ẢNH HƯỞNG CỦA LOẠI HOM, MÙA VỤ VÀ MỘT SỐ CHẤT KÍCH THÍCH TẠO RỄ THƯƠNG MẠI TỚI
QUÁ TRÌNH RA RỄ CỦA HOM HOẮC HƯƠNG
Phùng ThịLan Hương1, , Nguyễn Phương Quý1, Vũ Xuân Dương2, Nguyễn Thị Thu Thảo1 Tóm tắt: Cây Hoắc hương (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.) là cây lấy tinh dầu quan trọng rất cần cho công nghiệp nước hoa cũng như có giá trị dược liệu. Nghiên cứu này có mục đích khảo sát ảnh hưởng của một số yếu tố như loại hom cành, mùa vụ và một số chất kích thích rễ thương mại đối với sự ra rễ của hom Hoắc hương. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự ra rễ đạt hiệu quả cao nhất ở hom Hoắc hương non, trong cả hai mùa đông và mùa xuân, khi so sánh với ở cành bánh tẻ và cành già. Các chất kích rễ thương mại có hiệu ứng không giống nhau tới sự ra rễ (tỷ lệ ra rễ, số lượng rễ, chiều dài rễ) ở các loại hom khác nhau. Tỉ lệ ra rễ đạt 100% ở tất cả các công thức thí nghiệm có cành hom non. King root và Rooting power có hiệu ứng kích thích tạo số rễ và sinh trưởng chiều dài rễ lớn hon so với N3M và Rootone. Số lượng rễ/hom cao nhất thu được khi xử lí King root hoặc Rooting power trên cành non (27,2 và 28,8 rễ/hom) và cành bánh tẻ (27,0 và 25,6 rễ/hom). Trong khi đó, chiều dài rễ lớn nhất quan sát được khi xử lí King rooting trên cành non (50,8 mm). Nghiên cứu này gợi ý có thể sử dụng hom non để nhân giống cây Hoắc hương.
Mùa vụ thích hợp là mùa xuân và có thể sử dụng các chất kích thích rễ thương mại King root và Rooting power trong nhân giống loài cây dược liệu này.
Từ khóa: cây Hoắc hương (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.), giâm hom, mùa xuân, chất kích thích tạo rễ thương mại, sự ra rễ.
1. MỞ ĐẦU
Cây Hoắc hương có tên khoa học là (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.) còn được gọi là quảng Hoắc hương hay thổ Hoắc hương. Cây Hoắc hương có nguồn gốc từ vùng Nam Á và Đông Nam Á [4]. Hiện nay, cây Hoắc hương được trồng ở các vùng nhiệt đới như Châu Á và Châu Phi với qui mô lớn để lấy tinh dầu, bao gồm các nước như Ấn Độ, Malaysia, Trung Quốc, Singapore, Tây Phi và Việt Nam [4,6,7,9]. Tinh dầu Hoắc hương là một trong những nguyên liệu tự nhiên quan trọng nhất được sử dụng trong công nghiệp nước hoa. Bên cạnh đó, tinh dầu Hoắc hương được sử dụng trong trị liệu y học để tăng cường khoái cảm giới tính, giảm sự giận dữ, lo âu và an thần. Trong lá Hoắc hương có
1 Khoa Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ
2 Viện Nghiên cứu ứng dụng và phát triển, Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ
Tác giả liên hệ. Email: [email protected]
rất nhiều hợp chất khác nhau có khả năng kháng khuẩn, giảm đau, chống viêm, các chất chống oxy hóa, chống kết tủa tiểu cầu, kích thích tình dục, chống huyết khối, chống trầm cảm, chống nôn, tiêu sợi huyết, và gây độc tế bào [1,6,7]. Vì vậy, cây Hoắc hương cũng được dùng trong nhiều bài thuốc cổ truyền để chữa một số bệnh như ngứa, ho, tiêu chảy và các chứng hoa mắt chóng mặt [3].
