• Tidak ada hasil yang ditemukan

ĐỘXG Li e CEA ('HE XGHỈA X \ HOI Ơ MET XAM - LV'QCAX

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "ĐỘXG Li e CEA ('HE XGHỈA X \ HOI Ơ MET XAM - LV'QCAX"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

ĐỘXG Li e CEA ('HE XGHỈA X \ HOI Ơ MET XAM - LV'QCAX DIEM o'A HO CHỈ MIXH ĐỀN MLẠX THỦ'C

CỦA BẮNG TRONG THỜI KỲ DOI MỞỈ

'■Xx ị V ! R \X nụ MLXH it \ ’•.?

Tóm tăt: 'Độc lập dân tộc gẳnliền với chủ nghĩa xăhội"là nội dung xuyên suốt trong tư tưởngHồ Chí Minh và là mục tiêu “bất biến” của dân tộc Việt Nam. Đung nhưHồ ChíMinh đã nói, sau khi có mục tiêuđủng đắn cắn “phải biết cách làm thìlàmmơichóng ”>!>. Vì thế, xácđịnh chính xác và tìm ra cách thức gia tăng hệ độnglực cùachủnghĩa xă hạilà yêu cầu câp bách hiện nay. Trong bài viết này, tác giả đi sâuphân tích quan điểmcủa Hồ ChỉMinh và Đảng Cộng sản Việt Namtrongthời kỳ’đối mớìvềhệ thắng động lực của chủ nghĩa xã hội để làmrô nhiệm vụcăn cốt ở nướctahiện nay.

Từ khóa: chù nghĩaxãhội; động lực; ĐảngCộngsản Việt Nam; Hồ Chí Minh

K

ế thừa phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh nhất quán khẳng định: “Độc lập

dân tộc gắn liền với chù nghía xẫ hội” vừa là con đường cứu nước, vừa là phương hướng

dựngnướccủa nhân dân Việt Nam. Đểphương hướng, mục tiêuđó trởthành hiện thực, Đảng cầm quyềnphải có nhận thức đúngđắn về chủ nghĩaxã hội và con đường xâydựngchù nghĩa xãhộiở Việt Nam, trong đó,lý luận vềhệ động

n Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

lực của chù nghĩa xã hội là nội dung rất quan trọng. Giai đoạn 1960 - 1969, công cuộc xây dựng chù nghĩa xã hội ở miền Bẳc mới diền ra được 9 năm, trên cơ sờ kế thừa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm bắt thực tiễn đất nướcvà sựmầncảm chínhtrị, HồChíMinhđã có nhữngchỉ dẫn hết sức sâu sắc về động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện nay, công cuộc đôi mới của đất nước đang đi vào chiêu sâu đòi hỏi Đảng phải tiếp tục vận dụng và pháttriên sáng tạo hơn nừa nhưng chỉ dần mang tính kim chỉ namcủa Người. Do đó, cần phảixem xétvấn đề động lựccùachù nghĩa xã hội trong quan điểm của Hồ Chí Minh, cũng

Khoa học chính trị - số 8/2020

(2)

như trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, để trên cơ sở đó, mọi tiềm lực của đât nước được pháthuy.

1. Quan điểm của HồChíMinh vềđộnglực của chủ nghĩaxãhội ở Việt Nam

Để nhận diện chính xác hệ thông động lực của chủ nghĩa xãhội, trước hết phải luận giải cáckhái niệm có liên quan.“Độnglực” là khái niệm được sửdụng trong nhiềuhoàncànhkhác nhau. Neu trong kỹ thuật, “động lực” là năng lực làm chomáy móc chuyển độngthì trong xã hội, “động lực” làcácnhân tố thúc đấy sựphát triến củaconngười và xãhội theo chiềuhướng tíchcực. Vì thế, độnglực ởđây làđộng lực xã hội, gắn với con người và đặc tính của xã hội đó. Nỏi đến “động lực của chủ nghĩa xã hội” là nói đến các nhân tổ thúc đây côngcuộc xây dựng chủ nghĩa xãhội nhằm đạt tới mục tiêu thiết lậpthành công trên thực tể chế độ xã hội chủ nghĩa theo những nguyên lý, quy luật mà chủ nghĩa xã hội khoa học đã đề ra. Hệđộng lực trong quanđiểm của Hồ Chí Minh hêt sức phongphú. Nó baogồm cả độnglực vật chất và tinh thần,động lực nội sinh và ngoại sinh. Tiêu biểu hơn hết là các động lực sau đây:

