NGHIÊN CỨU Tíino DỔI
CHIÊN THẮNG ĐAK Pơ
- "TRÂN ĐIỆN BIÊN PHỦ" CỦA TẢY NGUYÊN
NGUYỄN DUY BÍNH
Khoa Lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội NGUYỄN VÃN BIỂU
Viện Sử học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam PHẠM THỊ THÚY NGA
Khoa Lịch sử, Trưởng Đại học sư phạm Hà Nội
Nhận bài ngày 20/5/2021. Sửa chữa xong 30/5/202 ỉ. Duyệt đăng 05/6/2021.
Abstract
Based on a number of valuable historical documents of French and the generals who participated in and commanded the battle on Route 19-An Khe, the paper will contribute to clarifying the historical events occurring nearly 70 years ago- Dak Po victory of wisdom, ingenuity, courage and creativity of heroic arm of Vietnam making the Dien Bien Phu victory being famous in five continents, shaking the world.
Keywords: Dak Po Victory, Central Highlands, Route 19-An Khe.
1. Bối cảnh trước khi trận đánh nổ ra
Tháng 12-1952, Liên khu ủy mở chiến dịch Đông Xuân 1952 - 1953 nhằm tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Trọng điểm chiến dịch của chủ lực Liên khu là An Khê. Bộ Chỉ huy chiến dịch được thành lập, do đồng chí Nguyễn Chánh, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu V trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến địch'”. Lực lượng tham gia gốm Trung đoàn 108,803, Tiểu đoàn độc lập 40 chủ lực Liên khu V và Trung đoàn địch hậu 120 của tỉnh cùng với bộ đội, dân quân du kích huyện An Khê và Đak Bớt(2) phối hợp tác chiến và phục vụ chiến dịch.
Đêm 13-01-1953, quân ta đổng loạt tấn công cứ điểm Tú Thủy, Cửu An, bốt gác Eo Gió, mở màn chiến dịch. Trong các ngày sau đó, quân chủ lực có sự phối hợp với bộ đội, du kích địa phương bao vây bức rút đồn Konlía, cứ điểm Thượng An, bốt gác đầu đèo An Khê, diệt hai tiểu đoàn tiếp viện, Tiểu đoàn dù số 1... Đến ngày 25-01 -1953, hoạt động chủ lực của ta tại An Khê kết thúc.Tại huyện Đak Bớt, ta phát động quần chúng nổi dậy phá khu dồn 20 làng quanh cứ điểm Krong Ktu, Bơbah, chuyển vể phía đông sông Ba... Thất bại trong chiến dịch Đông Xuân 1952 -1953 trên chiến trường An Khê, thực dân Pháp đẩy mạnh tăng quân, củng cố đổn bốt trên trục đường 19, lập thêm cứ điểm mới. Ở Đak Bớt, địch mở nhiều cuộc càn quét vùng căn cứ, vùng du kích, cơ quan, kho tàng của huyện.
Ngày 27 tháng 11 năm 1953, trong Báo cáo của Tổng Quân uỷ trình Bộ Chính trị về tình hình địch, ta ở Liên khu 5, chủ trương chiến lược và kế hoạch công tác quân sự của ta sắp tới ở Liên khu 5, đã nhận định: "Liên khu 5 hiện là vùng tự do quan trọng nhất của ta... do vị trí chiến lược rất quan trọng của Liên khu, đứng vể ta mà nói, nếu tổ chức và phát huy được lực lượng của nhân dân và quân đội ở đó thì vùng tự do Liên khu 5 có thể trở nên một căn cứ có điểu kiện để uy hiếp Tây Nguyên... Ấm mưu của địch hiện nay một mặt là tiếp tục củng cố vừng tạm bị chiếm, nhất là Tây Nguyên, vì Tây Nguyên là vùng chiến lược quan trọng nhất của cà chiến tranh miển Nam Đông Dương... sâp tới, địch có thể mở rộng phạm vi chiếm
1) Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đak Pơ, Lịch sử Đảng bộ huyện ĐakPơ (1945-2015), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 137.
2) Cuối năm 1950, tinh Gia - Kon quyết định sáp nhập một số khu thành các huyện, những khu còn lại không sáp nhập cũng được đổi tên:
khu 4 và khu 7 nhập thành huyện An Khê; khu 5 và khu 6 nhập thành huyện Đak Bơt; khu 8 đổi tên thành huyện Plei Kon; khu 1 đổi thành huyện Đak Glei; khu 2 đổi thành huyện Đak Tô; khu 3 đồi thành huyện Kon Plông. Ban Chấp hành Đảng bộ tinh Gia Lai, Lịch sử Đáng bộ tình Gia Lai, tập 1 (1945-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
ĩhànss/aoa 3
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
đóng từng bước ra vùng tự do... Chúng có thể đánh chiếm đường số 19 từ An Khê đến Quy Nhơn và mở rộng phạm vi kiểm soát ở phía nam Liên khu"ữ}.