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua việc nghiên cứu, trồng và sử dụng cây Hoắc hương ở nước ta còn rất hạn chế. Hiện nay, cây Hoắc hương chủ yếu được trồng ở mức độ nhỏ phân tán. Để phát triển sản xuất cây Hoắc hương, công tác giống giữ vai trò quan trọng với mục tiêu phải cung cấp đủ nguồn nguyên liệu đáp ứng cả về số lượng và chất lượng cho việc sản xuất các sản phẩm từ Hoắc hương. Do đặc tính ra hoa không đồng thời và khoảng thời gian ra hoa ngắn, tỷ lệ đậu quả ít dẫn đến hệ số nhân giống bằng hạt thấp, cây Hoắc hương thường được nhân giống bằng phương pháp tách gốc [7], tuy nhiên phương pháp này có hệ số nhân giống không cao, đòi hỏi nhiều vật liệu ban đầu. Trong khi phương pháp nhân giống bằng giâm hom có hiệu quả đối với nhiều loài cây trồng.
Nghiên cứu này có mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của loại cành hom, mùa vụ và một số chất kích thích tạo rễ thương mại đến quá trình nhân giống cây Hoắc hương bằng phương pháp giâm cành.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 2.1.1. Vật liệu nghiên cứu
Cây Hoắc hương (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.) được sưu tầm từ vùng trồng Hoắc hương thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên và được lưu giữ tại Vườn thực nghiệm khoa Khoa học Tự nhiên - Trường Đại học Hùng Vương.
Các thí nghiệm đều sử dụng đoạn cành hom với mức độ già hóa khác nhau từ các cây mẹ trên có chiều dài trung bình 10 cm, gồm 3 mắt ngủ. IAA tinh khiết được cung cấp bởi Merk (Đức). Các loại chế phẩm kích thích ra rễ thương mại được sử dụng trong nghiên cứu này gồm N3M (Cty TNHH MTV Sinh Hóa Nông Phú Lâm, Việt Nam), King root (Cty TNHH MTV Nông nghiệp AVAN, Việt Nam ), Rooting power (Bontone, Mỹ), Rootone (Complejo Industrial Bioiberica, Tây Ban Nha).
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm 1. Ảnh hưởng của loại hom và mùa vụ đến sự ra rễ
Các loại đoạn cành hom với tuổi sinh lí khác nhau (cành non, cành bánh tẻ, cành già) được cắm trong cốc thủy tinh chứa dung dịch IAA 50 ppm (ngập 0,5 cm trong dung dịch)
trong thời gian 5 phút, tráng sạch bằng nước cất trước khi cắm vào giá thể được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của tuổi cành đến khả năng ra rễ. Thí nghiệm mùa vụ gồm thời gian giâm hom vào mùa đông (tháng 12/2019) và mùa xuân (tháng 3/2020). Mỗi công thức thí nghiệm gồm ba lần lặp lại, mỗi lần lặp lại gồm 15 hom cành. Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn [5].
Thí nghiệm 2. Ảnh hưởng của một số chất kích thích thương mại đến sự ra rễ Thí nghiệm được tiến hành với N3M (20g/l), King root (2g/l), Rooting power (3g/l) và Rootone (4ml/l): cành hom được cắm trong cốc thủy tinh chứa dung dịch kích thích tạo rễ (ngập 0,5 cm trong dung dịch) trong thời gian 15 phút, tráng sạch bằng nước cất.
Giá thể là cát sạch, ẩm. Mỗi công thức thí nghiệm gồm ba lần lặp lại, mỗi lần lặp lại gồm 15 hom cành. Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn [5].
Các chỉ tiêu tỷ lệ ra rễ, số lượng rễ và chiều dài rễ được xác định sau 4 tuần nghiên cứu [5]. Trong đó, tỷ lệ ra rễ được xác định bằng sốlượng hom có rễ trên tổng số hom của công thức thí nghiệm. Sốlượng rễđược xác định bằng cách đếm. Chiều dài rễđược đo bằng thước kỹ thuật (Mitutoyo digimatic micrometer, Nhật).
Xử lý số liệu: Các số liệu được xử lí thống kê và được so sánh sự sai khác các giá trị trung bình bằng test Tukey HSD (p=0,05) với phần mềm SPSS.
