• Tidak ada hasil yang ditemukan

ứng phó với những thách thức của già hóa dân số tại Việt Nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "ứng phó với những thách thức của già hóa dân số tại Việt Nam"

Copied!
3
0
0

Teks penuh

(1)

Kinli UI Dự báo

Giải pháp

ứng phó với những thách thức của già hóa dân số tại Việt Nam

CẤN HỮU DẠN*

*TS., ** ThS., Trường Đại học Lao động - Xã hội

NGUYỄN THỊ NƯỚC**

Già hóa dân số tạo ra những thách thức lớn về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa, song cũng mang đến nhiều hội đối với nhiều quôc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam. Vân đề là lựa chọn cách thức nào đê giải quyết các thách thức trên, đồng thời tận dụng tối đa hội dân số già hóa thể mang lại. Trên cơ sở đánh giá thực trạng già hóa dân số tại Việt Nam, bài viết đưa ra một sô' đề xuất, nhằm giải quyết những thách thức do già hóa dân sô' mang lại.

GIÀ HÓA DÂN SÔ TẠI VIỆT NAM

Già hóa dân sô' là sự chuyển dịch phân bô' dân số theo hướng già hơn.

Thường được phản ánh qua sự gia tăng tuổi trung bình và tuổi trung vị của dân sô', giảm tỷ lệ dân sô' trẻ em và tăng tỷ lệ dân sô'cao tuổi [7]. Già hóa dân sô'là quá trình chuyển đổi cơ cấu dân sô'theo hướng tăng tỷ trọng dân sô'già, đượcthể hiện qua chỉsô' già hóa.

Theo Luật Người cao tuổiViệt Nam, người cao tuổi là công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên. Kếtquả điều tra biến động dân sô' năm 2019 của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ người cao tuổi 60+ là 11,9%. Như vậy, ước tính sô'người caotuổicủa Việt Nam năm 2019 khoảng 11,4 triệu người;tỷ lệngười cao tuổi65+

là 8,3%,ước tính sô'người cao tuổitừ 65 tuổi trở lên năm 2019 là 7,99 triệu người;

tỷ lệ người cao tuổi từ80 trở lên là 1,9 triệu người, chiếm khoảng 2%. Trong vòng 30 năm tới, tỷ lệ ngườicao tuổi dự báotănggấp hơn 2 lần.

Kết quả điều tra cũng cho thấy tuổi thọ trung bình của người ViệtNam trong vòng 20 năm kể từ năm 1989: Tuổithọ tăngtừ65,2 tuổi năm 1989 lên 73,2 tuổi năm 2009. Tuổi thọ trung bình củangười Việt Nam năm 2019 là 73,6 tuổi; trong đó, tuổithọ của namgiới là 71 tuổi, của nữgiới là 76,3 tuổi. Chênh lệch về tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ qua hai cuộc Tổng điều tra gần nhất hầu như

không thayđổi, duy trì ở mức khoảng 5,4 năm. Dânsô' Việt Namđã già chưa? Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, vì nó liên quan đến cácchính sách kinh tê'- xã hội, bao gồm cảansinh xãhội.Làm chậmlại thời gian chuyển đổi từ giai đoạn “già hóa dân số” sang “dân sô'già”, có cơhội phát triển cácdịch vụansinhxã hội và phát huy, chăm sóc ngườicao tuổi tốt hơn; tạo điều kiện thuận lợi đểkhống chê' sự gia tăngtỷ sô' giới tính khi sinh, sớm đưatrở lại mứccân bằngtự nhiên.