Trước thất bại của cuộc chiến tranh xâm lược ngày càng sa lầy ở Đông Dương, thực dân Pháp triển khai kế hoạch Nava. Trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở chiến dịch Át- lan-ta đánh chiếm vùng tự do Liên khu v3(4) 5 của ta: "Cuộc hành quân "Atlante", có mục đích tiêu diệt Liên khu V, được lên kế hoạch để thực hiện từ tháng giêng đến tháng 9 (năm 1954). Đây là khoảng thời gian duy nhất trong năm có điều kiện thời tiết thuận lợi"{sì. Xuất phát từ chủ trương, chỉ đạo của Đảng ta, tháng 12- 1953, Hội nghị Liên khu và Đảng ủy Bộ Tư lệnh Liên khu quyết định tập trung toàn lực lượng tấn công lên Tây Nguyên, chủ động phá kế hoạch Át-lan-ta của địch. Đảng ủy và Ban Chỉ huy chiến dịch được thành lập do đóng chí Nguyễn Chánh làm BíthưĐảng ủy,Tư lệnh kiêm Chính ủy. Ban Chỉ huy mặt trận An Khê được thành lập gồm các đổng chí Nguyễn Hồng Ưng, đồng chí Đỗ Hằng. Ở địa bàn Đak Bớt, Ban tác chiến huyện được thành lập gồm đổng chí Lý Chánh, Tham mưu trưởng Trung đoàn 120 làm Trưởng ban; đổng chí Ksor Ni, Bí thư Ban cán sựĐảng huyện Đak Bớt làm Phó ban(6) 7.
3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 14 (1953), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 581, 582, 583.
4) Tướng Nava nhận định: “£ừ một dãy đất hẹp chạy dọc theo bờ biển, có chiểu dài 370 km và chiêu ngang trung bình 70 km, Liên khu V là một vị tri tương đổi có giả trị về mặt kinh tế (sản xuất ỉúa gạo, đảnh cả) và dần sô (khoảng 2.500.000 người). Nhưng tầm quan trọng về mặt chinh trị và chiến lược cùa nó còn lớn hơn. Đây là con đường nổi liền Nam - Bắc gìừa Bâc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam Bộ. Thông qua con đường này’ Việt Minh gửi cán bộ, vù khỉ, tiền bạc cho lực lượng cùa họ ở phía nam và Campuchia...” (Henri Navarre, Đông Dương hấp hối, bàn dịch, NXB Công an nhân dân, 2004, tr. 242).
5) Henri Navarre, Đông Dương hấp hổi, Sđd, tr. 242.
6) Lịch sử Đảng bộ huyện Đak Pơ (1945-2015), Sđd, tr. 140.
7) Henri Navarre, Đông Dương hấp hoi, Sđd, tr. 256-257.
8) Dần theo ‘’"'Trung đoàn 96 - trận tiêu diệt Binh đoàn cơ động ỉ00 của Pháp” của Trung tướng, PGS. Khiếu Anh Lân, nguyên Giám đốc Học viện Lục quân (Đà Lạt). Nguyên Tham mưu phó Trung đoàn 96, chủ lực Liên Khu 5, in trong: Chiến thang đường 19, An Khê - Đăc Pơ - Liên khu 5, trong chiến dịch Đông - Xuân (Ỉ953-Ỉ954), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 32.
Ngày 20-01 -1954, thực dân Pháp đánh vào Phú Yên, mở đẩu cho cuộc hành quân Át-lan-ta. Đêm 26-01 -1954, bộ đội chủ lực quân khu và bộ đội hai huyện An Khê, Đak Bớt tấn công diệt hai cứ điểm Babakơtu (Đak Bớt) và Kàtung - Bupbê (An Khê)... Ngày 01 -02-1954, lực lượng ta diệt một đại đội Binh đoàn cơ động 100 mới đến KonTum và Sở chỉ huy 1 tiểu đoàn địch ỞThị xã Kon Turn.Thị xã KonTum bị vây hãm. Theo lời thú nhận của tướng lĩnh Pháp viết: "Trên các vùng cao nguyên và trong vùng hoạt động của cuộc hành quân "Atlante", chiến cuộc lại nổ ra chung quanh Pleiku, An Khê. Đối phương tìm cách cô lập hơi thị trấn này. Ta chiếm được Quy Nhơn, nhưng đối phương đã kháng cự mạnh. Tơ không thể nào nối liền Quy Nhơn và An Khê, để giảm bớt một số lượng lớn các lực lượng cân thiết. Đối phương xâm nhập vào sơu lưng chúng tơ, uy hiếp vùng Tuy Hoờ, Bơn Mê Thuật, thậm chí Đà Lạt. Họ tìm cách chiếm lại dân chúng... Chúng ta đã bị bát buộc phải phòng thủ trong điểu kiện hết sức khó khăn, khi tất cả những phương tiện khác đều phải được huy động để bảo vệ vùng châu thổ"ơì.