2.2. Kết quả và thảo luận
2.2.1. Ảnh hưởng của loại hom và mùa vụ đến khả năng ra rễ của hom Hoắc hương 2.2.1.1. Ảnh hưởng của loại hom và mùa vụ đến tỷ lệ ra rễ của hom Hoắc hương
Hình 1: Ảnh hưởng của mùa vụ và loại hom đến tỷ lệ ra rễ (%) của hom Hoắc hương sau 4 tuần nghiên cứu. Ghi chú: các chữ cái a,b,c,d,e thể hiện các giá trị trung bình khác nhau có
ý nghĩa thống kê (thống kê hai nhân tố, test Tukey HSD, p = 0,05)
Các kết quả thu được (Hình 1) cho thấy các hom non có tỷ lệ ra rễ cao nhất ở cả mùa đông (62,22%) và mùa xuân (82,50%), tiếp đến là hom bánh tẻ (55,56% và 71,11%) và cuối cùng là hom già (42,22% và 57,78%). Đồng thời, tỷ lệ ra rễ của hom giâm ở mùa xuân cao hơn so với hom giâm ở mùa đông. Tỷ lệ ra rễ của hom non, hom bánh tẻ và hom già lần lượt đạt 61,67 %; 56,33% và 41,67% trong mùa đông. Trong khi, vào mùa xuân, tỷ lệ ra rễ ở các loại hom trên lần lượt bằng 81,57%; 72,67% và 59,67%.
2.2.1.2. Ảnh hưởng của loại hom và mùa vụ đến số lượng rễ và chiều dài rễ của hom Hoắc hương
Bảng 1: Ảnh hưởng của mùa vụ và loại hom đến số lượng rễ và chiều dài rễ của hom Hoắc hương sau 4 tuần nghiên cứu
Mùa vụ Loại hom cành Số lượng rễ/hom (M ± SD)
Chiều dài rễ (mm) (M ± SD)
Mùa đông
Hom non 18,8b ± 1,17 30,4b ± 1,02
Hom bánh tẻ 19,6b ± 0,75 27,6c ± 1,02
Hom già 15,8c ± 1,33 15,0e ± 1,67
Mùa xuân
Hom non 30,6a ± 1,17 49,2a ± 1,17
Hom bánh tẻ 29,2a ± 1,17 31,2b ± 1,17
Hom già 19,8b ± 0,98 21,8d ± 0,98
Ghi chú: M = giá trị trung bình, SD = độ lệch chuẩn, các chữ cái a,b,c,d,e thể hiện các giá trị trung bình trong cùng cột khác nhau có ý nghĩa thống kê (thống kê hai nhân tố, test Tukey HSD, p = 0,05)
Mùa vụ và loại hom ảnh hưởng đến số lượng rễ/hom và chiều dài rễ (Bảng 1). Kết quả phân tích thống kê hai nhân tố (mùa vụ x loại hom) chỉ ra rằng có sự khác biệt có ý nghĩa (p=0,05) trong ảnh hưởng của mùa vụ, loại hom và tương tác giữa mùa vụ và loại hom lên số lượng rễ/hom ở hom hoắc hương. Trong đó, số lượng rễ/hom ở cùng loại hom cành (non, bánh tẻ và già) được giâm hom trong mùa xuân cao hơn so với trong mùa đông. Cụ thể, sốlượng rễở hom non và hom bánh tẻlà tương đương nhau ở cảmùa đông
(18,8 và 19,6 rễ/hom) và mùa xuân (30,6 và 29,2 rễ/hom). Các giá trị này đều cao hơn so với ở hom già (15,8 rễ/hom ở mùa đông và 19,8 rễ/hom ở mùa xuân).