Với quan điểm “vôluận việc gì, đều docon người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gân đên xa, đềuthếcả”1-’,HồChí Minh khẳngđịnh động lực quan trọng nhất của chú nghĩa xã hội chính là conngười xét trên cảhai bìnhdiện làcá nhânvà cộngđồng.

Nóivềconngười cánhân thì không phải con người nàocũng là động lực; muốn con người trở thành động lực thì phải “kích hoạt” tính tíchcực, sức sáng tạo,tính tựgiác cùa họ bằng một loạt các giải pháp phù hợp. Là nhà duy vật mác - xít,HồChíMinh cho rằng,nhất thiết phải tác động vào nhu cầu và ỉợi ích, trước hêt là nhucầuvà lợi ích vật chất chính đáng của họ.

Đểgiải quyểthài hòa mối quan hệgiữalợi ích cá nhânvà lợi íchxã hội, HồChí Minh chủ trương thực hiện chính sách khoán, thưởng, phạt một cách công bằng. Trongbài Nói chuyện vớicán bộ, công nhân nhà máy dệt Nam Định (tháng 4/1957), Người nói: “Chế độ làm khoán là một

-i.'CiC. Tưĩựựii^ ỈỈT Chì Moih

điều kiện cùachù nghĩaxã hội, nó khuyếnkhích người công nhânluôn luôn tiến bộ,chonhàmáy tiếnbộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng.

Công nhân sản xuấtra nhiều vải, cốgăngnhiêu, hưởng được nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chê độta,,(3).

Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không coi “đòn bẩy” kình tế là “chia khóa vạn năng”, bởi cách mạng nhiều lúcđòi hôi sựhysinh mà không giả trịvật chất nào có thểbù đắp. Vì the, bên cạnh độnglực lợi ích, cần pháthuycả động lực chính trị, tinh thần mà trước hết là quyền làm chủ và ý thứclàm chủ cua người lao động. Hồ Chí Minh khẳngđịnh dân chủmang lại sáng kiến, sự hăng hái, đoàn kết và “thực hành dân chủ cũng là chiếc chìa khỏa vạnnăng giải quyết mọi khó khăn”, cho nên,dân chủ ỉà mộtđộnglực to lớn cùa chù nghĩa xàhội. Bên cạnh đó,cần phảisử dụngvai trò điềuchỉnhcủacác yếu tố tinh thần khácnhư lý tườngchính trị, văn hóa, đạo đức, sự hiểu biết về pháp luật,... Như vậy, trongtư tưởngHồChí Minh, để pháthuy động lực con người thì cần sử dụngcả động lực vật chất lẫn động lực tinh thần vốnrất phong phú.

Cùng với con người cá nhân, con người cộng đồng với sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc,đoàn kết, sáng tạo của nhân dàn Việt Nam chính là một động lực vô cùng quan trọng. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủnghĩa dân tộc làđộng lực lớn cúa đấtnước... Người tasẽ không thể làm gì chongười An Nam nếu không dựatrên cái động lực vĩđại và duy nhất của đời sổng xã hội của họ”,4). Sau này, đểvượt qua muônvàn khó khăn của sự nghiệp “kháng chiến, kiến quốc” gian khổ, Hồ Chí Minh đã phát động phong trào Thỉ đua ái quốc trong quảng đại quần chúng nhân dân. Bằng cách này, Người đã biển cái “quốc sự” thành cái “dân sự”, biên lòng yêu nước mang tính trừu tượng thành công việc thường nhật để ai cũng có thể tham gia. Dựa vào động lực vĩ đại nhất của văn hóa ViệtNam là tinh thần yêu nước, Hồ Chí Minh đãđưacáchmạng Việt Nam đi từthẳnglợi này đến thanglợikhác.

