Ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp Việt Nam
PGS. TS. NGUYỄN THỊ LOAN - NGUYỄN VIỆT HỒNG ANH
Phân tích ảnh hưởng của thuế và các yếu tố đến cấu trúc vốn là một trong những cơ sở cần thiết hỗ trợ nhà quản trị doanh nghiệp (DN) đưa ra quyết định tài chính nhằm đạt được mục tiêu đặt ra. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã phân tích số liệu thống kê của 352 DN phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam để đánh giá xu hướng biến động của cấu trúc vốn dưới sự ảnh hưởng của thuế giai đoạn 2009 - 2014, đồng thời vận dụng mô hình nghiên cứu để xác định mức độ ảnh hưởng và chiều hướng tác động của thuế đến cấu trúc vốn các DN Việt Nam. Mô hình nghiên cứu định lượng được xây dựng với 8 biến độc lập, trong đó có 2 biến đại diện cho sự ảnh hưởng của 2 yếu tố thuế là thuế thu nhập DN (TNDN) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) trên cổ tức chi trả. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến trong mô hình phù hợp có thể đại diện cho tổng thể ảnh hưởng đến cấu trúc vốn DN Việt Nam, trong đó có sự ảnh hưởng của thuế. Độ tin cậy của các biến đại diện cho sự ảnh hưởng của thuế đạt ở mức độ trung bình, số liệu thống kê cho thấy còn tồn tại một số DN Việt Nam chưa thấy được mối liên hệ giữa thuế và cấu trúc vốn.
Từ khoá: cấu trúc vốn, thuế ảnh hưởng đến cấu trúc vốn doanh nghiệp
1. Giới thiệu
huế là một trong những nguồn thu quan trọng của quốc gia, tất cả mọi chủ
thể trong nền kinh tế phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật thuế mà trong đó DN là một chủ thể rất quan trọng. Cấu trúc vốn DN
bao gồm hai thành phần chính là nợ và vốn chủ sở hữu, là nền tảng xây dựng năng lực tài chính ổn định cho hoạt động của DN.
Tuy nhiên, thực tế rất nhiều DN Việt Nam được thành lập với một nền tảng cấu trúc vốn chưa được phân tích và cân nhắc kỹ lưỡng cũng như việc sử dụng nợ và vốn chủ sở hữu (VCSH) chưa thực sự hiệu quả. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động sản xuất
kinh doanh (SXKD), nhất là trong bối cảnh kinh tế thường xuyên biến động và áp lực cạnh tranh từ phía các DN nước ngoài gia tăng.
Các nhà kinh tế học đã nghiên cứu khá nhiều lý thuyết về cấu trúc vốn, trong đó thuế là một yếu tố không thể thiếu đến trong quá trình hoạch định cấu trúc vốn của DN. Tuy nhiên, nghiên cứu mối quan hệ giữa thuế và cấu trúc vốn DN vẫn là vấn đề còn khá nhiều tranh luận. Bài viết nghiên cứu
“Ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp Việt Nam” phân tích ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn của DN trong quá trình hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận của DN, từ đó đề xuất các định hướng gợi ý về cấu trúc vốn góp phần nâng cao năng lực tài chính của các DN Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
Theo Ross, Westerfield và Jordan (2004), cấu trúc tài chính của DN hay còn gọi là đòn bẩy tài chính, là sự kết hợp giữa việc sử dụng vốn nợ và VCSH theo một tỷ lệ nhất định để tài trợ cho hoạt động SXKD. Theo Trần Ngọc Thơ (2005), cấu trúc vốn hay còn gọi là cấu trúc tài chính bao gồm nợ ngắn hạn, nợ trung hạn, dài hạn và vốn cổ phần thường, Quản trị ngân hàng & doanh nghiệp
tất cả dùng để tài trợ cho tài sản của DN. Theo cách định nghĩa của Ross, Westerfield và Jordan (2004), cấu trúc tài chính của DN hay còn gọi là đòn bẩy tài chính, là sự kết hợp giữa việc sử dụng vốn nợ và VCSH theo một tỷ lệ nhất định để tài trợ cho hoạt động SXKD.
Lý thuyết cấu trúc vốn của Modigliani và Miller (M&M, 1958) với giả định thị trường hoàn hảo, không xét đến các yếu tố chi phí giao dịch và thuế đã khẳng định giá trị thị trường của DN độc lập với cấu trúc vốn và nếu chi phí sử dụng vốn vay không đổi và thấp hơn chi phí VCSH thì đòn bẩy tài chính không làm thay đổi chi phí sử dụng vốn của DN.
Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn (Trade-off) đưa ra hai lợi ích khi sử dụng nợ vay, DN sẽ tạo ra được lá chắn thuế từ chi phí lãi vay và nợ vay có thể giúp giảm bớt chi phí đại diện vốn cổ phần phát sinh từ xung đột lợi ích giữa các cổ đông và ban điều hành DN Lý thuyết trật tự phân hạng (Pecking order theory) đã chỉ ra thứ tự ưu tiên sử dụng các nguồn tài trợ cho một công ty, bắt đầu là lợi nhuận giữ lại, đây là nguồn ít bị ảnh hưởng nhất bởi chi phí do thông tin và phát hành, kế tiếp là nguồn tài trợ từ nợ và cuối cùng là vốn cổ phần phát hành mới- là nguồn phải chịu chi phí do thông tin cao nhất.
Lý thuyết của M&M về ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn DN (1963) đưa ra hai kết luận về ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn là các DN có thể được tài trợ 100% bằng nợ vì
lợi ích biên của nợ là thuế suất thuế TNDN, giá trị DN sẽ tăng tuyến tính theo giá trị nợ vay do lợi ích từ tấm chắn thuế mang lại. Lý thuyết M&M đã đặt nền móng cho các lý thuyết cấu trúc vốn hiện đại, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các luận điểm ủng hộ và bổ sung cho Lý thuyết M&M như Jensen và các đồng sự (1976) và (1986), De Angelo và các đồng sự (1980), Myers và Majluf (1984)… Các nhà nghiên cứu trên đã đưa ra kết luận cơ bản về sự khuyến khích tài trợ bằng nợ vay tăng lên theo tỷ lệ thuế TNDN phải nộp, có nghĩa là nếu các yếu tố khác là như nhau, các DN có tỷ lệ thuế TNDN phải nộp khác nhau sẽ có tỷ lệ nợ vay tối ưu khác nhau tùy thuộc vào chi phí và lợi ích vay nợ, tức là tùy thuộc vào đặc điểm riêng của mỗi DN, giá trị DN càng tăng lên khi DN càng sử dụng nợ vay đối với các DN chịu thuế TNDN trong điều kiện các nhân tố khác không đổi.
