BẢO ĐẢM AN NINH MÔI TRƯỜNG ĐỂ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
NGUYỄN THỊMIÉN*
* TS Nguyễn Thị Miền, Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Việt Nam trong những năm qua, bên cạnh kết quả đạt được về phát triển kinh tế, tình trạng tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, đa dạng sinh học bị suy giảm, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp. Tình trạng này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Do đó, cần nghiên cứu để đưa ra các giải pháp bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững kinh tế nước ta trong thời gian tới.
Từ khóa: an ninh môi trường, phát triển bền vững kinh tế.
In recent years, despite achievements in economic development, Vietnam has faced serious environmental challenges such as over-exploitation of natural resources, frequent natural disasters, biodiversity loss, environmental pollution and climate change, especially in areas where economic activities are concentrated. This situation has negatively affected the sustainable development of the economy. Therefore, it is necessary to do research and come up with solutions to ensure environmental security in order to sustainably develop our country's economy in the near future.
Keywords: environmental security, sustainable economic development.
Ngày nhận: 8/1/2022 Ngàyđánh giá, phản biện: 15/1/2022 Ngày duyệtđãng: 20/1/2022
1. Nhận thức về bảo đảm an ninh môi trường với phát triển bền vững kinh tế
Phát triển bền vững về kinh tế là sự phát triển kinh tế của thế hệ hôm nay không làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của thế hệ mai sau. Tức là thế hệ hôm nay phát triển kinh tế không dựa trên khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, không làm suy giảm đa dạng sinh học, không gây ra các sự cố môi trường, không làm gia tăng phát thải khí nhà kính... mà luôn có ý thức tái tạo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn sự đa dạng sinh học cho các thế hệ mai sau.
Phát triển kinh tế bền vững được thể hiện qua chất lượng tăng trưởng được nâng cao, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng hợp lý, tích cực.
Môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên (không khí, đất, nước, ánh sáng, núi, sông, hồ, biển, hệ sinh thái, thảm thực vât, cảnh quan
thiên nhiên...) và các yếu tố vật chất nhân tạo (khu dân cư, khu sản xuất, di tích lịch sử...).
Trong đó, môi trường tự nhiên tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào Ý chí của con người, môi trường nhân tạo tồn tại phụ thuộc vào ý chí của con người. Còn an ninh môi trường (ANMT) là trạng thái mà hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường cân bằng nhằm bảo đảm điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các loài sinh vật sống trong đó. ANMT chính là bảo vệ môi trường sống của con người. ANMT không được bảo đảm khi tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, đa dạng sinh học bị suy giảm.
Giữa môi trường và phát triển kinh tế có mối quan hệ biện chứng: môi trường là địa bàn và đối tượng của phát triển kinh tế, còn phát triển kinh tế là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Đe phát triển kinh tế bền vững, tăng trưởng kinh tế phải
20 I TẠP CHÍKINH TÊ VÀ QUẢN LÝ I số 41 (01-2022)
gắn với bảo vệ, sử dụng hợp lý và hiệu quả tài nguyên môi truờng. Thực tế cho thấy, môi truờng có vai trò nền tảng đối với sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Vì vậy, hài hòa giữa tăng truởng kinh tế với bảo vệ môi truờng hay bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế bền vững là cơ sở đầu tiên để bảo đảm phát triển bền vững nói chung, trong đó có kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu, bảo đảm ANMT nhằm phát triển bền vững về kinh tế là sự chủ động của con người trong việc lựa chọn cách thức sử dụng các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế nhằm vừa bảo vệ được môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, vừa tăng trưởng kinh tế bền vững.
Điều này có nghĩa là trong quá trình phát triển, bên cạnh khai thác tài nguyên thiên thiên phục vụ tăng trưởng kinh tế, con người phải chú trọng tái tạo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, qua đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Theo đó, tăng trưởng kinh tế phải gắn với sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tái tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Do vậy, để bảo đảm ANMT nhằm phát triển bền vững về kinh tế, cần phải thực hiện ba vấn đề sau:
Một là, tăng trưởng kinh tế phải gắn với sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên vừa là môi trường, vừa là địa bàn để con người thực Ihiện các hoạt động kinh tế, trong đó, đất đai, nguồn nước, khoáng sản, rừng, biển, thảm thực vật... là các yếu tố quan trọng song lại khan hiếm. Các yếu tố này vừa là tài nguyên, vừa là môi trường để con người thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, để bảo lảm ANMT, các ngành, lĩnh vực kinh tế, trong Ịuá trình tăng trưởng phải gắn với sử dụng iết kiệm, hiệu quả các nguồn lực, trong đó có tài nguyên thiên nhiên.