Do sự biến đổi về cơ cấu tuổi của dân sô' theo xu hướng tỷ trọng củatrẻemdưới 15 tuổigiảm và tỷtrọng của dân sô' từ60 tuổi trở lên tăng đã làm cho chỉ sô' già hóa có xu hướng tăng lên nhanh chóng trong hai thập kỷ qua. Chỉ sô'già hóa năm 2019 là48,8%, tăng

13,3 điểm phầntrămso vớinăm2009 vàtăng hơnhai lần so với năm 1999. Chỉ sô'già hóa có xu hướng tiếp tục tănglên trong những nămsắp tới. Đồngbằng sông Cửu Long và Đồng bằng sôngHồng là hai vùngcó chỉ sô' già hóa cao nhấtcả nước (tươngứnglà 58,5%và là 57,4%). Tây Nguyên là nơicó chỉsô'già hóa thấp nhất so với các vùng còn lại trên cả nước (28,1%) [4], Việt Namlà một trong sô' những quốc giacó tốc độ già hóa nhanh nhất thê' giới, với quá trình chuyển đổi từgiai đoạn già hóa dân sô' sang giaiđoạn dân sô'già diễn ra khoảng trong 15 năm.

Theo dựbáo của Bộ Y tế, Việt Nam sẽ trở thành nước có dân sô'già vào năm2038 với tỷlệ ngườitừ 60 tuổi trở lênđạt trên 20%. Đến năm 2049, tỷ lệ người caotuổi sẽ chiếm khoảng 25% dân số,tứclàcứ 4 người dân có một ngườicao tuổi. Ngân hàng Pháttriển châu Á (ADB) cho biết, nếu Chính phủ áp dụng những chính sách công nghệ phùhợp, có thể thúc đẩynăngsuất của các nền kinh tê'đang già hóa, lúc đó dân sô' già hóa có thể là một lợi ích đô'i với nền kinh tế. Xu hướng già hóa là tất yếu, nhưngChính phủ có thể biến điều này

Economy and Forecast Review

51

(2)

NGHIÊN cứa - TRAO Đổi

thànhmột khoản “lợitức bạc”. Dân số già đồng nghĩa với việc nhucầu vềhànghóa và dịch vụ củanhóm đốì tượng khách hàng cao tuổi cũng sẽ tăng theo. Ngày càng nhiều hộ gia đình cao tuổi duy trì sức mua sau khi nghỉ hưu. Từ đó, một thị trường hiệu quả dànhcho nhóm người này có thể tạora những đột phá hiệuquả để nền kinh tếcó thể tiếp tục duy trì. Thị trường ấy gọilà “Thị trườngBạc”- “Silver market”. “Thịtrường Bạc” ra đời vớimục đích tạo ranhữngsảnphẩm, dịch vụ dành cho nhóm dân sốgià. Hàng loạtmảng kinh doanh ra đời được gọi là “Thị trường Bạc”, vô sốsản phẩm dành cho người caotuổi ra đời được gọilà “Sản phẩm Bạc” [5].

Ngân hàng Phát triểnchâu Á (ADB) cho biết, nếu Chính phủ áp dụng những chính sách công nghệ phù hựp, có the thúc đẩynăng suất củacác nềnkinhtế đang già hóa, lúc đó dân sốgià hóa có thể làmột lợi ích đối vởinềnkinh tế.

Nhằm giải quyết những hệ lụy của vânđề già hóa dân số, Nghịquyết số21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 tại Hội nghịTrung ươnglần thứ 6 khóa XIIcủa Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về côngtác dân số trong tình hình mới đã định hướng chuyển đổi từ dân số kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.

Trong đó, cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổivà hệ thống ansinhxãhội, chính sách lao độngchongười cao tuổi; Tạo điều kiện cho người cao tuổi tiếp tục tham gia hoạt động kinh tế giúp giải quyết các vấn đề về xã hội, nâng cao mức sống, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa, dịch vụ, tăng quy mồ sản xuât.

Theo TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh (Quỹ Dân sốLiên hợpquốc), dânsốcaotuổi không có nghĩa hoàn toàn là gánh nặng, màđâylà cơ hội lớncho cácngành kinh tế dịchvụ cho người caotuổi. Thậm chí,ởTrungQuốc thị trường này rất triểnvọng, khi tỷ lệ người cao tuổi chi cho cácdịch vụ tới 165 tỷ USD/năm. TS. NguyễnNgọc Quỳnh cho rằng, người cao tuổi còn là một lực lượng lao động cho xãhội, với khoảng 46% người cao tuổi ViệtNam vẫn đang làm các công việc được trả lương.