Kết quả phân tích thống kê hai nhân tố (mùa vụ x loại hom) chỉ ra rằng có sự khác biệt có ý nghĩa (p=0,05) trong ảnh hưởng của mùa vụ lên chiều dài rễ hoắc hương giâm hom theo loại hom cành. Trong đó, chiều dài rễ ở cùng loại hom cành (non, bánh tẻ và già) được giâm hom trong mùa xuân lớn hơn so với trong mùa đông. Cụ thể, chiều dài rễ ở công thức hom non cao hơn so với ở hom bánh tẻ và thấp nhất ở hom già trong cả mùa đông và mùa xuân (Bảng 1). Ở mùa đông, chiều dài rễ ở các hom non, hom bánh tẻ và hom già lần lượt đạt 30,4; 27,6 và 15,0 (mm). Các giá trị tương ứng trong mùa xuân lần lượt là 49,2; 31,2 và 21,8 (mm). Kết quả thu được trong nghiên cứu này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Bùi Văn Thanh và Ninh Khắc Bân (2013) nhân giống cây Nắm cơm bằng phương pháp giâm hom. Số lượng rễ/hom đạt tới 25,71 ở mùa xuân trong khi chỉ đạt 9,70 ở mùa đông. Tương tự, chiều dài rễ đạt tới 4,14 cm ở mùa xuân trong khi chỉ đạt 2,54 cm ở mùa đông [8].
Kết quả này có thể do hom non là có các loại mô đang trong thời kì sinh trưởng, mức độ phân hóa chưa cao bằng hai loại hom bánh tẻ và hom già. Vì vậy, có thể được phản phân hóa và phân hóa theo hướng tạo rễ thuận lợi hơn [2]. Các hom được giâm vào mùa đông gặp điều kiện khí hậu không thuận lợi (so với mùa xuân), như nhiệt độ môi trường thấp hơn nên các quá trình sống bị hạn chế. Ngược lại vào mùa xuân, các điều kiện môi trường như nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng thuận lợi hơn, các quá trình sống diễn ra mạnh, do đó, khả năng ra rễ của hom giâm cao hơn so với mùa đông [2].
2.2.2. Ảnh hưởng của chất kích rễ thương mại đến khả năng ra rễ của hom Hoắc hương 2.2.2.1. Ảnh hưởng của chất kích rễ thương mại và loại hom đến tỷ lệ ra rễ của hom Hoắc hương Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích rễ thương mại đến tỷ lệ ra rễ và số lượng rễ/hom của hom Hoắc hương sau 4 tuần nghiên cứu được trình bày trong Hình 2.
Hình 2: Ảnh hưởng của chất kích rễ thương mại và loại hom đến tỷ lệ ra rễ của hom Hoắc hương sau 4 tuần nghiên cứu. Ghi chú: các chữ cái a,b,c,d,e thể hiện các giá trị trung bình
khác nhau có ý nghĩa thống kê (thống kê hai nhân tố, test Tukey HSD, p = 0,05) Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tất cả các loại chất kích rễ thương mại đều tạo hiệu quả đối với quá trình hình thành rễ, trong đó tốt nhất ở hom non với tỷ lệ đạt 100%, kế tiếp là hom bánh tẻ và thấp nhất ở hom già. Tỷ lệ ra rễ ở hom bánh tẻ khi được xử lí với N3M, King root, Rooting power và Rootone lần lượt bằng 86,67%, 97,78%, 97,78% và 84,44%. Các giá trị tương ứng ở hom già lần lượt bằng 53,33%, 64,44%, 64,44% và 51,11%.
2.2.2.2. Ảnh hưởng của chất kích rễ thương mại đến số lượng rễ và chiều dài rễ của hom Hoắc hương
Đối với vật liệu hom non, số lượng rễ ở các công thức xử lí N3M, King root, Rooting power và Rootone lần lượt bằng 17,2; 27,2; 28,8 và 19,6 (rễ/hom). Như vậy King root và Rooting power có hiệu quả tạo số rễ ở hom non cao hơn so với N3M và Rootone. Đối với hom bánh tẻ, số lượng rễ ở các công thức xử lí N3M, King root, Rooting power và Rootone lần lượt bằng 17,4; 27,0; 25,6 và 16,8 (rễ/hom). Như vậy, tương tự đối với hom non, King root và Rooting power có hiệu quả tạo số rễ ở hom non cao hơn so với N3M và Rootone. Đối với hom già, số lượng rễ ở các công thức xử lí chất kích thích rễ thương mại lần lượt bằng 11,4; 18,4; 17,0 và 15,2 (rễ/hom). Như vậy, N3M có hiệu ứng tạo số rễ ở hom cành già thấp nhất. Hiệu ứng của các loại chất kích rễ thương mại đối với số lượng rễ của hom cành già có sự thay đổi so với hai loại hom non và hom bánh tẻ. Khi xem xét ảnh hưởng của từng loại chất kích thích rễ thương mại lên sự tạo rễ của các loại cành
hom, số lượng rễ ở cành hom non và cành hom bánh tẻ cao hơn so với ở cành hom già, ngoại trừ Rootone.