Ngoài ra, nghiên cứu của Auerbach (1979), Poterba và Summer (1985) cho rằng cổ đông phải gánh chịu gánh nặng thuế do thuế TNCN đánh vào cổ tức, nếu thuế suất thuế TNCN cao trên cổ tức sẽ khuyến khích DN giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư vì đây là nguồn vốn có chi phí sử dụng vốn rẻ. Mặt khác, khi DN giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư thì thu nhập tạo ra từ việc tái đầu tư đó cũng bị đánh thuế thu nhập cổ tức trong tương lai.
Bên cạnh những lý thuyết kinh điển, những nhà nghiên cứu như Givoly và các đồng sự (1992), John R. Graham (1996), Leora
Klapper Konstantinos Tzioumis (2008), Leming Lin, Mark J.Flannery (2012), Ramesh P.Rao và Mounther Barakat (2012) đã thực hiện các nghiên cứu tại các nước về ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn DN. Tại Việt Nam, Phan Thị Bích Nguyệt (2011).
Các kết luận đưa ra của mỗi nghiên cứu đều khẳng định thuế có ảnh hưởng đến cấu trúc vốn DN, tùy vào tình hình kinh tế ở mỗi quốc gia mà mức độ và chiều hướng tác động khác nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ thuế TNDN phải nộp luôn có tác động cùng chiều đến đòn bẩy tài chính, chứng tỏ DN sẽ tăng cường nợ vay khi thuế TNDN phải nộp tăng để được hưởng lợi ích nhiều từ tấm chắn thuế. Tỷ lệ cổ tức chi trả có tác động ngược chiều đến tỷ số nợ trong một số nghiên cứu trước đây đã đề cập. Điều này nghĩa là xuất hiện ảnh hưởng của thuế TNCN trên cổ tức chi trả đến quyết định tài trợ của DN. Thông qua chính sách chi trả cổ tức, nhà quản trị có thể chia cổ tức nhiều hay ít để tận dụng lợi nhuận sau thuế làm nguồn tài trợ. Vì vậy, việc chấp hành thuế TNCN trên thu nhập từ cổ tức sẽ tác động đến chính sách cổ tức của DN, làm ảnh hưởng đến cấu trúc vốn.
Do đó, dựa vào các nghiên cứu thực nghiệm trên đây, bài viết đã vận dụng mô hình và những giả thuyết để nghiên cứu ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn tại DN Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở phân tích quan điểm, mô hình và kết quả các bài nghiên cứu trong và ngoài nước,
tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh phân tích: Nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn của DN Việt Nam bằng phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá trong giai đoạn 2009- 2014.
- Phương pháp định lượng: Vận dụng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn DN. Kết quả nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm Eview 6.0 với phương pháp hồi quy dữ liệu bảng để thấy được mức độ ảnh hưởng và chiều hướng tác động của thuế đến cấu trúc vốn của các DN Việt Nam.
Dữ liệu phân tích được lấy từ các báo cáo tài chính của DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nguồn: CafeF, Vietstock, cophieu68… công bố trong giai đoạn 2009- 2014. Mẫu nghiên cứu gồm 352 DN mang tính đại diện cho các DN Việt Nam.
4. Thực trạng về ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp Việt Nam
Số liệu thống kê thể hiện trong Hình 1 của 352 DN (trong mẫu nghiên cứu) cho thấy ảnh hưởng của thuế đến việc sử dụng nợ vay của DN Việt Nam phù hợp với Lý thuyết M&M và Lý thuyết đánh đổi của cấu trúc vốn.
Theo Lý thuyết M&M, DN sẽ tăng nợ vay khi tỷ lệ thuế phải nộp tăng lên để hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế cho nên biến động của cấu trúc vốn có xu hướng biến động tương đối cùng chiều với tỷ lệ nộp thuế TNDN. Năm 2014, tỷ lệ nộp thuế TNDN của các DN giảm mạnh từ 21,30%
xuống 18,92%, tương ứng với cấu trúc vốn nhìn chung cũng giảm nhẹ từ 51,10% xuống còn 50,96%. Lý thuyết đánh đổi của
cấu trúc vốn cho rằng DN khi vay nợ nhiều sẽ hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế càng nhiều nên giai đoạn 2009- 2014, cấu trúc vốn các DN luôn giữ xấp xỉ 49%-50%.
Chính sách thuế tạo điều kiện thuận lợi cho các DN SXKD trong giai đoạn kinh tế khó khăn làm cho tỷ lệ thuế TNDN phải nộp có xu hướng giảm trong giai đoạn 2009- 2014.
Do vậy, tỷ lệ nợ trên tổng nguồn vốn trung bình tại các DN Việt Nam biến động giảm theo xu hướng tỷ lệ thuế TNDN phải nộp giai đoạn 2009- 2014. Bên cạnh xu hướng chung, một số DN Việt Nam trong mẫu nghiên cứu vẫn giữ vững cấu trúc vốn một cách bảo thủ khi tỷ lệ thuế TNDN phải nộp thay đổi qua các năm hoặc sự thay đổi cấu trúc vốn không biến động cùng chiều với sự thay đổi của thuế TNDN phải nộp (Bảng 1).