Hai là, tăng trưởng kinh tế phải gắn với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng íinh học. Chất lượng tài nguyên thiên nhiên
và sự đa dạng sinh học là nguyên liệu phục vụ hoạt động kinh tế hay tăng trưởng kinh tế.
Song để đạt được tăng trưởng kinh tế, nhiều nơi con người phá rừng, khai thác cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, gây ô nhiễm hoặc hủy hoại môi trường; sử dụng các loại hóa chất, như: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học, các chất kích thích sinh trưởng làm suy thoái tài nguyên đất, giảm đa dạng sinh học. Tăng trưởng kinh tế bằng cách này sẽ dẫn đến làm mất ANMT, tác động tiêu cực tới sự phát triển bền vững của xã hội loài người. Do đó, để bảo đảm ANMT, tăng trưởng kinh tế phải gắn với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ sự đa dạng sinh học.
Ba là, tăng trưởng kinh tế phải gắn với ứng phó biến đổi khí hậu. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, hơn 90% nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu là do hoạt động của con người làm gia tăng phát thải khí nhà kính gây ra. Ngược lại, biến đổi khí hậu với những biểu hiện như nước biển dâng, thời tiết cực đoan, hạn hán khốc liệt... đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh đó, tăng trưởng kinh tế, một mặt, phải hướng đến các phương án sản xuất thân thiện với môi trường, ít gây tổn hại đến môi trường nhằm giảm phát thải khí nhà kính, qua đó, làm chậm tốc độ biến đổi khí hậu. Cụ thể, trong từng ngành, từng lĩnh vực tuỳ vào đặc điểm riêng mỗi ngành, lĩnh vực sử dụng các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm giảm nhẹ thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra, nhờ đó, vừa bảo đảm môi trường vừa tăng trưởng kinh tế hiệu quả và có chất lượng.
2. Bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế ở Việt Nam
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế đã bước đầu gắn với sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Trong giai đoạn 2011-2020, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường; không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế; thực hiện tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh và thực hiện đổi
SỐ 41 (01-2022) I TẠP CHÍ KINH TÊ VÀ QUẢNLÝ I 21
ĐƯA NGHỊ QUYẾT CÙA ĐÀNGVÀO cuộc SÓNG
mói mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng dựa vào sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nên hầu như các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đã sử dụng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên. Chẳng hạn, trong nông nghiệp, đã ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, như: đưa giống mới, thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi để gia tăng năng suất, bên cạnh đó, đầu tư kiên cố hóa hệ thống thủy nông, nâng cao năng lực tưới tiêu. Những biện pháp trên đã làm hiệu quả sử dụng đất, nước trong sản xuất nông nghiệp của cả nước tăng qua các năm: giá trị sản phẩm/ha đất trồng trọt tăng từ 72,2 triệu đồng/ha năm 2011 lên 102,8 triệu đồng/ha năm 2020 [1], nuôi trồng thuỷ sản từ 135,2 triệu đồng/ha năm 2011 lên 237,8 triệu đồng/ha năm 2022 [2], Ngành công thương đã triển khai một cách đồng bộ các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, đầu tư và cải tạo lưới điện, cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng ở các ngành sử dụng nhiều năng lượng. Nhờ đó, hệ số đàn hồi điện/GDP đã giảm từ mức 1,9 (2011-2015) xuống 1,43 (2016-2020) [3]; tỷ lệ tổn thất truyền tải và phân phối điện liên tục giảm, từ 10,15% năm 2010 xuống 6,5%
năm 2020 [4]; tỷ lệ tiết kiệm năng lượng của Việt Nam đạt 5,65%, tương đương gần 11,3 triệu tấn dầu quy đổi [5], Với hệ số đàn hồi điện/GDP giảm, hiệu suất sử dụng năng lượng giảm cho thấy, ngành công thương đã bước đầu sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên năng lượng, qua đó, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần quan trọng vào bảo vệ môi trường.