Do đo, để tận dụng được nguồn nhân lực này cần tạo thuận lợi cho người cao tuổi tiếp cận với vốn tín dụng để pháttriển sản xuấtkinh doanh [6],

Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đãbắtđầu áp dụng tăng tuổi nghỉ hưu để tận dụng năng lực, trình độ, chuyênmôncủalớp người caotuổitrong bối cảnhdân số đang già hóa. Trongnhữngnăm gần đây, số người nhóm tuổi 60-64 tham gia hoạt động kinh tếở Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Năm 2009, mới chỉ có

1,33triệu người ở nhómtuổi60-64 thamgia lực lượng lao động. Tuy nhiên, kết quả điều tra biến động dân Si) 2017 của Tổng cục Thông kê (công bốchính thức tháng 6/2019) tỷ lệ người cao tuổi 60+ là 12,7%, như vậy ước tính sốngười cao tuổi củaViệt Namnăm 2019

đãlên đến 12,22 triệungười.Tỷlệ người cao tuổi 65+ là 8,3%, ước tính sốngười cao tuổi từ 65 tuổi trở lên năm 2019 là 7,99 triệu người. Có thể thấy, nhóm 60- 64 tuổi tham gia hoạtđộng kinhtế không ngừng tăng cả về số tuyệtđối lẫn tương đốivà không có lý do gìđể quá trìnhnày khôngnên tiếp tục, cùng với việckéodài thời gian làm việcsẽgópphần giải quyết

“vấn đề”già hóa dânsôiNhư vậy, cùng với việc khuyến khích người cao tuổi thamgiahoạtđộng kinh tế , đặcbiệt là những người có trình độ chuyên môn kỹ thuậtcao, góp phần duy trì sốlượng lao động trong nền kinh tế, thì tạo việc làm nhằm xóa bỏ tình trạng thiếu việc làm vàgiảm thiểu thấtnghiệp cũng là những giải pháp góp phầngiảm tỷ số phụ thuộc chung, baogồm cả phụthuộcgià.

Có thể nói, già hóa dân số đang trở thành một trong những chủ đềđược quan tâm không chỉ ở ViệtNammà trên toàn thếgiới. Già hóadân số sẽ tác động đến hầu hết cáclĩnh vực của đờisốngxãhội, bao gồm: thị trường lao động, tài chính, nhu cầu về các hàng hóa, dịch vụ, giáo dục, an sinh xãhội vàchăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi... Đặc biệt, chỉ sốgià hóa của 4 vùng kinh tế trọng điểm là cao nhất trongcả nước. Điềunày sẽ tiềm ẩn nguy cơthiếu nguồn nhân lực tại chỗ ở các vùngnày trong thời gian tới, mà giải pháp chắc là phải thu hút lực lượng lao động di cư.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN

T

ới

Thứ nhất, cần cải thiện năng suất và nhu cầu chuyển dịch theo ngành:

Lao động người cao tuổi có một vị trí đặc biệt, bởi họ là những ngườicó kinh nghiệm và các kỹ năng để làm việc có ý thức, chấp hành kỷ luật lao động, am hiểu lao động và ít bị tai nạn lao động.

Thị trường lao động, an sinh xã hội và cải cách hệ thông thuế sẽ khuyến khích người cao tuổi tiếp tục làm việc, cần phân bổlaođộng từ khu vựcnông nghiệp năng suất thấp sang khu vựcdịch vụ và công nghiệp năng suất caohơn.Trong số các loại hình du lịch, du lịch nghỉ dưỡng đang trở thành một phân khúc hấp dẫn bởi nhữngtiềm năng và lợi thếrất lớnở cả phía cung lẫnphía cầu. Đời sốngcông nghiệp ngày càng bận rộn,công việc áp lực, căng thẳng; xã hội ngày một xô bồ và phức tạp; không khí, nguồn nước và

52

Kinh tế Dự báo

(3)

kiiih tế là hựháo

thực phẩm không an toàn; nhiều bệnh tật phát sinh và sự sa sút về sức khỏe, trílực, thể lực... khiếnnhucầunghỉ ngơi, giải trí, thư giãn, dưỡng bệnhngày càng tănglên.