Bảng 1 cho thấy Công ty CP Bột giặt và Hóa chất Đức Giang từ năm 2009 đến năm 2014 duy trì Hình 1. Cấu trúc vốn của DN Việt Nam
và tỷ lệ thuế TNDN phải nộp
Nguồn: Tổng hợp từ BCTC của các DN
Bảng 1. Minh hoạ cấu trúc vốn DN niêm yết và tỷ lệ thuế TNDN phải nộp Tên công ty Mã chứng
khoán Tên chỉ tiêu 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Công ty CP bột
giặt và hóa chất
Đức Giang DGC
Tổng nợ/Tổng tài sản (%) 42,75 45,82 50,75 46,73 44,57 44,33 Thuế TNDN phải nộp/Lợi
nhuận trước thuế (%) 20,97 11,87 12,07 6,72 11,62 14,39 Công ty CP
Chương Dương CDC
Tổng nợ/Tổng tài sản (%) 70,31 67,93 64,58 65,66 67,46 67,79 Thuế TNDN phải nộp/Lợi
nhuận trước thuế (%) 30,26 25,47 26,70 42,29 26,61 22,68 Công ty CP bột
giặt Lix LIX
Tổng nợ/Tổng tài sản (%) 37,04 33,16 36,25 39,10 39,13 39,87 Thuế TNDN phải nộp/Lợi
nhuận trước thuế (%) 26,54 25,13 25,18 25,96 25,36 22,51 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC của các DN
tỷ lệ nợ trên tổng vốn ở khoảng 42% đến 50%, Công ty CP Chương Dương duy trì cơ cấu tài chính trong khoảng 65% đến 70%, Công ty CP Bột giặt Lix giữ vững cơ cấu vốn ở mức 33%
đến 39%. Cấu trúc vốn của những công ty này hầu như không thay đổi nhiều ở năm 2013 sang 2014 mặc dù trong năm 2014 có một sự thay đổi đáng kể về thuế suất thuế TNDN và số thuế TNDN phải nộp có xu hướng giảm dần từ năm 2009 đến năm 2014.
Thực chất khi chính sách thuế TNDN giảm thuế suất chỉ có ảnh hưởng đến các DN theo hướng giảm số thuế phải nộp hiện hành từ lợi nhuận tạo ra, lợi nhuận giữ
lại sẽ đem tái đầu tư được nhiều hơn để tăng vòng quay vốn hoặc các DN vẫn duy trì mức nợ vay khá cao để tiếp tục hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế.
Do thị trường tài chính tại Việt Nam chưa phát triển nên việc thay đổi cấu trúc vốn sau nhiều năm giữ ổn định không phải dễ dàng. Các DN sẽ không kịp huy động vốn để tăng VCSH hoặc trả hết nợ gốc và lãi để giảm nợ vay khi tỷ lệ thuế TNDN phải nộp giảm. Cấu trúc vốn như trên có thể không mang lại hiệu quả cho DN trong việc sử dụng vốn. Khi thuế phải nộp giảm, nếu DN vẫn giữ cấu trúc vốn với tỷ lệ nợ vay cao sẽ chịu áp lực trả nợ nhiều mà không được hưởng nhiều lợi ích từ tấm chắn thuế. Điều này mang đến nhiều rủi ro cho DN nếu nhà quản trị không kiểm soát được nguồn tiền để trả nợ vay.
Tỷ lệ chi trả cổ tức của 352 DN
có xu hướng giảm, cấu trúc vốn các DN tăng nhẹ và khá ổn định thể hiện trong Hình 2. Sự biến động cùng chiều hay nghịch chiều về tỷ lệ chi trả cổ tức và cấu trúc vốn DN thông qua tỷ lệ nợ vay trên tổng vốn không rõ ràng.
Hình 2 cho thấy năm 2012, tỷ lệ chi trả cổ tức là 18,13%, tăng lên 19,67% năm 2013 và giảm nhẹ còn 18,42% năm 2014. Trong khi đó, tỷ lệ nợ trên tổng vốn lại giảm dần từ 2012 với 51,13% xuống 51,10% năm 2013 và 50,96%
năm 2014. Do đó, số liệu thống kê chưa thể hiện rõ sự ảnh hưởng của thuế TNCN trên cổ tức chi trả đến cấu trúc vốn DN. Tuy nhiên, ở những năm 2012-2014, xu hướng chi trả cổ tức của DN ít hơn so với các năm 2010- 2011.
Các DN đã kìm hãm việc chi trả cổ tức để giảm mức khấu trừ thuế TNCN mà các cổ đông phải chịu để phần thu nhập sau thuế góp phần xây dựng cấu trúc vốn và tạo lợi nhuận nhiều hơn cho công ty. Bên cạnh đó, một số công ty niêm yết lại có chính sách cổ tức Hình 2. Biến động của cấu trúc vốn DN và tỷ
lệ chi trả cổ tức
Nguồn: Tổng hợp từ BCTC của các DN
Bảng 2. Minh hoạ cấu trúc vốn DN niêm yết và tỷ lệ chi trả cổ tức Tên công ty Mã chứng
khoán Chỉ tiêu 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Công ty CP khoáng sản
Á Châu AMC
Tỷ lệ chi trả cổ tức/ lợi nhuận
sau thuế (%) 0,00 0,00 0,00 56,42 42,44 81,36 Tổng nợ/Tổng nguồn vốn (%) 36,31 38,83 42,33 39,47 34,35 38,59 Công ty CP
tập đoàn dầu
khí An Pha ASP
Tỷ lệ chi trả cổ tức/ lợi nhuận
sau thuế (%) 28,58 8,82 0,00 1,43 5,45 92,34 Tổng nợ/Tổng nguồn vốn (%) 65,17 73,54 74,62 70,43 66,97 61,43 Công ty CP
vận tải Ngoại
thương VNF
Tỷ lệ chi trả cổ tức/ lợi nhuận
sau thuế (%) 33,18 18,96 39,06 87,71 8,38 35,14 Tổng nợ/Tổng nguồn vốn (%) 35,59 40,38 42,18 50,75 54,50 57,58 Nguồn: Tổng hợp từ BCTC của các DN
hầu như không liên quan nhiều
đến cấu trúc vốn (Bảng 2 ). Bảng 2 cho thấy giai đoạn 2013- 2014, công ty CP khoáng sản Á
Châu có tỷ lệ chi trả cổ tức tăng cao từ 42,44% đến 81,36% tương ứng với cấu trúc vốn tăng từ 34,35% lên 38,59%. Bên cạnh đó, công ty CP tập đoàn dầu khí An Pha và công ty CP vận tải Ngoại thương có tỷ lệ chi trả cổ tức tăng đột biến từ 5,45% và 8,38% đến 92,34% và 35,14%. Trong khi đó cấu trúc vốn của 2 công ty này năm 2013 và 2014 giữ ổn định ở mức khá cao khoảng 50%- 60%.