Với cách thức sử dụng nguồn lực vào tăng trưởng các ngành như trên nên mặc dù điều kiện trong nước và thế giới có nhiều bất ổn, song Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định. Cụ thể, các năm 2011-2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam ở mức 5,9%;
các năm 2016-2020 ở mức 6%, tính chung bình quân cả giai đoạn 2011-2020 là 5,95%/
năm [6] đã đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Đáng chú ý, năm 2020, dưới tác động của đại dịch Covid-19, tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đều sụt giảm nghiêm trọng, thậm chí tăng trưởng âm, thì Việt Nam vẫn đạt 2,91%, được xếp vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Đặc biệt, với việc thực hiện chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, tăng trưởng dựa trên nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, dựa trên đổi mới sáng tạo nên tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã ngày càng dựa nhiều hơn vào tăng TFP Nếu như giai đoạn 2011-2015, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế ở mức 33,6% thì đến 2016-2020 là 45,2% và tính chung giai đoạn 2011-2020 là 39,3% [7], Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng hợp lý và tiến bộ:
giảm tỷ trọng các ngành khai thác tài nguyên, tăng dần các ngành có lợi thế và giá trị gia tăng cao. Sự gia tăng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP, các ngành có lợi thế và giá trị gia tăng cao cho thấy, Việt Nam đã sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực, trong đó có nguồn lực tài nguyên thiên nhiên vào tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế của nước ta đang dần chuyển sang chiều sâu và ngày càng bền vững.
Hai là, tăng trưởng kinh tế đã từng bước gắn với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình sản xuất, kinh doanh phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã chú trọng đến các biện pháp tái tạo và bảo vệ sự đa dạng sinh học. Ngành nông nghiệp đã chú trọng đến các phương thức canh tác vừa góp phần tăng nguồn hữu cơ cho đất, qua đó, tái tạo và phục hồi tài nguyên đất, bảo vệ sự đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao hiệu quả sản xuất. Cụ thể, ngành nông nghiệp đã phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Đến năm 2019, cả nước có 237 nghìn ha sản xuất nông nghiệp
22 I TẠP CHÍKINH TẾ VÀQUẢN LÝ I số 41 (01 -2022)
hữu cơ, tăng 213,6 nghìn ha so với 2016 [8], có 46/63 tỉnh, thành tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ với 17.168 triệu nông dân và 97 doanh nghiệp tham gia [9]; có gần 120 nghìn ha được chứng nhận VietGAP [10], Ngành công thương, bên cạnh việc áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất làm giảm tiêu hao nguyên nhiên liệu, còn chú trọng phát triển năng lượng tái tạo như: thủy điện, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối. Đốn năm 2020, cả nước có 113 dự án điện mặt trời, điện gió tổng công suất trên 5.700MW được giải tỏa hết công suất. Ngoài ra, đến tháng 8/2020, tổng công suất các nguồn điện gió và điện mặt trời được phê duyệt bổ sung quy hoạch lên gần 23.000 MW trong đó, riêng điện mặt trời khoảng 11.200MW, điện gió 11.800 MW. Hiện nay, cả nước đã đưa vào vận hành 102 dự án điện mặt trời với tổng công suất là 6.314MWp [11], Với việc sử dụng các biện pháp trên trong sản xuất, kinh doanh cho thấy, ngành công thương cũng đã chú trọng tái tạo tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm ANMT nên đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế ngày càng bền vững hơn.
Ba là, tăng trưởng kinh tế đã gắn với thích ứng với biến đổi khí hậu. Các ngành, lĩnh vực kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh đã có sự điều chỉnh cả về thời gian, kỹ thuật sản xuất để thích ứng với biến đổi khí hậu, nhờ đó, bảo đảm tăng trưởng kinh tế của ngành nói riêng và của nền kinh tế nói chung đã bền vững hơn.
Trong nông nghiệp, ngành nông nghiệp kết hợp với các địa phương hướng dẫn nông dân áp dụng nhiều biện pháp canh tác mới góp phần giảm được thiệt hại do biến đổi khí hậu, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm dịch bệnh, nâng cao chất lượng nông sản nên hiệu quả cao hơn hẳn so với trước kia. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp còn chỉ đạo các lịa phương trong cả nước xử lý các chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Việc xử ý các chất phát thải từ hoạt động sản xuất
nông nghiệp (đốt rơm rạ, bao bì chứa phân bón, chai lọ đựng chất bảo vệ thực vật; thức ăn dư thừa, phân gia súc, gia cầm, nước rửa chuồng trại...) đã góp phần giảm ô nhiễm môi trường không khí, đất và nước; giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ sức khoẻ người dân.