Binh đoàn cơ động 100 của Pháp: gồm hai Tiểu đoàn Pháp và một Tiểu đoàn ngụy Campuchia, tiểu đoàn khinh quân ngụy, tiểu đoàn ngụy địa phương chiếm đóng, tiểu đoàn pháo 105... chúng còn có các phân đội xe tăng, thiết giáp, các loại xe đặc chủng công binh, thông tin bảo đảm. Binh đoàn cơ động 100 là lực lượng quân Pháp tham chiến ở Triều Tiên trong thành phần đội quân Liên hiệp quốc xâm lược Triều Tiên. Vừa được thay phiên, Bộ tư lệnh quân Pháp tăng cường ngay binh đoàn này cho chiến trường Đông Dương vào giai đoạn cuối cùng của kế hoạch Na-va. Đây là một lực lượng khá đông, có đủ trang bị và phương tiện chiến đấu hiện đại hơn hẳn Trung đoàn 96, nhưng tinh thẩn thì sa sút(8).
Trước tình thế thất bại, quân Pháp buộc phải bỏ Thị xã Kon Turn, rút về phòng thủ đường 19 và nam Tây Nguyên. Đêm mùng 6 sáng ngày 07-02-1954, Tiểu đoàn 39 thuộc Trung đoàn 803 tiến vào giải phóng Thị xã Kon Turn. Khu vực Thị xã và các huyện bắc tỉnh Gia - Kon hoàn toàn giải phóng. Để tăng cường lực lượng cho chiến trường An Khê, địch điểu một tiểu đoàn dù ngụy, Tiểu đoàn 520 từ Nam Bộ ra và đưa Binh đoàn ứng chiến cơ động số 100 (GIM 100) đến, đổng thời tăng cường bắt lính bổ sung quân, vơ vét cướp bóc ở vùng chúng kiểm soát. Nhân dân đấu tranh quyết liệt chống bắt lính, chống xâu thuế.
GIÁO DỤC
COAPI©XÃ HỘI Thá '
4
NGHICN CỨU TRAO ĐỔI
2. Diễn biến trận đánh Đak Por của Trung đoàn 96 tiêu diệt binh đoàn cor động 100 của Pháp Ngày 12 tháng 3 năm 1954, Nava ra nhật lệnh: "Đà tiến công của Việt Minh đang tàn lụi" và cho quân đổ bộ lên Quỵ Nhơn tiếp tục cuộc hành quân Át-lan-ta đánh vào vùng tự do Liên khu 5, thì ngay ngày hôm sau 13 tháng 3 năm 1954 quân ta nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
"Quân và dân Liên khu 5, trên đà chiến thắng, lợi dụng ngay tình thế bị động của địch, nhanh chóng phản công làm phá sản hoàn toàn kế hoạch At-lan-ta"{9'. Ngày 16-3-1954, Nava cấp tốc điểu binh đoàn dù ngụy từ An Khê ra tăng viện cho Điện Biên Phủ.
Ngày 14-3, ta tiêu diệt tiểu đoàn địch nống ra chiếm đèo An Khê. Ngày 18-3-1954, ta diệt cứ điểm Tơnâng - đèo Mang Yang, Muh Nhung. Ngày 30-3-1954, lực lượng ta diệt cứ điểm Thượng An, cắt đứt đường 19. Như lời tướng Nava nói vể việc bị lực lượng ta liên tục tấn công: "Trong vùng "Atlante"và trên Tây Nguyên, Việt Minh rút bớt các lực lượng chung quanh An Khê, nhưng lại mở các cuộc đột kích nhắm vào các trục giao thông của chúng ta về hướng Ban Mê Thuật và Tuy Hòa, gây nhiều khó khăn cho ta (chỉquân Phấp)"1'0'.