Nhìn chung, tỷ lệ chi trả cổ tức Bảng 3. Tổng hợp các biến phụ thuộc và biến độc lập trong mô hình đề xuất
STT Tên biến Ký
hiệu Tác giả của nghiên cứu trước đây đã đề cập Công thức tính Biến phụ thuộc
1 Tỷ số nợ ngắn hạn
trên tổng tài sản SDR Lin và Flannery (2012), Song (2005), Chen
(2004) Nợ ngắn hạn/Tổng tài sản
2 Tỷ số nợ dài hạn
trên tổng tài sản LDR Booth và các đồng sự (2001), Huang và Song (2002), Frank và Goyal (2003), Phan Thị Bích Nguyệt (2011), Lê Đạt Chí (2013), Tarazi (2013)
Nợ dài hạn/Tổng tài sản 3 Tỷ số nợ trên tổng
tài sản TDR Tổng nợ/Tổng tài sản
Biến độc lập
4 Thuế TNDN MTR Booth và các đồng sự (2001), Huang và Song (2002), Phan Thị Bích Nguyệt (2011), Lê Đạt Chí (2013), Rao và Barakat (2012)
Thuế TNDN phải nộp/Lợi nhuận trước thuế
5 Thuế TNCN trên
cổ tức DIV Frank và Goyal (2003), Rao và Barakat
(2012), Lin và Flannery (2012) Cổ tức chi trả/Lợi nhuận sau thuế
6 Tấm chắn thuế phi
nợ NDTS Song (2005), Huang và Song (2002), Chen (2003), Deesomsak, Paudyal và Pescetto
(2004), Tarazi (2013) Khấu hao/Tổng tài sản 7 Tài sản thế chấp COLL
Booth và các đồng sự (2001), Frank và Goyal (2003), Chen (2003), Tarazi (2013), Rao và Barakat (2012), Lin và Flannery (2012)
(Hàng tồn kho+tài sản cố định+bất động sản đầu tư)/Tổng tài sản
8 Tốc độ tăng
trưởng GRO Chen (2003), Song (2005), Huang và Song (2002), Tarazi (2013), Phan Thị Bích Nguyệt (2011), Lê Đạt Chí (2013)
(Doanh thu năm t – doanh thu năm t-1)/doanh thu năm t-1
9 Quy mô doanh
nghiệp SIZE
Booth và các đồng sự (2001), Frank và Goyal (2003), Chen (2003), Tarazi (2013), Song (2005), Huang và Song (2002), Phan Thị Bích Nguyệt (2011), Lê Đạt Chí (2013), Rao và Barakat (2012).
Ln (Doanh thu)
10 Rủi ro kinh doanh VOL Booth và các đồng sự (2001), Huang và Song (2002), Chen (2003), Song (2005), Rao và Barakat (2012).
%biến động EBIT/% biến động doanh thu thuần 11 Lợi nhuận ROA Booth và các đồng sự (2001), Chen (2003),
Song (2005), Phan Thị Bích Nguyệt (2011), Lê Đạt Chí (2013), Tarazi (2013)
Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản
Nguồn: Tác giả tổng hợp CẤU TRÚC VỐN DOANH NGHIỆP
Thuế TNDN Thuế TNCN
trên cổ tức Tài sản thế
chấp
Lợi nhuận Tốc độ tăng
trưởng DN Rủi ro kinh
doanh Tấm chắn thuế phi nợ
Quy mô do- anh nghiệp
Hình 3. Mô hình nghiên cứu về ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn DN
cao từ 80% đến 90% chứng tỏ các DN một mặt vẫn chia cổ tức nhiều để đảm bảo lợi ích của các cổ đông, mặt khác không thay đổi cấu trúc vốn theo hướng giảm nợ vay, không tận dụng nguồn lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư làm cho áp lực trả nợ của các DN càng cao.
Theo lý thuyết và quan điểm của các nhà nghiên cứu trước đây, khi DN chi trả cổ tức cao nghĩa là lợi nhuận sau thuế tạo ra nhiều và có xu hướng giảm nợ vay để thiết lập cơ cấu vốn vững chắc hơn. Tuy nhiên, thực trạng trên cho thấy một số DN vẫn tăng cường chia cổ tức trong khi cơ cấu vốn vẫn nghiêng về nợ vay.
Nguyên nhân có thể do thực tế lợi nhuận tạo ra của DN không nhiều và việc chia cổ tức chỉ thực hiện bằng cổ phiếu với mục đích tạo dấu hiệu tốt cho việc huy động vốn cổ phần để điều chỉnh cấu trúc vốn theo hướng giảm nợ vay. Nhưng nếu duy trì cấu trúc vốn như trên sẽ tạo nhiều rủi ro
cho DN và các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay có nhiều đối thủ cạnh tranh, tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán có thể khiến cho các nhà đầu tư nghĩ rằng công ty kinh doanh kém hiệu quả, không đảm bảo khả năng tạo lợi nhuận, việc chia cổ tức chỉ mang tính chất tạo tín hiệu trên thị trường, từ đó làm cho giá cổ phiếu giảm mạnh. Như vậy, DN không những chịu nhiều gánh nặng từ nợ mà lợi ích của các cổ đông cũng bị ảnh hưởng.
5. Mô hình nghiên cứu định lượng và các giả thuyết nghiên cứuCăn cứ những cơ sở lý thuyết về cấu trúc vốn DN kết hợp với các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về ảnh hưởng của thuế đến cấu trúc vốn DN, mô hình nghiên cứu đề xuất như Hình 3.