Knoa hoc chính tri - So 8/2020

(3)

• Chit lìCìht Mile - Lenin. Tn’ in'ifiie ỉ T’< Chí Mình Mặt khác, dođộng lực luôn tôntạidướidạng tiềm năng nênlựclượng lãnh đạophải biết khai thác nó một cách chủ động, khoa học. Vì thế, Hồ Chí Minh rất đề cao độnglựcchính trị,bao gồmvai trò lãnhđạocủaĐảng, vaitrò quản lý cũa Nhànước vàvai trò tập hợplực lượng của Mặt trận Dân tộc thongnhất, trong đó, sựlãnh đạocủa Đảng là động lực “hạtnhân” trong toàn bộ hệđộng lựccủa chủ nghĩa xã hội.

Do mọi hoạt động của xã hội đều dựa trên nền tảng kinh tế nênHồ Chí Minh cũng rất chú trọng việc phát huy động lực kinh tế. Người cho rằng,muốn có tiềm lực kinhtế, đưa kinhtế trở thành động lực thì phải đẩy mạnh tănggia sản xuất, kinh doanh và ra sức thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.

Là một nhà hoạt động quốc tế đầy trải nghiệm, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao động lực quốctế với sức mạnhcủa sựđoàn kết - hợp tác quốc tế và thành tựu khoa học - kỳ thuật tiên tiến. Khi bàn về mối quanhệgiữa độnglực bên trong và động lực bên ngoài, HồChí Minh khangđịnh, nội lực đóng vaitrò quyết định và cầnpháthuy động lựcbên ngoài làđế nâng cao sức mạnh của độnglực bêntrong.

Trong tư duy Hồ Chí Minh, “xây” và

“chống” luôn đi liền với nhau nên việc “khai thông” các động lực phảitiếnhànhđồng thời với việc đẩy lùi các lực” cùachù nghĩa xă hội, như sựchống phácủa lực lượngđế quốc - thực dân, phong kiến, các thỏi quen, truyền thống lạc hậu và chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức. Trong các trở lực nói trên thì chù nghĩa cả nhân - thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” là nguy hiểm nhất. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng: “Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranhtrừ bỏchủ nghĩa cánhân”(5>.

Mặc dù khi Hồ Chí Minh còn sống, chủ nghĩa xã hội ở miền Bẳc chỉ là “chu nghía xã hội thời chiến”, với sự biến dạng của không ít quy luật kình tế nhưng với trí tuệ kiệt xuất, Hồ Chí Minh đã xác định được hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội ở ViệtNam vàtừng bước khai thác nó. Bằng việc đề cao các động

lực văn hóa - tinh thần, Hồ Chí Minh đã làm giàucho lý luận cuachủ nghĩa Mác - Lênin về hệđộng lực phát triểncùachủ nghĩa xàhội. Sự trungthành một cách sáng tạo của Hồ Chí Minh đốivới nềntảngtư tưởng của mìnhđã trởthành nguyên tắc “sốngcòn”để ĐảngCộng sảnViệt Namtiêp tục vận dụngvà pháttriên chù nghĩa Mác - Lênin và tư tườngHồ Chí Minh ở những chặng đường kế tiếp.