Để phát triển lực lượng, chủ lực Quân khu V thành lập thêm Trung đoàn 96 từ quân số của các đơn vị Trung đoàn 108,803 và Trung đoàn địch hậu 120, "Trung đoàn 96 được thành lập từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở Đà Năng nằm trong biên chế Đại đoàn 31 (Trung đoàn 68,69,93,96). Lúc đó, Trung đoàn 96 là một trung đoàn mạnh gồm các tiểu đoàn 17,18, 19 đã đánh quân Pháp nhiều trận thiệt hại nặng ở Đà Nâng. Sau nhiều lân biên chế tổ chức lại, Trung đoàn 96 không còn... và đến đâu năm 1954 được phục hồi lại với biên chế ba tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 79,40,30 + 2 đại đội hỏa lực...) do đồng chí Nguyễn Minh Châu nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108 về phụ trách cùng đồng chí Nguyễn Hữu Thành là chính ủy"1"’.
Đầu tháng 4-1954, bộ đội địa phương huyện An Khê, Đak Bớt và đặc khu Tân An cùng lực lượng dân quân du kích các làng, xã phối hợp với bộ đội chủ lực liên tục đánh quân Pháp trên đường 19.
Ngày 04-4-1954, lực lượng ta diệt một đoàn xe quân Pháp tại cẩu Hà Tam. Ngày 09-4-1954, quân ta diệt đoàn xe 20 chiếc trên đèo Mang Yang... đường 19 bị cắt đứt, An Khê bị cô lập với Pleiku. Quân Pháp buộc phải dùng máy bay tiếp tế cho An Khê9 10 * (12) 13 14.
9) Võ Nguyên Giáp, Lời giới thiệu sách, in trong: Từ Điện Biên Phủ đến Bắc Táy Nguyên Trung đoàn 96 tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 cùa Pháp, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 5.
10) Henri Navarre, Đông Dương hấp hổi, Sđd, tr, 360.
1Ụ Chiến thắng đường 19, An Khê - Đắc Pơ - Liên khu 5, trong chiến dịch Đông - Xuân (1953-1954), Sđd, tr. 27.
12) Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Mang Yang, Lịch sử Đảng bộ huyện Mang Yang (1945 -1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 90.
13) Henri Navarre, Đông Dương hấp hối, Sđd, tr.381.
14) Chiến thắng đường 19, An Khê - Đắc Pơ - Liên khu 5, trong chiến dịch Đông - Xuân (1953-1954). Sđd, tr. 36.
TbinnKOna
GlÁO DỤC
Tháng s/aoa QxÃHỐÌ Ngày 07-5-1954, chiến thắng Điện Biên Phủ của quân đội ta đã cổ vũ tinh thẩn chiến đấu của quân dân ở chiến trường Gia Lai, An Khê, Đak Bớt. Ở An Khê, Đak Bớt, quân Pháp trước nguy cơ thất bại đã buộc chúng phải rút chạy những nơi đã chiếm đóng, Bộ Tư lệnh Quân khu V nhận định Binh đoàn 100 của địch sẽ rút bỏ An Khê. Trung đoàn 96 được giao nhiệm vụ theo dõi đánh địch rút chạy.
Ngày 23-6-1954, trinh sát ta phát hiện Binh đoàn 42 dãn ra chiếm các điểm cao trên đường 19 đoạn Pleiku - Mang Yang. Đêm 23-6, địch dùng máy bay di tản gia đình binh sĩ, công chức, người Hoa khỏi An Khê. Trong Hồi ký của mình Nava đã viết:"... Chúng ta tự rút khỏi cứ điểm An Khê. Cứ điểm này đóng vai trò “một chiếc gai nhọn" chĩa vào lực lượng của Liên khu V, tương tự như vai trò mà Điện Biên Phủ đã thực hiện trong vòng 5 tháng chống lại một phần lớn Binh đoàn tác chiến của Việt Minh'"'3.
Chủ trương tác chiến tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 của Pháp đã được quyết định: "Ta chặn đánh cả đoàn xe. Tiểu đoàn 40 chặn ngay chiếc xe đi đẩu, không cho một chiếc nào lọt khỏi trận địa. Tiểu đoàn 79 đánh ngay đoạn địch có ở trước mặt, tìm đánh trúng sở chỉ huy, vì đây là binh đoàn 100 rút chạy.
Đánh không hết, ta liên tục tập kích, truy kích. Ngày 24 tháng 6 không xong, đánh tiếp sang ngày 25,26 tháng 6. Trung đoàn nắm chắc đại đội dự bị, chuẩn bị tinh thần và đạn dược để đánh cả binh đoàn 42 khi chúng xuống đón binh đoàn 100"{'4ì.