Ba mô hình hồi quy dữ liệu bảng được đề xuất tương ứng với 3 biến phụ thuộc:
SDRit = + MTRit + DIVit + NDTSit + COLLit + GROit + SIZEit + VOLit + ROAit + eit (1) LDRit = + MTRit + DIVit + NDTSit + COLLit + GROit + SIZEit + VOLit + ROAit + eit (2) TDRit = + MTRit + DIVit + NDTSit + COLLit + GROit + SIZEit + VOLit + ROAit + eit (3) Từ mô hình nghiên cứu đề xuất, chúng tôi sẽ xây dựng các biến độc lập và biến phụ thuộc biểu hiện từng yếu tố trong mô hình.
Biến phụ thuộc đại diện cho cấu trúc vốn DN được nghiên cứu ở 3 khía cạnh khác nhau tương ứng với 3 biến phụ thuộc. Mỗi biến phụ thuộc được viết thành một phương trình của mô hình nghiên cứu. 8 yếu tố đưa vào mô hình nghiên cứu có tác động đến cấu trúc vốn được xây dựng thành 8 biến độc lập tương ứng (Bảng 3).
Mỗi giả thuyết nghiên cứu đều gắn liền với mối quan hệ giữa một biến độc lập với biến phụ thuộc (Bảng 4) cũng như chiều hướng tác động của biến độc lập đến biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu.
6. Kết quả nghiên cứu Chạy mô hình hồi quy với 3 trường hợp của 3 biến phụ thuộc SDR, LDR, TDR bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng FEM và REM, với mỗi trường hợp, chúng tôi đã thực hiện kiểm định F và kiểm định t để xác định các kết quả chạy mô hình hồi quy đều có ý nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, việc thực hiện kiểm định Hausman đã lựa chọn được 3 mô hình phù hợp như sau:
SDR = 0,116964 + 0,018504 MTR – 0,17309 DIV – 0,023144 Bảng 4. Tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu đề xuất
thuyếtGiả Mô tả chi tiết giả thuyết nghiên cứu Kỳ vọng dấu H1 Thuế TNDN có quan hệ cùng chiều với cấu trúc vốn. + H2 Thuế TNCN có mối quan hệ ngược chiều với cấu trúc vốn. - H3 Tấm chắn thuế phi nợ có mối quan hệ cùng chiều hay ngược chiều với cấu trúc vốn. +/- H4 Tài sản thế chấp có mối quan hệ cùng chiều với cấu trúc vốn. + H5 Tốc độ tăng trưởng có mối quan hệ cùng chiều hoặc ngược chiều với cấu trúc vốn. +/- H6 Quy mô doanh nghiệp có mối quan hệ cùng chiều hay ngược chiều với cấu trúc vốn. +/- H7 Rủi ro kinh doanh có mối quan hệ ngược chiều với cấu trúc vốn. - H8 Lợi nhuận có mối quan hệ cùng chiều hoặc ngược chiều đối với cấu trúc vốn. +/-
Nguồn: Tác giả tổng hợp
NDTS + 0,001918 COLL – 0,0000566 GRO + 0,025144 SIZE – 0,0000208 VOL – 0,228887 ROA
LDR = 0,083957 + 0,013099 MTR – 0,001282 DIV – 0,140571 NDTS + 0,143805 COLL – 0,000339 GRO + 0,002692 SIZE – 0,00000876 VOL – 0,03225 ROA
TDR = 0,162448 + 0,016383 MTR – 0,02424 DIV – 0,143204 NDTS + 0,158288 COLL – 0,00037 GRO + 0,025679 SIZE – 0,00000585 VOL – 0,35353 ROA
Trong cả 3 mô hình trên, các giá trị p của các biến độc lập đều rất nhỏ nên các biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê, làm cơ sở phân tích mức độ và chiều hướng tác động của từng biến để kết luận các giả thuyết nghiên cứu. Bảng 5 tổng hợp kết quả các kết quả nghiên cứu.
Kết quả hồi quy biến phụ thuộc và các biến độc lập cho thấy những yếu tố có ảnh hưởng đến việc hoạch định cấu trúc vốn
DN Việt Nam là thuế TNDN, thuế TNCN, tấm chắn thuế phi nợ, tài sản thế chấp, quy mô DN, tốc độ tăng trưởng, rủi ro kinh doanh, lợi nhuận. Đồng thời kết quả nghiên cứu đã khẳng định thuế có ảnh hưởng đến cấu trúc vốn DN Việt Nam.
Về thuế TNDN, nếu DN nộp thuế cao thì có xu hướng vay nợ nhiều hơn do được hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế. Kết quả này phù hợp thực trạng nghiên cứu cũng như Lý thuyết M&M, Lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn và các nghiên cứu thực nghiệm như: Givoly và các đồng sự (1992), Graham (1996), Ramesh và Mounther Barakat (2012), Phan Thị Bích Nguyệt (2011), Lê Đạt Chí (2013) cho rằng thuế TNDN có ảnh hưởng cùng chiều đến việc hoạch định cấu trúc vốn DN. Mối quan hệ dương giữa thuế TNDN và cấu trúc vốn lại có ý nghĩa với độ tin cậy khá thấp đối với biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ dài hạn trên tổng tài sản, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ thực trạng các DN Việt Nam phần lớn là vay nợ ngắn hạn, còn nợ dài hạn rất ít khi được DN chú trọng. Nguyên nhân sâu xa của mức độ ảnh hưởng từ thuế đến cấu trúc vốn còn thấp là do vẫn còn tồn tại một số DN có cấu trúc vốn không theo xu hướng chung, việc vay nợ còn
tự phát, nhất là vay nợ dài hạn, những bất cập, hạn chế vẫn còn tồn tại trong quá trình hoạch định cấu trúc vốn DN và trong luật thuế tại Việt Nam.