Chính phủ cần có những chương trình hành động nhằm biến các thách thức từ giá hóa dân sô' thành cơ hội, để người caotuổi nhậnratiềmnăng của bản thân và tham gia đầy đủ vào mọi khía cạnh của cuộcsông,đặc biệt làgópphần tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, Chính phủ cần thay đổi tư duy về giáo dục và đào tạo kỹ năng:

Ngày nay, người cao tuổi có trình độ học vấn cao hơn và khỏe mạnh hơn so với trong quá khứ. Việc triển khai công nghệ tự động hóa và nâng cao năng suất lao động để bổ sung chonguồn cung lao động thấp đối với công việc hàng ngày.

Chính phủ cần có tư duy lại về giáo dục và đào tạo kỹ năng, bao gồm: việc học tập suốt đời, cũng như ứng dụng các công nghệ, phương pháp giúp công việc và môi trường làm việc trở nên phù hợp hơn với người lao độngcao tuổi. Học tập suốt đời cần được coi trọng là một chủ trương quan trọng để tăngnăng suất lao động hay thặng dư sản xuất,từ đó có tích lũy và phânbổ nguồnlực chăm sóc người cao tuổi. Người lao động nên hòa nhập vớicuộc sông cộngđồng và tham gia tích cực trong việc xây dựng các chính sách ảnh hưởng đến lợi ích của họ.

Thứ ba, cải thiện công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổivà hệ thôngan sinh xã hội: Chính phủ cần hỗ trợ người cao tuổi nhận thức được đầy đủ các quyền của họ, đó là quyền được hưởng đờisốngvật chất và tinh thần một cách cơ bản, người dân chủ động chuẩn bị cho tuổi già. Đồng thời, chủ động xây

dựng, khuyến khích tư nhântham giađầu tư mạng lưới y tế dành cho ngườigià, thúc đẩy đào tạo nguồnnhân lựctrong lĩnh vựcchăm sóc y tế chongười già; khuyến khích các mô hình quỹ hưu trí tư nhân và các quỹ bảo hiểm y tế dành cho người già... Bên cạnh đó, cần các chính sách khuyến khích lối sống lành mạnh, thực phẩm an toàn, tăng cường ứng dụng công nghệ, thúc đẩy các nghiên cứu y học tuổi già. Gia tăng tuổi thọ giúp con người khỏe mạnh hơn, đồng nghĩa với việc chitiêu cho chăm sóc y tế thấp hơn.

Thứ tư, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia thích ứng với già hóa dân sô'thành công: Đê’ đảm bảo an sinh xã hội khi dân sô' già hóa,Việt Nam một mặt phát triển hệ thông các chính sách bảo hiểm xã hội và cần học hỏi thêm các chính sách hiệu quả của các quốc giatrên thê' giới, làmsao khuyến khích người dânthamgia bảo hiểm xã hội ngay từkhi còn trẻ, còn sức lao động, kể cả ở khu vực nông thôn, thực hiện bình đẳng giới. Bên cạnh đó, khuyên khích cả những khu vựcphichính thức cũngphải có trách nhiệmgiữa chủ sử dụng lao động và người lao động để tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sao cho tăng diện bao phủ của chính sách bảohiểm xã hội. cải cách chính sách tín dụngđể lao động cao tuổithuận lợi tiếp cận và vay vốn tự tạoviệc làm.