Ngày 24-6-1954, địch từ An Khê rút theo đường 19 gổm Binh đoàn 100, Tiểu đoàn pháo 105, Tiểu
5
NGHlêN CỨU TRAO ĐỔI
đoàn khinh quân 520,Tiểu đoàn địa phương, tiểu đoàn ngụy Campuchia. Lực lượng địch gấp hai lẩn lực lượng ta, nhưng Bộ Tư lệnh Liên khu chủ trương tiêu diệt toàn bộ. 13 giờ ngày 24-6-1954, toàn bộ lực lượng địch lọt vào trận địa phục kích trên đoạn đường dài 3 km từ Katung đến Đak Pơ, "Cuộc rút chạy vân rẩm rộ, ổn ào. Đài quan sát báo cáo các khẩu pháo 105 vẫn còn thấy bịt nòng. Càng gân đến suối Đak Pơ, đường càng hẹp, bọn địch càng dồn ép, thúc nhau vượt nhanh, xe dồn lên, người bám sát.
Những xe đi đẩu đã vượt câu Đak Pơ, đoàn sau lại dổn lên, chúng không thể ngờ ràng toàn Trung đoàn 96 của ta đã được lệnh xuất kích lúc 12 giờ 30... tiểu đoàn 40 bố trí thêm một bộ phận nhỏ cách trận địa chặn đâu khoảng 200m bâng cách sân sàng những tảng đá to để khi có lệnh là lăn xuống đường làm chướng ngại vật chặn xe địch"{'5}.
Tiểu đoàn 79 có hai đại đội, vừa xuất kích, gặp ngay đoạn giữa của đoàn vận chuyển địch, đánh trúng ngay tiểu đoàn đi đầu của binh đoàn 100, có cả sở chỉ huy của binh đoàn. Quân Pháp chống cự quyết liệt. Dựa vào xe tăng, xe bọc thép chúng chặn các mũi xung kích của ta từ phía bấc đánh xuống, chúng dạt lên đồi và cố đưa xe tăng, xe thiết giáp lên khống chế, có chặn các mũi xung phong của đại đội 224, đại đội 223 của ta.
Một hai xe tăng quân Pháp bốc cháy. Lửa cháy từ các xe vận tải, xe tăng, càng thúc đẩy tinh thẩn chung. Quân ta bắt được một số tù binh. Đại đội 223 đánh tan các bộ phận địch ngoan cố chống cự, xung phong ra đường, liên lạc được ngay với đại đội 224 và bộ phận đối diện. Quân Pháp vẫn chống trả quyết liệt nhưng bị động và lúng túng nhất là khi đại đội 224 bắt được tên chỉ huy bị thương đang cố lẩn trốn xuống hướng Nam. Đó là tên quan năm Barroux chỉ huy binh đoàn 100. Lúc này là 15 giờ 20 phút.
Theo nhà báo Pháp Bernard Fall, người chứng kiến và ghi lại trận đánh này trong bài "Cái chết của một Binh đoàn cơ động" in trong cuốn sách "Guerre d'Indochine 1946 -1954" (Chiến tranh Đông Dương năm 1946- /954), viết:"... Lúc 14 giờ ngày 24 tháng 6 năm 1954. GM 100 đã rời cây số 14 chậm rãi đi qua miền rừng núi cao nguyên... Lúc 14 giờ 5 phút máy bay Mô-ran của GAO báo về phát hiện thêm một chướng ngại vật bằng các đống đá rải ngay đường ở cây số 15... Nhân viên điều hành của sở chỉ huy trả lời cụt lủn "Biết rồi". Số mệnh cùa GM 100 đã thật sự chấm dứt từ đây...
Đúng 14 giờ 20, sự im lặng bị xé toạc bởi tiếng nổ đanh gọn của hai phát súng bắn cách nhau, tiếp đến hai đại liên bắn, không tới 30 mét, vào sườn trái đội hình... Trung tá Lajouanie tập hợp vài người trên đường cái và lao theo (đại tá) Barrou. Lúc 14 giờ 40, hình như trong chốc lát những bộ phận của đại đội chỉ huy (CCS) vừa mới chiếm được mỏm cao tạo nên một điểm nhô ra nằm giữa vị trí đối phương và làm câm họng các khẩu súng địch đặt ở phía nam đường cái. Họ không phải ở trong tình trạng như thế lâu. Lúc 14 giờ 15 Lajounanie bị thương nặng ngã xuống, Barrou trao cho anh ta huân chương Bắc đẩu bội tinh. Dĩ nhiên người sĩ quan trẻ không còn nghe được nữa lời nói của người chỉ huy của mình. Xung quanh họ quân lính của đại đội chỉ huy những ai còn lại lần lượt ngã xuống, xạ thủ của ôtô gắn đại liên chết, đại bác câm. Trong lúc tình thế của đại đội chỉ huy trở nên thất vọng, Barrou lăn xuống đất ở gờ đường và mặc dầu bị thương, ráng leo lên tháp xe để thay thế xạ thủ nhưng quân Việt đã theo dõi cấp hiệu của ông ta. Bị thương tiếp, nhưng lần này là một viên đạn tiểu liên, Barrou lăn trong đám bụi. Giờ của ông ta đã điểm. Chỉ còn một nhiệm vụ cuối cùng phải làm: không cho kẻ thù chiếm giấy tờ, đừng để họ khoái trá biết rằng đã giết được người chỉ huy đoàn công-voa...