Về thuế TNCN, thuế TNCN trên cổ tức chi trả có tác động ngược chiều đến cấu trúc vốn DN. Khi một DN quyết định tăng việc chi trả cổ tức, giá cổ phiếu thường tăng theo do các nhà đầu tư cho rằng đây là dấu hiệu tốt, DN kinh doanh hiệu quả. Khi đó, việc phát hành thêm vốn sẽ có lợi cho DN, hoặc các DN khi chi trả cổ tức nhiều sẽ có khả năng sinh lợi cao và dùng lợi nhuận còn lại để tái đầu tư cho nên họ ít vay nợ. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của yếu tố này không nhiều, nhất là ở trường hợp biến phụ thuộc là nợ dài hạn trên tổng tài sản do thị trường tài chính tại Việt Nam chưa lớn mạnh, mọi thông tin phát ra trên thị trường đều gây ra những tác động trái chiều, một mặt vì hiện tượng thông tin bất cân xứng, một mặt do số lượng nhà đầu tư còn ít, tâm lý còn e ngại rủi ro. Mặt khác, thực trạng cũng cho thấy các DN Việt Nam đa số là vay ngắn hạn nên tác động của thuế TNCN trên cổ tức cũng như các yếu tố khác ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ dài hạn trên tổng tài sản đều không cao. Nhìn chung, theo phân tích thực trạng và kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy thuế TNCN là một loại thuế mới được áp dụng và mức độ ảnh hưởng của thuế TNCN trên cổ tức chi trả đến cấu trúc vốn chỉ mới thể hiện rõ nét trong những năm gần đây nên mức độ ảnh hưởng giai đoạn 2009- 2014 là không nhiều. Kết quả này phù Bảng 5. Tổng hợp kết quả nghiên cứu
Biến độc lập
thuyết Giả n/cứu
Kết quả nghiên cứu Chiều hướng
tác động SDR LDR TDR
MTR (+) (+) (**) (***) (**)
DIV (-) (-) (**) (***) (**)
NDTS (+)/(-) (-) (*) (**) (*)
COLL (+) (+) (*) (*) (**)
GRO (+)/(-) (-) (*) (**) (*)
SIZE (+)/(-) (+) (*) (*) (*)
VOL (-) (-) (***) (***) (***)
ROA (+)/(-) (-) (*) (*) (*)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu Ghi chú:
(+/-): biến độc lập có ảnh hưởng cùng chiều/ngược chiều với biến phụ thuộc;
(*), (**), (***): biến độc lập ảnh hưởng đến biến phụ thuộc với mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%.
hợp với các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới như: Givoly và các đồng sự (1992), Murray và Vidhan (2003), Ramesh và Mounther Barakat (2012).
Bên cạnh ảnh hưởng của thuế, cấu trúc vốn DN khi được xây dựng cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Tấm chắn thuế phi nợ (NDTS) là yếu tố có mối quan hệ ngược chiều với cấu trúc vốn. Tài sản thế chấp (COLL) có quan hệ thuận chiều với cả 3 biến phụ thuộc. Các DN có tỷ lệ tài sản hữu hình trên tổng tài sản cao thì có xu hướng vay nợ được nhiều hơn do họ dễ tiếp cận được nguồn vay nợ của các ngân hàng thương mại (NHTM) thông qua điều kiện về tài sản thế chấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy các DN có tốc độ tăng trưởng (GRO) cao thì việc huy động vốn cổ phần trên thị trường chứng khoán cũng sẽ thuận lợi hơn do được các nhà đầu tư đánh giá cao về khả năng sinh lợi, và vì vậy họ sẽ đi vay nợ ít hơn. Quy mô DN lớn sẽ vay được nợ nhiều hơn nhờ uy tín trên thị trường góp phần dễ tiếp cận vốn vay.
Rủi ro kinh doanh (VOL) là yếu tố có tác động ít nhất đến cấu trúc vốn DN, mức độ tác động hầu như không đáng kể thông qua hệ số Bê-ta rất nhỏ ở cả 3 mô hình.
Điều này chứng tỏ các nhà quản trị Việt Nam khi hoạch định cấu trúc vốn chưa xem xét kỹ đến vấn đề rủi ro kinh doanh mà đa số là tự phát theo nhu cầu. Tuy nhiên, mức tác động ngược chiều
là phù hợp vì DN nào có rủi ro kinh doanh cao thì họ sẽ hạn chế sử dụng đòn bẩy tài chính. Lợi nhuận (ROA) có quan hệ ngược chiều với cấu trúc vốn. Theo lý thuyết trật tự phân hạng các DN ưu tiên sử dụng tài trợ nội bộ hơn so với các nguồn tài trợ bên ngoài. Các DN hoạt động có lợi nhuận càng cao sẽ có nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại càng nhiều với chi phí sử dụng vốn rẻ để tài trợ cho các hoạt động của DN nên sử dụng nợ vay ít hơn, nhưng lại không phù hợp với Lý thuyết đánh đổi.
7. Kiến nghị giải pháp đối với cấu trúc vốn doanh nghiệp Việt NamTừ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất gợi ý một số giải pháp đối với cấu trúc vốn nhằm góp phần tiết kiệm chi phí thuế TNDN đối với DN đồng thời tạo thêm lợi ích cho cổ đông.
Thứ nhất, DN nên điều chỉnh cấu trúc vốn phù hợp với ảnh hưởng của thuế TNDN. Hằng năm, DN lên kế hoạch xây dựng cấu trúc vốn phù hợp với từng thời điểm chính sách thuế có thay đổi về thuế suất hoặc những quy định nộp thuế… Việc duy trì một cơ cấu vốn phù hợp với tỷ lệ thuế phải nộp vừa tiết kiệm chi phí thuế TNDN phải nộp cho DN, vừa làm chủ được mức độ sử dụng nợ vay, nâng cao khả năng kiểm soát tài chính DN.
Thứ hai, DN cần hoạch định cấu trúc vốn đi đôi với xây dựng
chính sách cổ tức. Kết quả các hệ số hồi quy trong mô hình nghiên cứu còn khá thấp chứng tỏ thuế TNCN trên cổ tức chi trả chưa ảnh hưởng đến việc hoạch định cấu trúc vốn của một số DN. Các DN vẫn còn giữ quan điểm chi trả cổ tức tùy theo từng thời kỳ và chiến lược kinh doanh của họ.
