l, trẻ có số lượng hồng cầu ít nhất là 3,32 T/l, số lượng hồng cầu lớn nhất là 5,59 T/l, hemoglobin trung bình là 149 g/l, hematocrit trung bình là 0,44 l/l. Trong đó ở nhóm trẻ cắt rốn muộn có 158 trẻ, gồm 86 trẻ nam và 72 trẻ nữ, số lượng hồng cầu trung bình là 4,9 T/l, hemoglobin trung bình là 172 g/l, hematocrit trung bình là 0,51 l/l. Từ Hình 1 cho thấy, tại ngày thứ 3 sau đẻ, số lượng hồng cầu trung bình của nhóm cắt rốn muộn cao hơn hẳn nhóm cắt rốn ngay, sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p= 0,003. Tương đồng với số lượng hồng cầu, lượng huyết sắc tố trung bình ở nhóm trẻ cắt rốn muộn cũng cao hơn hẳn nhóm trẻ cắt rốn ngay, sự khác biệt với p = 0,01 (Hình 2). Kết quả từ Hình 3 cho thấy lượng hematocrit trung bình ở nhóm cắt rốn muộn cũng cao hơn ở nhóm cắt rốn ngay, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,07). Từ các kết quả vừa phân tích trên cho thấy lợi ích đáng kể của cắt rốn muộn; kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu khác đã công bố trên thế giới[4][6][7][8]. Khi mạch rốn chưa ngừng đập, một lượng máu đáng kể từ bánh rau được vận chuyển sang trẻ, làm giảm tỉ lệ thiếu máu ở trẻ sơ sinh và có thể cung cấp một lượng sắt đáng kể cho trẻ ở những tháng đầu đời. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi mà tỉ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai và trẻ nhỏ còn cao[1][2]. Theo hướng dẫn xử trí tích cực giai đoạn 3 của WHO năm 2014 thì ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc kẹp dây muộn có lợi và có thể cải thiện chất sắt của trẻ sơ sinh cho đến 6 tháng sau khi sinh. Trong vài phút đầu tiên sau khi sinh, vẫn còn lưu thông từ nhau thai cho trẻ sơ sinh. Chờ đợi để kẹp dây rốn trong 2-3 phút, hoặc cho đến khi xung dây dừng lại, cho phép một sự chuyển giao sinh lý của máu nhau thai cho trẻ sơ sinh (quá trình được gọi là "truyền máu nhau thai"), phần lớn
trong số đó xảy ra trong vòng 3 phút. Sự truyền máu nhau thai này cung cấp đủ lượng sắt dự trữ cho 6-8 tháng đầu đời, ngăn ngừa hoặc trì hoãn sự phát triển thiếu sắt cho đến khi khác can thiệp - chẳng hạn như việc sử dụng thực phẩm có tăng cường chất sắt - có thể được thực hiện[4][5][6][7].
Về tỉ lệ thiếu máu và đa hồng cầu, từ Bảng 2 cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ thiếu máu giữa nhóm cắt rốn muộn và nhóm cắt rốn ngay (p= 0,2). Trong 158 trẻ cắt rốn ngay, chúng tôi chỉ ghi nhận 2 trường hợp đa hồng cầu, nhưng không cần can thiệp thay máu, vài trẻ bị vàng da phải chiếu đèn.
Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp với một số tác giả khác; nhìn chung, cắt rốn muộn không để lại biến chứng gì nghiêm trọng[7][8].
V. KẾT LUẬN
Số lượng hồng cầu trung bình ở nhóm trẻ cắt rốn muộn cao hơn hẳn nhóm cắt rốn ngay, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,003. Lượng huyết sắc tố ở nhóm trẻ cắt rốn muộn cao hơn hẳn nhóm cắt rốn ngay, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,01.
Lượng hematocrit ở nhóm trẻ cắt rốn muộn cao hơn nhóm cắt rốn ngay nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p=0,07.
Không có sự khác biệt về tỉ lệ thiếu máu và đa hồng cầu giữa nhóm cắt rốn muộn và cắt rốn ngay.
Lời cám ơn
Chúng tôi trân thành cám ơn Ban giám đốc Bệnh viện Quốc tế Green Hải Phòng và các bà mẹ của các trẻ đã đồng ý tham gia nghiên cứu. Chúng tôi cam kết không có xung đột lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Y Tế - Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em (2016). Hướng dẫn chuyên môn chăm sóc chăm sóc thiết yếu bà mẹ, trẻ sơ sinh trong và ngay sau mổ lấy thai.
[2] Hội Nhi khoa Việt Nam, Hội sản phụ khoa Việt Nam (2017). Khuyến nghị dinh dưỡng 1000 ngày đầu đời
[3] Andersson O, Hellström-Westas L, Andersson D, Domellöf M. Effect of delayed versus early umbilical cord clamping on neonatal outcomes and iron status at 4 months: a randomised controlled trial. BMJ.
2011;343:d7157.
[4] Chopra A, Thakur A, Garg P, Kler N, Gujral K. Early versus delayed cord clamping in small for gestational age infants and iron stores at 3 months of age - a randomized controlled trial. BMC Pediatr.
2018;18.
[5] Fogarty M, Osborn DA, Askie L, et al.
Delayed vs early umbilical cord clamping for preterm infants: a systematic review and meta-analysis. Am J Obstet Gynecol.
2018;218(1):1-18.
[6] Garabedian C, Rakza T, Drumez E, et al.
Benefits of Delayed Cord Clamping in Red Blood Cell Alloimmunization. Pediatrics.
2016;137(3):e20153236.
[7] Kc A, Rana N, Målqvist M, Jarawka Ranneberg L, Subedi K, Andersson O.
Effects of Delayed Umbilical Cord Clamping vs Early Clamping on Anemia in Infants at 8 and 12 Months: A Randomized Clinical Trial.
JAMA Pediatr. 2017;171(3):264-270.
[8] McDonald SJ, Middleton P, Dowswell T, Morris PS. Effect of timing of umbilical cord clamping of term infants on maternal and neonatal outcomes. Cochrane Database Syst Rev. 2013;2013(7).