Bộ phận còn lại của xe chỉ huy cũng không còn tồn tại nữa. Tham mưu trưởng trung đoàn Triều Tiên, thiếu tá Hippolite, bị giết gần Lajounanie và lúc 14 giờ 25, xe điện đài của GM 100 bị trúng nhiều đạn pháo và bị phá hủy. Sau 10 phút từ lúc trận đánh bắt đầu, GM 100 đã mất tất cả những người chỉ huy và đứt liên lạc với bên ngoài..."(16ì.
Tướng lĩnh Pháp đổ lỗi cho nhau vể những sai lầm dẫn đến thất bại ờ trậnĐakPơ: "Việc di tàn hoàn * *
\5) Chiến thắng đường 19, An Khê - Đắc Pơ - Liên khu 5, Sđd, tr. 36-37.
16) Bernard Fall, Cái chết của một Binh đoàn ca động, in trong cuốn sách “Guerre d’ Indochine 1946-1954” (Chiến tranh Đông Dương năm 1946- 1954), dẫn theo Chiến thắng đường 19, An Khê - Đắc Pơ - Liên khu 5, Sđd, tr. 151.
GIÁO DỤC
©XÃ HÒI T,lăn96/2021
6
NGHIÊN CỨU TRAO Đổi
toàn được thực hiện theo quyết định cá nhân của tướng Salan và hoàn toàn trái với ý muốn của tướng Beaufort, Tư lệnh vùng Tây Nguyên. Việc di tản kết thúc bàng một thất bại rất nghiêm trọng. Được hoàn toàn tự do, các lực lượng của Liên khu V tiến về phía nam Tây Nguyên đẩy chúng ta vào một tình thế vô cùng khó khăn và thậm chí uy hiếp thành phố Ban Mê Thuật... Chỉ vài ngày trước khi hội nghị Genève kết thúc, chúng ta đã tặng cho đối phương một chiến thắng hoàn toàn miễn phí"iìr.
Tướng Nava đã phải thú nhận vể sự thất bại của Binh đoàn 100 của họ, dù đây là một binh đoàn thiện chiến, tinh nhuệ, nhưng cuối cùng vẫn bị thất bại ỞTây Nguyên,"Cứđiểm An Khê do binh đoàn cơ động GM 100 trấn giữ được hình thành chung quanh hạt nhân là tiểu đoàn trở về từ Triều Tiên.
Đây là một đơn vị phòng thủ rất chắc chắn. Họ đã bảo vệ tốt An Khê, thậm chí chống lại những lực lượng đông đảo hơn rất nhiều nhưng không có hỏa lực pháo binh yểm trợ, (chính là nhờ vào khả năng phòng thủ rất tốt của họ, mà binh đoàn cơ động này đã được bố trí ở đây) nhưng mặt khác, đơn vị này không thích hợp với những trận đánh trong rừng già. Sự rút lui qua một lộ trình hết sức khó khăn (Việt Minh đã biết trước vài ngày vể sự di tản của họ) và không có một sự hỏ trợ đầy đủ, là một cuộc hành quân hết sức rủi ro, không có nhiều cơ may, để kết thúc một cách tốt đẹp. Và đó là những gì đã xảy ra: binh đội cơ động 100 bị mất Bộ Tham mưu của họ, cùng một đơn vị pháo binh, một đoàn xe tải (gồm 250 chiếc) và một phần lớn quân số (khoảng 1200 người)"(,8).
Sau trận thất bại tại An Khê, Đak Pơ, quân Pháp bị thiệt hại trên 700 lính Âu - Phi chết và bị thương, bắt 1.200 tên trong đó có đại tá Baru và toàn bộ Ban tham mưu binh đoàn, thu 229 xe, 20 đại bác và hàng ngàn súng các loại. Thừa thắng bộ đội ta phát triển tiến công diệt một bộ phận của Binh đoàn 42, giải phóng thị trấn An Khê, quét sạch địch trên đường 19, triển khai tiến công thị xã Pleiku và bao vây Cheo Reo. Một vùng rộng lớn từ An Khê, Đak Bớt đến Kon Plông và vùng Tây đường 14 Pleikli được hoàn toàn giải phóng17 18 (19) 20.