Khi cổ phiếu trên thị trường đang có xu hướng tăng thì DN nên chi trả cổ tức bằng cổ phiếu để cổ đông có thể hưởng lợi từ hiệu ứng giá tăng. Hơn nữa, khi nhận cổ tức bằng cổ phiếu, các cổ đông chưa phải chịu thuế TNCN từ đầu tư vốn với mức thuế suất 5%, khi nào chuyển nhượng phần chứng khoán này thì lúc đó cổ đông sẽ chịu thuế TNCN từ đầu tư vốn và thuế TNCN từ việc chuyển nhượng. Ngoài ra, việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu khi giá cổ phiếu trên thị trường tăng sẽ giúp DN tạo hiệu ứng kinh doanh tốt, thu hút các nhà đầu tư mua cổ phiếu, tăng vốn cổ phần và giảm nợ vay, cơ cấu tài chính vững chắc hơn. Tuy nhiên, DN chỉ nên chi trả cổ tức cao khi lợi nhuận tao ra nhiều. Khi đó, DN vừa đảm bảo được lợi ích cho các cổ đông, vừa sử dụng được lợi nhuận sau thuế tái đầu tư, cắt giảm nợ vay.
Nếu giá cổ phiếu trên thị trường đang trong xu hướng giảm, DN nên cân nhắc việc chi trả cổ tức.
Lúc này, chính sách chi trả cổ tức có thể được cắt giảm để tận dụng nguồn lợi nhuận sau thuế tái đầu tư hoặc công ty nên chi trả cổ tức bằng tiền để tránh sự pha loãng TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB Thống kê, trang 12- 58.
2. Lê Đạt Chí (2013), ‘Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hoạch định cấu trúc vốn của các nhà quản trị tài chính tại Việt Nam’, Tạp chí Phát triển và hội nhập, số 9, trang 19.
xem tiếp trang
63
3. Phan Thị Bích Nguyệt (2011), Tác động của thuế thu nhập đến hoạch định cấu trúc tài chính của các công ty cổ phần tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
4. Trần Ngọc Thơ (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB Thống kê, Chương 16, trang 409-510.
5. Barakat and Ramesh P.Rao (2012), The role of taxes in capital structure: Evidence from taxed and non-taxed Arab Economies, [pdf], Available from: <http://ssrn.com/abstract= 2026751>, [20 January 2015].
6. De Angelo, Harry, and Ronald W.Masulis (1980), ‘Optimal capital structure under corporate and personal taxation’, Journal of Financial Economics, pp. 3-27.
7. Givoly, Dan, Carla Hayn, Aharon R.Ofer and Oded Sarig 1992, ‘Taxes and capital structure: Evidence from firm response to The Tax Reform Act of 1986’, Review of Financial Studies 5, pp.331-355.
8. Hovakimian, Armen, Tim Opler and Sheridan Titman 2001, ‘The debt- equity choice’, Journal of Financial and Quantitative analysis, pp.1-24.
9. Javad Afrasiabi and Hamed Ahmadinia 2011, ‘How financing effect on capital structure, Evidence from Tehran Stock Exchange (TSE)’, International Journal of Academic Research, Vol.3, No.1, pp.309-316.
10. Jean J.Chen 2004, ‘Determinants of capital structure of Chinese-listed companies’, Journal of Business Research, No. 57, pp.1341-1351.
11. John R. Graham, 1996, ‘Debt and the marginal tax rate’, Journal of Financial Economics, No. 41, pp.41-73.
12. Michael C. Jensen and William H.Meckling 1976, ‘Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs, and capital struc- ture’, Journal of Financial Economics, Vol. 3, pp. 305- 360.
13. Leming Lin, Mark J.Flannery 2012, ‘Do personal taxes affect capital structure? Evidence from the 2003 tax cut’, Journal of Financial Economics, No. 109, pp. 549-565.
14. Leora Klapper Konstantious Tzioumis 2008, ‘Taxation and Capital Structure: evidence from a transition economy’, GreeSE Paper, No.16.
15. Miller, M. and M. Scholes 1978, ‘Dividend and taxes’, Journal of Financial Economics, pp.333-364.
16. Miller, Merton, H.1997, ‘Debt and taxes’, Journal of Finance, No. 32, pp.261-275.
17. Milton Harris and Artur Raviv 1991, ‘The Theory of Capital Structure’, The journal of Finance, Vol 66, No.1.
18. Murray Z.Frank, K.Goyal 2003, ‘Capital structure decisions: Which Factory are eliably Im.portant’, Journal of Financial Management, No.38.
19. Modigliani, Franco and Merton H.Miller 1958, ‘The cost of capital, corporation finance and the theory of investment’, Ameri- can Economic Review, No. 48, pp. 261-297.
20. Modigliani, Franco and Merton H.Miller 1963, ‘Coporate income taxes and the cost of capital: A correction’, American Eco- nomic Review, pp.433-443.
21. Overesch, M. and D. Voeller 2008, ‘The impact of Personal and Corporate taxation on capital structure choices’, Discussion Paper, No. 08-020.
22. Poterba J. and Summers L.H. 1985, ‘The economic effects of dividend taxation’, Recent Advances in Corporate Finance, eds.
E.Altman and M. Subrahmanyam, Homewood, IL: Richard D.Irwin, pp.227-284.
23. Ramzi E.N Tarazi 2013, ‘Determinants of Capital Structure: Evidence from Thailand Panel Data’, Finance and Economics Conference, Australia.