2. Quan điếm của Đảng Cộngsản Việt Nam trong thòi kỳ đối mới về động lực của chủ nghĩa xãhộiỏ'ViệtNam

Thời kỳ đôi mới chứng kiếnmộtbước ngoặt lớn trong nhận thức cũng như trong chi đạo thực tiễn của Đáng đối vớicôngcuộc xâydựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Neuvào đầu thế kỷ XX, chính sách kinhtếmới (NEP) thực sự là một động lực tổng quát của chủ nghĩa xã hội ớ nước Nga Xô viết, thì ở Việt Nam, đồi mớicũnglà một động lực tổng quát, hàm chứa trong đó một hệ thống các động lực đã được nhận thức và “kích hoạt”đúng hướng. Mặcdù đến Đại hội lẩn thứ IX (năm 2001), Đảng ta mớikhẳng định ‘‘‘'động lực chủ yếu đểphát triển đất nước là đại đoàn kết toàndân trên cơ sở liên minh giừa công nhân với nôngdân và trí thức do Đảnglãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể vàxãhội,phát huymọi tiềm năng và nguồn lựccúa các thành phần kinh tế, cùa toànxã hội”(6), nhưng trong thực tế, sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986), nhiều động lực củachù nghĩaxã hội đãđược khai thác trên thực tế.

Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thông qua đường lối đôi mới toàn diện nhưng bắt đầu băngđôi mới kinh tế vàlấy đôi mớikinh tế làm trọng tâm. Điều nàyhoàn toàn hợp lý vì sự bất cập đầu tiên trong mô hình xâydựngchù nghĩa xã hội thờikỳ trước đổi mớì chính là bất cậpvề hoạt động kinh tế - sản xuất và khủng hoàng ở nước ta khiđó cũng bắt đầu từ khủnghoảng kinhtế. Lúc này, cần phải đổi mới tưduy kinh tế,cơ chế quản lý kinh tế, chínhsáchkinh tế, thể chế kinh tế,... để trên cơ sở đó,cáclình vực khác củađời sống đất nước chuyển động theo.

Khoa học chính trị - số 8/2020

(4)

Mặc dù chưagọi thành tên là “động lực kinh tế” nhưng toàn bộđường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhànước từ sau Đại hội lần thứ VI củaĐảng đãthể hiện rõmục tiêu

“làm cho sản xuấtbung ra” và lợiích, đặc biệt là lợi ích kinhtế chính là “ngòi nổ”.

Với quan diêm đó, trong quàn lý kinh te, Đảng đà chỉ đạo ban hành cơ chế khoán sản phâm trong công nghiệp, khoán hộ gia đình trong nông nghiệp nhăm gia tăng tính tích cực cùa người lao động và gắn kết lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Việc phân chia lợi ích theo kếtquả lao động, hiệu quả kinh tế và mức độ đóng góp vào sảnxuất đãlàm người dân tích cực hơn, sáng tạo hơn, đầu tư nhiều hơn cho quá trình sàn xuất. Đặc biệt, việc thừa nhận về mặtchínhtrị - pháp lý sựtồntạicùa nhiềuthành phần kinhtế,nhiều hìnhthức sở hửu,quyền sờ hừu tưnhânvà quyền thừakể tài sản... đà thôi thúc người dân hăng hái làm giàu.Việc Đạihội lần thứ IX cùa Đàng (năm2001)xácđịnhmô hìnhkinh tế tổng quátcủa Việt Namtrong thời kỳ quáđộ là “nền kinh tể thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(7) không chỉ là bước đột phá lớn về lý luận của Đảng mà việc triển khai nó trên thực tế đằlàmnền kinh tể Việt Nam nhanh chóng “chuyển mình”. Nhờ đó, đất nước đã thoátkhỏi cuộc khùng hoảng kinh tế - xà hội và tìnhtrạng nướcnghèo.