17) Henri Navarre, Đông Dương hấp hối, Sđd, tr. 382-383.
18) Henri Navarre, Đông Dương hap hoi, Sđd, tr. 382.
19) Ban Chấp hành Đảng bộ tình Gia Lai, Lịch sử Đáng bộ tinh Gia Lai, tập 1(1945-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 204-205.
20) Võ Nguyên Giáp, Lời giới thiệu sách, in trong: Tù Điện Biên Phú đến Bắc Tây Nguyên Trung đoàn 96 tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 cùa Pháp, Sđd, tr. 5-6.
3. Một vài nhận xét
Chiến thắng Đak Pơ với quân ta mà trực tiếp là Trung đoàn 96, đã tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 của thực dân Pháp, càng thấy rõ vai trò của các chiến thắng khác trên toàn chiến trường Đông Dương năm 1953 - 1954 phối hợp với Điện Biên Phủ, làm cho kế hoạch Nava từng bước bị phá sản. Chiến thắng Đak Pơ có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta, cũng như góp phẩn trong cuộc đấu tranh làm sụp đổ chế độ thực dân cũ trên thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với các chiến thắng trên các chiến trường khác trong cả nước, ở Lào và Campuchia, đã tạo ra bối cảnh thuận lợi cho Trung đoàn 96 tiêu diệt binh đoàn cơ động 100 của Pháp, đánh bại chiến dịch Át-lan-ta của Na-va. Chính Điện Biên Phủ và hoạt động cùa quân ta trên khắp Đông Dương đã thu hút khá nhiều lực lượng cơ động của Pháp, không cho chúng tập trung lực lượng như kế hoạch đã vạch ra ỞTrung Bộ và Bắc Tây Nguyên.
Chiến thắng Đak Pơ đã gây tiếng vang lớn, là cú đánh bổi thêm làm thất bại hoàn toàn dã tâm xâm lược của thực dân Pháp trên chiến trường Việt Nam, tạo sự phấn khởi trong quân dân vùng Đak Pơ, đặc khu Tân An, huyện An Khê và Đak Bớt... Đây là trận đánh tiêu biểu, được ví như là trận "Điện Biên Phủ của Tây Nguyên", trận tiêu diệt binh đoàn cơ động 100 quân Pháp của Trung đoàn 96. Có được thắng lợi này là do "Sự lãnh đạo của Liên khu ủy và sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Liên khu, Trung đoàn 96, nhân lúc địch hoang mang rút chạy khỏi An Khê, đã kịp thời đón đánh và tiêu diệt binh đoàn cơ động 100 thuộc loại mạnh nhất của lực lượng viễn chinh Pháp ở Triểu Tiên mới về. Đây là một trận vận động phục kích lớn, dũng cảm và linh hoạt, tận dụng được yếu tố bất ngờ, sử dụng lực lượng với hiệu quả cao, đánh trúng vào chỗ yếu của địch, bổi thêm cho chúng một đoàn thất bại nặng nề"aoì.
Sau chiến thắng này của quân ta, tình hình Chính phủ Pháp thêm lục đục căng thẳng, theo hồi ký Đông Dương hấp hối Nava đã viết về cuộc tranh luận tại Quốc hội Pháp, ông Mendès France mô tả
ThángS/20a 7
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
tình hình Đông Dương trước khi hội nghị Genève nhóm họp nhưsau:"Tất cả Binh đoàn tác chiến của chúng ta đều nằm dưới sự uy hiếp của một cuộc tấn công dữ dội ở giữa Hà Nội và Sài Gòn, cùng với hiểm họa từ phía tây có khả năng ngăn cản chúng ta bảo vệ vùng cố thủ Hải Phòng. Cùng vào thời gian đó, trong những vùng khác, tình hình không có gì tốt dẹp hơn, cho dù đó là ỞTrung Bộ, Ân Khê, Đà Nắng, Nam Bộ. Ở Campuchia tình hình trở nên nghiêm trọng hơn. Phần phía nam của nước Lào vượt ra khỏi tẩm kiểm soát của chúng ta... Chúng ta đang nằm bên bờ vực của một thảm họa. Binh đoàn Viễn chinh có nguy cơ bị rơi vào một cái rọ và bị tiêu diệt"<21).