SUMMARY
The impact of taxes on the capital structure of enterprises in Vietnam
Analysis of tax effects and other elements to the structure of capital to which the base to support business managers make financial decisions to achieve the goals set out. Within the scope of the article, the author has analyzed the statistics of the 352 non-financial companies listed on Vietnam stock market to appraise the trends of the capital structure under the influence of the tax period 2009- 2014, and applied research models to determine the extent of the influence and impact of the tax dimension to the capital structure of enterprises in Vietnam. Quantitative research model is built with 8 independent variables, of which 2 variables representing the influence of two factors is tax corporate income tax (CIT) and personal income tax (PIT). The study results showed that the variables in the model fit can represent the overall capital structure affect enterprises in Vietnam, including the tax effects. The reliability of the variables representing the tax effect of achieving the average level, statistics show that there exist some of enterprises have not see the link between tax and capital structure.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Loan, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đơn vị công tác: Đại học Ngân hàng TP.HCM
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tài chính- Ngân hàng, Kiểm toán và Kiểm soát nội bộ- Kế toán
Các tạp chí đã có bài viết đăng tải: Ngân hàng, Công Nghệ Ngân hàng, Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Phát triển kinh tếEmail: [email protected]
Nguyễn Việt Hồng Anh, Thạc sỹ
Đơn vị công tác: Chi Cục thuế Bình Thạnh TP.HCM Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tài chính- Ngân hàng Email: [email protected]
THÖÏC TIEÃN & KINH NGHIEÄM QUOÁC TEÁ
đã ký gửi, cầm cố, thế chấp để vay vốn; đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng và có thời hạn thanh toán trên 180 ngày). Tuy nhiên, dựa trên thông lệ quốc tế quy định về giao dịch các khoản phải thu không coi là hoạt động BTT (khoản phải thu trong giao dịch tài chính, khoản phải thu đã được chứng khoán hóa, khoản phải thu dùng để tái cấp vốn…), cần nghiên cứu, xem xét bổ sung những trường hợp này vào quy định hiện hành cho phù hợp với đặc thù của thị trường Việt Nam.
(7) Nghiên cứu áp dụng hoạt động BTT điện tử qua mạng internet: Đây là hình thức BTT hoàn toàn mới và chưa được triển khai ở Việt Nam. Theo kinh nghiệm quốc tế, cơ quan quản lý cần xây dựng cơ sở pháp lý hoàn thiện và đồng bộ hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử, thanh toán hóa đơn qua mạng internet, chữ ký điện tử và luật về bảo mật, luật về lưu trữ chứng từ điện tử… và yêu cầu đơn vị BTT phải có hệ thống cơ sở hạ tầng IT an toàn, tin cậy, có tính bảo mật cao để phục vụ các giao dịch BTT điện tử.
8) Những vấn đề khác: Đơn vị BTT ở một số nước được phép mua bảo hiểm tín dụng để phòng ngừa những rủi ro đối với khoản phải thu trong việc BTT cho bên bán hàng, đặc biệt là trong hoạt động BTT quốc tế. Do đó, có thể xem xét bổ sung quy định cho phép đơn vị BTT tiếp cận hình thức bảo hiểm rủi ro tín dụng để giảm thiểu rủi ro trong nghiệp vụ này. Đồng thời, cơ quan quản lý cũng cần có hướng dẫn hạch toán nghiệp vụ BTT cho đơn vị BTT theo chuẩn mực kế toán của Việt Nam và phù hợp với quy định quốc tế để tạo thuận lợi cho hoạt động BTT xuất nhập khẩu. ■
cổ phiếu, làm giá cổ phiếu giảm thêm. Tùy theo thời điểm thị trường mà DN xây dựng chính sách chi trả cổ tức để vừa thỏa mãn lợi ích của cổ đông, vừa đảm bảo xây dựng được cấu trúc vốn hiệu quả từ nguồn tài trợ là lợi nhuận để lại của công ty.
Thứ ba, DN cần lập kế hoạch quản lý tài sản đảm bảo hiệu quả. NHTM thường xem tài sản cố định (TSCĐ), hàng tồn kho, trị giá bất động sản đầu tư là toàn bộ giá trị tài sản đảm bảo của DN khi xem xét cấp tín dụng. Vì vậy DN cần lập kế hoạch quản lý tài sản, phân bổ trị giá khấu hao, thanh lý TSCĐ, tiếp theo trang
41
công ty chứng khoán. Mặt khác, quy mô hoạt động ngân hàng ngầm Việt Nam đo lường trên các nguồn dữ liệu chính thức có thể thu thập được, so với các nước trong khu vực và trên thế giới chưa phải là cao.
5. Kết luận
Bài viết đã tổng hợp cách tiếp cận để đo lường quy mô hoạt động ngân hàng ngầm. Để đo lường qui mô ngân hàng ngầm Việt Nam, tác giả lựa chọn tiếp cận theo hướng bảng cân đối kế toán của các tổ chức ngân hàng ngầm. Trong đó, sử dụng hai phương pháp để đo lường quy mô hoạt động ngân hàng ngầm chính: Đo lường theo quy mô tài sản tài chính của các hoạt động ngân hàng ngầm và đo lường theo nợ phải trả phi truyền thống.
Với các tổ chức có tham gia hoạt động ngân hàng ngầm đã nói đến ở phần trên, tác giả thực hiện thống kê, tính toán và ước lượng hoạt động ngân hàng ngầm ở các tổ chức tài chính chính thức tại Việt Nam. Cụ thể, 4 loại hình tổ chức tài chính có hoạt động ngân hàng ngầm, có báo cáo số liệu và có thể thống kê được là: Ngân hàng, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và công ty tài chính. Các loại hình còn lại, mặc dù hoạt động tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, như tín dụng đen, tiệm cầm đồ và các đơn vị họ, hụi, biêu, phường, nhưng do vấn đề không có sẵn về số liệu, nên không thực hiện thống kê và cũng không có cơ sở để ước lượng được. ■ để khai thác nguồn nợ vay khi cần thiết. Kế hoạch khấu hao TSCĐ phải được lập và quản lý hằng kỳ, lập dòng tiền ròng của dự án kinh doanh, ước lượng khoản chi phí xác định để có quyết định tài trợ nguồn vốn hợp lý.
Thứ tư, DN nên tận dụng nguồn tài trợ từ lợi nhuận sau thuế hơn là sử dụng nợ vay khi đang tăng trưởng, lợi nhuận làm ra nhiều. Tốc độ tăng trưởng của DN căn cứ trên doanh thu tạo ra hằng kỳ. Từ đó, DN có nhiều cơ hội để huy động vốn cổ phần, hoặc sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư. Cấu trúc vốn nên được điều chỉnh theo hướng giảm nợ vay để giảm bớt áp lực thanh toán chi phí lãi vay tạo nên sự chuyển biến tích cực cho cơ cấu vốn DN. ■
tiếp theo trang