Thâu hiểu truyền thống và sức mạnh của đoàn kểt, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đại đoàn kêt toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nông và đội ngũ trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là động lực quan trọng cho sự phát triền của chù nghĩa xã hội. Cương lình năm Ỉ99Ỉ do Đại hội lầnthử VỉỉcùaĐảng thông qua đà coi “không ngừng cùng cổ, tăng cường đoàn kết” là một bài học lớn và “thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc” là một trong bảy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xâ hội ở ViệtNam. Đại hội lần thứ IXcủa Đảng(năm 2001) chỉ rõ: “Aạy dựng khối đại đoàn kết toàndân là trách nhiệm của cảhệ thống chínhtrị vàtoàn xăhội”<8>. Vănkiện Đại hội lần thứ IX nhấn mạnh: Trong thời kỳ quá

độ, mối quan hệ giữacác giai cấp, tầng lớp xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân đê hướng tới mục tiêu chung là “thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xãhội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triền, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bât công, đấu tranhngãn chặn và khắc phục những tư tường và hành động tiêucực, sai trái; đâu tranh làm thất bại mọiâm mưu và hành động chống phá cùa các lực lượng thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước tathành một nước xãhội chủnghĩa phồnvinh, nhândânhạnh phúc”t9>.

Nhậnthức mới nàyđã tạo ramột bầukhông khí xã hội cởi mở, tin cậy lần nhau và mâu thuẫn không còn là trở lực của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đến Đạihội lần thứ X (năm 2006), Đảngđã thaythế cụmtừ“đại đoàn kết toàn dân”băngcụm từ"đại đoàn kết toàn dân tộc”(Xữ\ với hàm ý mởrộng chiến lược đại đoàn kếttrên quymô toàn dân tộc và trong mọi mối quan hệ (quan hệ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân với Đảng, Nhà nước...).

Đặc biệt, Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng (năm 2016) khẳngđịnh rỏ đại đoàn kết toàn dân tộc là “động lực và nguồn lựcto lởn trongxây dựng vàbảovệTổquốc”'1". Để tăng cườngkhối đại đoàn kết toàn dân tộc, các đại hội gân đây của Đảng đều nhấn mạnh tầm quan trọng của sựđổng thuận xã hộiịV-\ Đổng thuận xã hội là chapnhận sự khác biệt, nhưng đòi hỏi phải giải quyếtnhững bất đồng bằng phương pháp thương lượng và khônglàmtổn hại đen lợi ích tối cao của toàn dân tộc. Mặt khác, cần phàị có giải pháp “ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâuthuẫncỏ thê dần đến xung đột xà hội”’l3). Đồngthuậnxãhội là một biểu hiện quan trọng của tính dân chủ, là một giá trị cùa văn minh chính trị hiện đại. Chủ trương này của Đảng là “sự trờ về” với tinh thần khoan dung văn hóa của Hồ Chí Minh.

Do dân chủ là bản chấtcủachế độ ta và nó có sứcmạnh “vạn năng” nên trong thời kỳ đổi

(5)

• ( //:i /í Mac i ‘ c /:'■ : :■ . . c. : ■.

mới, động lực dânchủ đãtừngbướcđượcphát huy. Nóiđếndânchủ là nói đến quyền làmchủ của Nhândân đượcthểhiện trong mọilĩnh vực vàđượcthựcthi trong mọi cấp độ của đời sống đất nước. Đại hội lần thứ VI của Đàng đã tạo ra bước ngoặt trong tiến trìnhdânchù hóa mọi lĩnh vực cùa đời sống đất nước,đặc biệt là dân chùhóa trong kinh tế sau khi Đảng chính thức thừa nhận nền kinhtếnhiềuthành phần ởViệt Nam.Tại Đạihội lần thứ IX (năm 2001),Đảng đã xác định “dân chủ” là một mục tiêu trong hệ mục tiêu chung của cách mạngnước talà:

“Độc lậpdân tộc gan liềnvới chủnghĩaxăhội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,vănminh”G4).