Bảng 2: Ảnh hưởng của chất kích rễthương mại đến sốlượng rễ/hom và chiều dài rễ của hom Hoắc hương
Chất kích thích tạo
rễ
Hom cành Sốlượng rễ/hom (M ± SD)
Chiều dài rễ (mm) (M ± SD)
N3M
Hom non 17,2bc ± 1,17 39,8c ± 0,75
Hom bánh tẻ 17,4bc ± 1,36 38,4cd ± 1,85
Hom già 11,4d ± 1,85 27,4g ± 2,42
King root
Hom non 27,2a ± 1,47 50,8a ± 1,17
Hom bánh tẻ 27,0a ± 3,45 44,4b ± 1,36
Hom già 18,4bc ± 1,36 31,4efg ± 1,20
Rooting power
Hom non 28,8a ± 1,17 47,4ab ± 1,02
Hom bánh tẻ 25,6a ± 1,02 38,6cd ± 1,85
Hom già 17,0bc ± 1,41 32,0ef ± 1,41
Rootone
Hom non 19,6b ± 1,02 38,6cd ± 1,85
Hom bánh tẻ 16,8bc ± 1,17 34,8de ± 2,14
Hom già 15,2c ± 1,72 28,6fg ± 2,06
Ghi chú: M = giá trị trung bình, SD = độ lệch chuẩn, các chữ cái a,b,c,d,e thể hiện các giá trị trung bình trong cùng cột khác nhau có ý nghĩa thống kê (thống kê hai nhân tố, test Tukey HSD, p = 0,05)
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của chất kích rễthương mại đến chiều dài rễ của hom Hoắc hương cũng được trình bày trong Bảng 2. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đối với vật liệu hom non, chiều dài rễ ở các công thức xử lí N3M, King root, Rooting power và Rootone lần lượt bằng 39,8; 50,8; 47,4 và 38,6 (mm). Như vậy, King root có hiệu quả cao nhất đến sinh trưởng của rễở hom non, kế tiếp là Rooting power, thấp nhất là N3M và Rootone.
Đối với hom bánh tẻ, số lượng rễ ở các công thức xử lí các chất kích thích rễ thương mại tương ứng lần lượt bằng 38,4; 44,4; 38,6 và 34,8 (mm). Như vậy, King root vẫn có hiệu quả tích cực tới sinh trưởng của rễ hom bánh tẻ lớn hơn so với ba loại còn lại. Đối với hom già, chiều dài rễ ở các công thức xử lí N3M, King root, Rooting power và Rootone lần lượt bằng 27,4; 31,4; 32,0 và 28,6 (mm). King root và Rooting power có hiệu ứng tăng sinh trưởng chiều dài rễ lớn hơn so với N3M và Rootone.
3. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của các loại cành hom, mùa vụ và chất kích rễ thương mại tới sự ra rễ hom Hoắc hương đã được khảo sát. Kết quả cho thấy sự ra rễ ở hom Hoắc hương đạt hiệu quả cao nhất ở hom non, trong cả hai mùa đông và mùa xuân.
Các chất kích rễ thương mại có hiệu quả không giống nhau tới sự ra rễ (tỷ lệ ra rễ, số lượng rễ, chiều dài rễ) ở các loại hom giâm có tuổi khác nhau. King root và Rooting power là hai chất kích thích rễ thương mại có thể sử dụng hiệu quả trong giâm hom hoắc hương.