Thứ năm, cần nâng cao nhận thức, thay đổi quan điểm của xã hội về lao động cao tuổi, những thay đổi về mặt nhân khẩu học, cũng như những biện pháp giải quyết vấn đềgià hóa dân sô', cần có phương án, chương trình để hỗ trợ người cao tuổi đánh giá được khả năng của mình có thể làm việc gì phù hợp, cung cấp thông tin về thị trườnglaođộng, tổ chứccác sàn giao dịch để người lao động cao tuổi có thểtiếp cận được thị trường laođộng. Tạo điềukiệnpháttriển việc làm bán thời gian như mộtcáchtạo việc làm cho người cao tuổi. Chính sách lao động cho người cao tuổi nhưng vẫn tham giahoạt động kinh tê' hiệu quả sẽ giúp giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao mức sông, góp phần thúc đẩy hoạt động sảnxuấthànghóa, dịch vụ, tăng quy mô sản xuất và giúp tăng trưởng kinh tế.o

TÀILIỆU THAMKHẢO

1. Quốc hội (2009). Luật Người cao tuổi ViệtNam, sô' 39/2009/QH12,ngày 23/11/2009 2. Tổng cục Thống kê (2020). Tổng điều tra dân sô'vànhà ở 2019

3. Tổng cục thống kê, Quỹ Dân sô'Liên hợp quốc (2016). Dựbáo dânsố Việt Nam 2014-2049, Nxb Thông tấn

4. Nguyễn Quốc Anh(2020). Từ xu hướng già hóadânsốnhanh ở Việt Nam cơ hộivà thách thức, truy cập từ http://tuyengiao.vn/dan-so-va-phat-trien/tu-xu-huong-gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet- nam-co-hoi-va-thach-thuc-127050

5. N. Bình (2019). Dânsố già có thểlà "lợi thế" cho các nền kinh tê' châu Á, truy cập từ https://

tuoitre.vn/dan-so-gia-co-the-la-loi-the-cho-cac-nen-kinh-te-chau-a-20191113175651529.htm 6. Nguyễn Phong (2020). Biến thách thức giàhóadânsố thành cơ hội, truycập từ . net.vn/dan-so/bien-thach-thuc-gia-hoa-dan-so-thanh-co-hoi-2020080715390249.htm

https://giadinh

7. Gavrilov, L. A., and p. Heuveline (2003). Aging of population, In The Encyclopedia of Population

EconomyandForecastReview

53

Referensi

Dokumen terkait

dân số già đi sẽ gia tăng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc cho người già, nếu như ở phương Đông, theo truyền thống, cha mẹ khi tuổi cao sức yếu sẽ được con cái phụng dưỡng tại nhà thì ở

Nam giới vì lao động bên ngoài gia đình, làm việc có hưởng lương nhiều hơn nữ giới nên ưu tiên cho việc khám chữa bệnh nhiều hơn, để đảm bảo sức khỏe làm việc và duy trì thu nhập cho

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 18, Số 3 2021 CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN DỰA VÀO TRƯỜNG HỌC: KINH NGHIỆM CỦA THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Qua phân tích hồi quy logistic đơn biến, nghiên cứu này đã tìm thấy mối liên quan giữa sự hài lòng của người bệnh ngoại trú về chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói chung tại Khoa

Căn cứ kết quả khảo sát 120 người bệnh và người nhà ở Bảng 2 cho thấy: Người bệnh và người nhà đều có sự đánh giá cao bộ tiêu chí khảo sát thực trạng năng lực chăm sóc sức khỏe người

Ở Việt Nam đã có một số dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho NCT, tuy nhiên phần lớn các dịch vụ này mới được triển khai tại nhà hoặc tại các cơ sở dưỡng lão mà NCT thường phải ở đó cả ngày

Hành vi đạo đức của điều dưỡng viên đối với bệnh nhân BN ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự cải thiện sức khỏe của bệnh nhân, vì vậy với điều dưỡng viên không chỉ nâng cao chuyên môn mà còn phải

Nhiễm khuẩn xuất hiện với mật độ cao tại những cơ sở khám chữa bệnh không tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình thực hành vô khuẩn cơ bản trong chăm sóc, điều trị người bệnh và ở những nơi