ĐenĐạihội lần thứXI, nhậnthứccủaĐảng về dân chủlạicóbước tiếnmớikhi Đảngdành chodânchủ vị tri mớitrong hệ giá trị mục tiêu:

“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(15). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thờikỳ quả độ lên chủ nghía xãhội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Dânchù xã hội chủ nghĩa là bản chấtcủachếđộta, vừa là mục tiêu, vừalàđộng lực của sự phát trỉến đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nềndânchùxà hộichủnghĩa,bảođảmdân chù được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.Dân chủ gắn liền vớikỷluật, kỷcươngvàphảiđược thểchếhóa bằngpháp luật, đượcpháp luật bảođàm”(16).

Tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, lần đầu tiên “phát huydân chủxãhội chủ nghĩa ’’ đã là một thành tốcủa chủđề Đại hộivàtiêu đề của Sáo cáo chỉnh trị. Mộtphươngthứcchủđạođể phát huy dânchủ ở Việt Nam chínhlàxâydựng Nhànướcphápquyền xãhộichủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩaxãhội(bổ sung, phát triền năm 2011) đă khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủnghĩa Việt Nam” là một đặctrưng và cũng là mộtphương hướngcơ bản đểxây dựngchủnghĩaxãhội ở nước ta. Không dừnglại ởchủtrương, đường lối, trong đời sống đất nướcđã xuấthiện nhữngcách làm mới,thể hiện rõ không khí dân chủ, tinh thầndân chủ,

Khoa hoc chính tri So s 2020

như việccôngkhai cáccuộchọp,các buổi chất vấn trong Quốc hội, lấy phiếutín nhiệm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, ban hành Pháp lệnh Dân chủ cơ sơ, ban hành quy chế tự ứng cừ, tăng cường vai trò cùa báochí trongviệcphản ánh dư luận xã hội vàchống tiêu cực, trước hết là tiêu cựctrong bộmáycông quyền...

Trongthờikỳ đoi mới, Đảng khẳng định văn hóa, khoa học, công nghệ vàgiảo dục là động lực quan trọng để xâydựng chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đều khẳng định:

Văn hỏa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lựcphát triên đất nước, vì văn hóa không chỉ tạora nhân cách con người,mà vãn hóa hiện còn là một lĩnh vực kinh tế đầy triền vọng - công nghiệp văn hóa. Trong thời đại kinh tế tri thức, giáo dục - đào tạo vàkhoa học - công nghệ, các lình vực then chổt của văn hỏa chỉnh là “động lực phụ trợ”để nâng caochất lượng củađộng lực quan trọng nhất là

“động lực con người”. Do đó, đầu tư cho giáo dục,khoahọc -côngnghệlà mộtgiải phápđột phá cho sựpháttriểnbềnvừng của đất nước.

Nhờ đoi mới tưduy ngoại giao,Đảng đãcoi chủ động vàtíchcực hội nhập quốc tế sáu rộng là một động lực quan trọng của chủ nghía xã hội. Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng đẫ thể hiện mong muốn làm bạn, hợp tác song phương và đa phương với tất cả các nước trên thể giới.Để tạodựng hành lang pháplý choviệc thu hút đầu tư trực tiếp của các nước vào Việt Nam, tháng

12/1987, Luật Đầu tưnước ngoải tại ViệtNam đã được banhành. Bước sangthế kỷmới, trước xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) cho rằng,việchộinhập kinhtế the giới, tham gia vào phâncônglao động quốctếphải đi đôivới việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đen Đại hội lần thứX của Đảng (năm 2006), Đảngyêu cầu chủ độngvà tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theolộ trình, phùhọp với chiến lược pháttriển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìnđển năm 2020(17ì.

Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011),

(6)

Đảng đã đưa đườnglối hội nhập quốctế lên một tầm cao mới khi tuyên bố chủ trương chủđộng hội nhập quốctế, tức là hội nhập một cách toàn diệntừ kinh tế đến chínhtrị, vănhóa, giáodục, an ninh, quốc phòng,... chứ không đơn thuần là hội nhập kinh tế. Tổng kết thành tựu của 30 năm đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại, Đại hội lần thứ XII của Đảng chù trương:“nâng cao hiệuquả hội nhập kinh tếquốc tế, thựchiện đầy đủcác cam kết quôc tê,... ký kết và thực hiện hiệu quả cáchiệp địnhthương mại tự dothếhệ mới trong một kế hoạch tống thể với lộ trình hợplý, phù hợp với lợiích đất nước”(18). Được dẫn dắtbởicác chủ trương đúngđắnđó, ngoại lực đã từng bước chuyển thành nội lực. Nhờ đó, tiềm lực mọi mặt và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càngđược củng cổ;

ngược lại, chính việc hộinhập ngày càng sâu rộng lại đòi hôi Việt Nam phải đổi mới toàn diện hơn, pháthuy nội lực nhiều hơn nừa.

Những động lực quan trọng nêu trên, suy chocùng, đều hướng tới vàphải hiện thựchóa qua động lực trung tâm làđộng lựccon người.

Do con người là trung tâm của chiến lược phát triên và là chủ nhấn của xã hội nên con người thực sự là nguôn lực của mọi nguồnlực, là tài nguyên của mọi tài nguyên. Đại hội lần thứ Xỉ cùa Đảng đã khẳngđịnh chủ trương “phát huy tối đa nhân tố con người,coi con người làchủ the, nguồn lực chủ yểu và là mục tiêu của sự phát triển”(l9). Để đạt mục tiêu xây dựng, phát triển con người toàn diện thì cần nhiều biện pháp nhưng Đảng nhấn mạnhvaitrò to lớn của giáo dụcvà đào tạo và sự cần thiết phải khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam do tácđộng tiêu cực củakinhtế tiểu nông, kinh tế thị trường sơ khai trên đất nước ta.

Kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh cho rằng, “nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡđồng chí và đồng bào. Vì thếmà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân”(20i, Đàng đã thườngxuyên nhận diện trởlực cùachủ nghía xà hội ở Việt Nam hiện nay. Đảngxácđịnh rõ, điều nguy hiếm nhất không phải là “diễn biến

hòa bình”, tức sự chống phá của lực lượng thù địch mà là “tựdiễnbiến”, tức sự suythoái trong nội bộ Đảng, vấn đề gây búc xúc nhất trong dư luận xã hội hiện nay chính là nạn tham nhũng và lợi ỉch nhỏm. Vì thế, nếu xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt thì chốngthamnhũng hiện là nhiệm vụ “then chốtcủa then chốt”.

Trong gần 35 năm đoi mới, xuất phát từ quan điểm củachủ nghĩa Mác -Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn sống động của đất nước, Đảng Cộng sảnViệtNamđãcụthê hóa lý luận về hệ độnglựcpháttriểncúachủ nghĩa xãhộicho phùhọp với hoàncảnh thực tể. Cùng với tiến trình đối mớiđất nước, nhận thức của Đảngvề vấn đề này đã ngày càng sâu sẳchơn vàviệc hiện thực hóa nó cũng ngày càng hiệu quả hơn. Đó chính là một trong nhữngnguyên nhândẫnđến thắng lợi tolớn củasự nghiệpđổi mới ởViệt Nam.

Mặt khác, quá trình phát huy hệ động lực của chủ nghĩa xã hội ởViệt Nam cũng chính là quá trình đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để đangdiễn ra mạnh mẽ trên đất nước ta. Do đó, đôi mớichính là động lực baotrùm, xuyên suốt, chứa đựng vàchi phốicác động lực đang vậnhànhtrên thực tế.Yêucầu vànhiệmvụ đặt ra lúc này là không ngừng đổi mới, là tiếp tục đưa sự nghiệp đôi mới đì vào chiều sâu trên cơ sở phát huy caođộ nguồn lực con người và hội nhập quốc tế. Câuhỏi mang tỉnh thời sự