Lời cảm ơn: Công trình này được hoàn thành với sự hỗ trợ kinh phí từ chương trình nghiên cứu khoa học cơ bản của Trường Đại học Hùng Vương (Đề tài mã số:
08/2019/HĐKH), và kinh phí Khoa học công nghệ của tỉnh Phú Thọ cho Đề tài khoa học, Mã số 02/ĐT-KHCN.PT/2020.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hu G., Peng C., Xie X., Zhang S., Cao X. (2017), Availability, pharmaceutics, security, pharmacokinetics, and pharmacological activities of patchouli alcohol, Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine, 2017, 9.
doi:https://doi.org/10.1155/2017/4850612
2. Nguyễn Như Khanh, Cao Phi Bằng (2013), Sinh lý học thực vật, Hà Nội: Nxb Giáo Dục.
3. Đỗ Tất Lợi (2004), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (12 ed.). Hà Nội: Nxb Y học.
4. Maheshwari, M. L., Vasantha Kumar, T., Sharma, N., Chandel, K. P. S. (1993).
Patchouli-an Indian perspective. Indian perfumer, 37, 9-11.
5. Nguyễn Văn Mã, La Việt Hồng, Ong Xuân Phong (2013), Phương pháp nghiên cứu Sinh lý học thực vật, Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Swamy, M. K., Sinniah, U. R. (2015), A Comprehensive Review on the Phytochemical Constituents and Pharmacological Activities of Pogostemon cablin Benth.: An Aromatic Medicinal Plant of Industrial Importance, Molecules, 20(5), 8521-8547. doi:10.3390/molecules20058521
7. Swamy, M. K., Sinniah, U. R. (2016), Patchouli (Pogostemon cablin Benth.):
botany, agrotechnology and biotechnological aspects, Industrial Crops and Products, 87, 161-176.
8. Bùi Văn Thanh, Ninh Khắc Bân (2013), Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả giâm hom Nắm cơm (Kadsura coccinea (Lem.) A. C. Smith), Paper presented at the Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 5, Hà Nội.
9. Trần Huy Thái (1996), Nghiên cứu đặc điểm sinh học và tích lũy tinh dầu của Hoắc hương (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.) ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Viện Sinh thái tài nguyên sinh vật, Hà Nội
INFLUENCE OF CUTTING TYPES, SEASONS AND SOME COMMERCIAL ROOTING PREPARATIONS ON ROOTING FORMATION OF CUTTING PATCHOULI
Phung Thi Lan Huong, Nguyen Phuong Quy, Vu Xuan Duong, Nguyen Thi Thu Thao
Abstract: Patchouli (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.) is an important essential oil plant for the perfume industry, and has a high medicinal value. This study aims to investigate the effect of several factors, such as cutting types, seasons, and commercial root stimulants, on the rooting of patchouli cuttings. The obtained study results demonstrated that the highest rooting eficency by using juvenile shoots, in both winter and spring, when compared with mature and old shoots. Commercial root stimulants haved dissimilar effects on rooting of patchouli (rooting rate, number of roots, root length) in different cutting shoot types. The rooting rate was 100% in all experimental treatments using juvenile shoots. King root and Rooting power were more effective to improving the number of roots per cutting and the root length than two other commercial root stimulants, N3M and Rootone. The number of roots/cutting was highest at juvenile shoots (27.2 and 28.8 roots/cutting) and mature shoots (27.0 and 25.6 roots/cutting) treated with King root and Rooting power.
Meanwhile, the largest root length was observed at juvenile shoots (50,8 mm) treated with Rooting power. This work suggested using juvenile shoots to patchouli propagation by cutting method. The favorable cutting seassons was spring. King root and Rooting power were two effective commercial root stimulants to propagate this medicnial species.
Keywords: patchouli (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.), cuttings, seasons, commercial root stimulants, rooting.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 23-8-2022; ngày phản biện đánh giá: 26-8-2022;
ngày chấp nhận đăng: 30-8-2022)