Ngành công thương thực hiện chính sách dán nhãn sinh thái/nhãn xanh, nhãn tiết kiệm năng lượng và các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, ngành sản xuất các sản phẩm sinh thái, thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, Bộ Công thương đã triển khai Chiến lược sản xuất sạch hơn đến 2020, xanh hoá lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Việc thực hiện các chính sách và biện pháp trên của ngành công thương đã góp phần giảm phát thải cac-bon, làm chậm tốc độ biến đổi khí hậu, qua đó, góp phần vào bảo đảm ANMT.
Bên cạnh kết quả đã đạt được trên, bảo đảm ANMT để phát triển bền vững kinh tế ở nước ta đang ra một số vấn đề cần phải khắc phục, nếu không sẽ ảnh hưởng đến phát triển bền vững kinh tế nói riêng và phát triển bền vững của đất nước nói chung. Cụ thể:
Tăng trưởng kinh tế đã và đang làm gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm tài nguyên thiên thiên. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sức ép về môi trường đang đe dọa sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn của Việt Nam.
Trong những năm qua, mặc dù mô hình tăng trưởng kinh tế đã có sự chuyển dần sang chiều sâu, song về cơ bản vẫn là tăng trưởng theo chiều rộng, cùng với việc chưa quyết liệt thay đổi trong thu hút đầu tư, thiếu quy hoạch trong phát triển đô thị đã làm cho ô nhiễm môi trường gia tăng, tài nguyên bị khai thác cạn kiệt. Tình trạng ô nhiễm môi trường từ nước thải công nghiệp và đô thị, một mặt, đã dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng về sức khỏe, đặc biệt đối với trẻ em và người cao tuổi, mặt khác, tác động rất lớn đến môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất, ô nhiễm không khí. Tại nhiều khu công nghiệp,
SỐ 41 (01-2022) I TẠP CHÍ KINH TÊ VÀQUẢN LÝ I 23
ĐƯA NGHỊ QUYẾT CÙA ĐÃNG VÀO cuộc SÓNG
làng nghề, ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp, chế biến nông sản đã làm nhiễm độc các nguồn nước, tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế. Chính việc chưa thực hiện được mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, cùng với mức độ công nghiệp hóa, đô thị hóa ngày càng cao; việc khai thác tài nguyên thiên nhiên 0 ạt, thiếu kiểm soát; công nghệ, thiết bị máy móc lạc hậu, tiêu tốn nhiều nhiên nguyên liệu; cơ sở hạ tầng thu gom và xử lý chất thải thiếu, không được đầu tư đồng bộ đã dẫn đến chất thải cũng như ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, gây áp lực lên môi trường ngày càng cao và cạn kiệt tài nguyên.
Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng biến đổi khí hậu, giảm đa dạng sinh học. Hoạt động sản xuất của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế cùng với đô thị hóa đâ làm gia tăng phát thải khí nhà kính, đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu ở nước ta. Cụ thể, tình trạng rác thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp sau khi thu gom chưa được xử lý đúng cách và triệt để, tỷ lệ chất thải trong nông nghiệp được thu gom, xử lý theo quy định còn thấp đã làm gia tăng phát thải khí nhà kính, qua đó, góp phần đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, để phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều diện tích rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ đã bị chặt để trồng cà phê, cao su; nhiều diện tích rừng ngập mặn cũng đã bị thu hẹp để mở rộng diện tích nuôi tôm, nuôi cua đã làm suy giảm cả diện tích lẫn chất lượng rừng - một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng tần suất, quy mô và cường độ các thiên tai như: lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra trong những năm qua cũng như làm mất đi sự cân bằng sinh thái, hủy hoại sự đa dạng sinh học vùng ngập nước ven biển và gia tăng phát thải khí nhà kính. Trong ngành công thương, trình độ công nghệ, thiết bị lạc hậu còn chiếm tỷ lệ cao cùng với hệ thống pháp luật và chính sách về bảo vệ môi trường chưa phù hợp với thực tiễn và thiếu ổn định
nên vẫn còn nhiều "sự cố" "điểm nóng" về môi trường, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Theo dự báo, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. ô nhiễm môi trường cùng với biến đổi khí hậu, sẽ làm suy giảm 5% GDP mỗi năm của đất nước.