“Đối mới hay tụt hậu” đã nói lên vai trò của đổi mớivới tư cách là độnglực của mọi động lực. Khi đôi mới là “dòng chảy” liên tục thì lực lượng lãnh đạo phải tìm cách tăng cường cácđộng lực đãcỏvà khơi nguồncácđộng lực mới. Tiếptục pháthuy động lực kinh tế, hoàn thiệnthể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếptụcgia tăng sức mạnh cùa hệ thống chính trị, tăng cường dân chủ, tiếp tục phát huy động lực văn hóa, con người và đẩy lùi các “trở lực”... vẫn là những phương hướng và nhiệm vụ cơ bản, nhưng biệnpháp

“kích hoạt” chúng phải linh hoạt và đổi mới không ngừng. Bên cạnh đó,phẳi nhận diện rõ

(7)

Anh: Sưu lầm

cáctrở lực đang“trá hình” dướicái“vỏ” động lực, như dân chủ hình thức, dân chú vô chính phủ, công bàng kiếu cào bàng,...

Mục tiêu tông quát và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam chính là “dân giàu, nước mạnh, dânchủ, công bằng, vănminh” và mục tiêu đó chì có thê đạt được khi hệ thống động lực cúa chú nghĩa xà được phát huy đầy đủ, mạnh mẽ. Khi giữa các động lực trong hệ thống động lực và giữa động lựcvà trở lực có mổi quan hệ nhiềuchiều, không ngùngchuyển độngvà tương tác lẫnnhau,việcpháthuyđộng lực phãi được tiến hành một cách khoa học trêntinh thần biện chứng, phái tuân thúđầy đu tính hệ thống và tính lịch sừ - cụ thể đế tìm racác giãi pháp đúng đắn, phù hợp. Đặc biệt, Đảng phái tạo ra môi trường, điều kiện đê các

“vectơ” động lựccó thếvận động“cùngchiều” nhằm tạo ra hợp lực to lởncho sựpháttriển của đất nước. Do đó,triếtlý“đổimới đểphát triển” phải không ngừng được bô sung và thực hiện đê Việt Nam có thê “sánh vai với các cường quốc năm châu” như ưởc nguyện của Chu tịch Hồ Chí MinhJ

(ii Hồ Chí Minh. Toàn tập. t.2. Nxb Chính trị quốc gia.

Hà Nội. 2011.tr. 282

e^à.,201 Ị_JÔ Chí Minh. Toàn tập. t.5. Sđd. tr.281 và 291 '5l Hồ Chí Minh. Toàn tập. t.10, Sđd. tr.537- 538 141 Hồ Chí Minh. Toàn tập. t.l, Sđd, tr. 511 - 513 '5l Hồ Chỉ Minh. Toàn tập. t.l 1, Sđd, tr.609

(8u<maii4) £)ang Cộng san Việt Nam. Văn kiện Dại hội đại biêu toàn (Ịìiôe lân thứ IX. Nxb Chính trị quôc gia, Hà Nội. 2001. tr.86, 86. 123. 86. 85-86

(lữiváỊi?) Đàng Cộng sản Việt Nam, Vãn kiện Dụi hội đại biêu toàn CỊUỎC lãn thứX, Nxb Chính trị quôc gia.

Hà Nội. 2006, tr.116 và 114

!ỉl:'-"--’vai lM £)àng Cộng sàn Việt Nam, Ván kiện Đại hội đại biêu toàn CỊUỎC lân thứ XII. Nxb Chinh trị quôc gia.

Hà Nội. 2016. tr.158. 135 và 155

,i:' Đáng Cộng sán Việt Nam. Ván kiện Đại hội Đàng thời kỳ đói mới, Phần ỉ ỉ (Đại hội X, XI. Xỉ ĩ). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019, tr. 159

(15),(I6ÌVÙ(19) £)àng Cộng sản Việt Nam, Vãn kiện Đại hội đại biêu toàn ÍỊUÔC lần thứ XI, Nxb Chính trị quôc gia.

Hà Nội. 2011. tr.7O. 84-85 và 100

Khoa học chính trị - số 8/2020

Referensi

Dokumen terkait