Đó còn là sự hi sinh anh dũng của các anh hùng liệt sĩ, sự hy sinh đóng góp của đồng bào nhân dân nơi đây: "Vai trò của hậu phương trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên nói chung, trong trận tiêu diệt binh đoàn cơ động 100 nói riêng rất quan trọng. Có thể nói cả Liên khu đã được huy động sức người, sức của cho một chiến trường rộng lớn... Hàng chục vạn dân công, xếp lại việc quê hương mình sắp bị giặc chiếm đóng, liên tục kéo rơ tiền tuyến phục vụ bộ đội, tải lương, tiếp tế đạn dược vũ khí, vận chuyển thương binh... Hàng vạn thanh niên xung phong ưu tú đã theo sát bộ đội phục vụ chiến đấu và khi cân thiết đã nhập ngũ ngay tại chiến trường. Chính đồng bào các dân tộc đã đóng góp rất lớn trực tiếp vào việc tiêu diệt binh đoàn cơ động 100"ị22ì, làm nên chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta nói chung, đóng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng.
Khi nhìn lại sự kiện này Thượng tướng Nguyễn Minh Châu, nguyên Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 96 - Chủ lực Liên khu 5 đã nhận định:"Bộ chỉ huy chiến dịch đã phân tích và đánh giá đúng so sánh lực lượng ta và địch, đã chọn đúng hướng chiến trường Bắc Tây Nguyên, tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực kết hợp với lực lượng địa phương, nhằm vào sơ hở của địch mà đánh. Chúng ta cũng đã chọn đánh mục tiêu là cụm cứ điểm đông bắc Kon Turn để nhanh chóng tiêu diệt, rồi phát triển lên phía tây, tập kích thị xã Kon Turn làm cho địch hoảng hốt bỏ chạy. Khi địch đưa chủ lực lên lập phòng tuyến phòng ngựtừAn Khê lên Plây Ku vàTrà Khê, thì chủ lực ta tập trung đánh mạnh vào tuyến đường chiến lược 19, đồng thời chọn đúng mục tiêu Đắc Đoa để tiêu diệt, rồi nhanh chóng phát triển vào phía Nam đường 19, buộc địch phải bung ra đối phó. Chúng ta đã tạo thế, khoét sâu sơ hở của địch để tiêu hao chúng ở Plê Ring, rổi tiêu diệt chúng ở Đak Pơ. Trong lúc chủ lực ta chưa tập trung đến cỡ sư đoàn, nhưng sự phối hợp chặt chẽ giữa các trung đoàn, dưới sự chỉ huy thống nhất của Bộ chỉ huy chiến dịch, chúng ta đã tạo ưu thế hơn địch. Bộ chỉ huy đã nắm vững thời cơ cho phát triển lực lượng kịp thời ngay trong chiến đấu, ngay
tại chiến trường nhưTrung đoàn 96 đơn vị chủ lực thứ3 của Liên khu, và các tiểu đoàn tập trung khác của địa phương',(23).
Ngày 28 tháng 6 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thưcho cán bộ, chiến sĩ Liên khu V, sau chiến thắng Đak Pơ tiêu diệt hoàn toàn Binh đoàn cơ động 100 của Pháp, Người đã có Lời khen tặng: "Các chú hoạt động có thành tích khá. Bác vui lòng thay mặt Chính phủ khen ngợi các chú và thưởng đoàn vừa tháng khá ở An Khê Huân chương Kháng chiến hạng nhất"ữ4i. Như vậy, có thể thấy đây là phẩn thưởng cao quý nhất của Chủ tịch Hó Chí Minh dành cho cán bộ, chiến sĩ Liên khu V nói chung và Trung đoàn 96 nói riêng, ngay sau chiến thắng Đak Pơ./.
Lính Pháp đầu hàng trên đtrờng 19 (An Khệ - Đak Pơ), thảng 6-1954
21) Henri Navarre. Đông Dương hấp hồi, Sđd, tr. 424-425.
221 Thượng tướng Nguyễn Minh Châu. Tứ Điện Biên Phũ đền Bắc Táy Nguyên, in trong "Từ Điện Biên Phũ đén Bắc Táy Nguyên: Trung đoàn 96 tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 cùa Pháp", NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 14-15.
23) Thượng tướng Nguyễn Minh Châu, Từ Điện Biên Phù đến Bắc Táy Nguyên, in trong "Từ Điện Biên Phù đến Bắc Táy Nguyên: Trung đoàn 96 tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 của Pháp", NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1995, tr. 11-12.
24) Hồ Chi Minh toàn tập (tập 8). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Hà Nội. 2011. tr. 520.
GIÁO DỤC con3l
HÔI 6jZ202