3. Giải pháp bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế Việt Nam
Để bảo đảm ANMT phát triển bền vững kinh tế ở nước ta trong những năm tới, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các tố chức chính trị - xã hội cũng như doanh nghiệp, người dân về bảo đảm ANMT để phát triển bền vững kinh tế. Có thể nói, đây là giải pháp quan trọng. Muốn vậy, cần phải đẩy mạnh truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, lồng ghép trong các chương trình bồi dưỡng, chương trình học các cấp phổ thông. Từ đó, làm cho ANMT trở thành ý thức và hành động của mỗi thành viên trong cộng đồng, trở thành nếp sống của mỗi thành viên trong xã hội, làm cho ANMT thực sự trở thành một bộ phận cấu thành không thể thiếu của an ninh quốc gia. Quán triệt quan điểm không đầu tư bằng mọi giá, không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế. Ngoài ra, tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện đánh giá tác động môi trường trong mọi dự án đầu tư.
Lồng ghép ANMT trong các chính sách phát triển kinh tế, xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường và ANMT.
Trước mắt, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các bộ, ngành có thẩm quyền cụ thể hóa Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi 2020 nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời những chủ trương của Đảng cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện mới: chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập kinh tế và biến đổi khí hậu. Trong quá trình hoàn thiện, chú trọng đưa môi trường cùng với kinh tế, xã
24 I TẠP CHÍKINH TÊ VÀ QUẢN LÝ I số 41 (01-2022)
hội phải là ba trụ cột của phát triển; sao cho ba trụ cột này có tác động qua lại lẫn nhau, không tuyệt đối hóa trụ cột nào. Bên cạnh đó, hoàn thiện quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường theo hướng rà soát, bổ sung hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam phù hợp với khu vực và quốc tế, đồng thời, xây dựng lộ trình áp dụng hàng rào kỹ thuật ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường, dịch chuyển công nghệ lạc hậu vào nước ta. Thành lập cơ quan chuyên trách bảo đảm ANMT quốc gia và tăng cường năng lực của cơ quan này. Xem xét, kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến các địa phương để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong điều kiện mới.
Thứ ba, xây dựng năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai thông qua ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ 4.0 nhằm nâng cao năng lực dự báo khí tượng, thủy văn với giám sát, cảnh báo khí hậu, qua đó, giảm thiệt hại do thiên tai gây ra. Chủ động phòng ngừa, giám sát, kiểm soát các dự án, nguồn thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
Vì vậy, cần huy động sự vào cuộc của tất cả các địa phương trong việc rà soát, kiểm soát và giám sát chặt chẽ các dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường thuộc phạm vi quản lý: bảo đảm các dự án, các cơ sở sản xuất vận hành an toàn về môi trường, không để xảy ra sự cố môi trường. Kiện toàn và vận hành hiệu quả đường dây nóng về ô nhiễm môi trường từ Trung ương đến địa phương để giải quyết những vấn đề ô nhiễm môi trường ngay từ địa bàn, cơ sở. Ngoài ra,
lồng ghép kịch bản biến đổi khí trong các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước.
Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường. Ngăn chặn nạn phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, săn bắt động vật, nguồn lợi thúy sản. Kiên quyết cấm nhập khẩu rác thải công nghiệp; cấm sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, bảo quản thực phẩm; xử lý nghiêm các trường hợp cố tình xả thải chưa qua xử lý qua môi trường.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, thực hiện tăng trưởng xanh, tăng trường kinh tế tuần hoàn. Tiếp tục nhất quán chủ trương coi khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt; thực hiện chuyển đổi số quốc gia; ứng dụng công nghệ số vào phát triển các ngành, lĩnh vực; phát triển một số ngành khoa học mũi nhọn, phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Khuyến khích các chủ thể kinh tế đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh thông qua các chính sách hỗ trợ vốn vay, hỗ trợ mặt bằng, hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ cho chủ doanh nghiệp, người lao động ở các doanh nghiệp, hộ gia đình, qua đó, nâng cao năng lực nghiên cứu cũng như chuyển giao, tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật đưa vào sản xuất.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
77, [2] https://www.gso.gov.vn: Niên giám thống kê 'tóm tắt) 2020, tr.295.
[3], [4], [5], [11] https://moit.gov.vn: Những kết quả nổi J lật của ngành Công thương thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020, ngày
02/01/2022.
16] Tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê các năm 2011-2020
[7] Khánh Giang: Đổi mới sáng tạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, https//nhandan. vn, ngày 12/02/2021.
[8], [9] https://www.gso.gov.vn, Thông cáo báo chí về kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giũa kỳ năm 2020
[10] Phúc Nguyễn: Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng VietGAP https://nhandan. vn, ngày 18/01/2020.
SỐ 41 (01-2022) I TẠPCHÍKINH TÊVÀ QUẢN LÝ I 25