• Tidak ada hasil yang ditemukan

BIỂU TƯỢNG SÔNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

N/A
N/A
Nguyễn Gia Hào

Academic year: 2023

Membagikan "BIỂU TƯỢNG SÔNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

Đ

BIỂU TƯỢNG SÔNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

ĐOÀN TIẾN LỰC

Tóm tắt

Biểu tượng là loại kí hiệu có giá trị biểu hiện đặc biệt trong các văn bản nghệ thuật. Loại kí hiệu này được ví như “chiếc xe quan trọng để chuyển tải văn hóa”, như “chìa khóa” để mở những cánh cửa dẫn vào “chốn linh thiêng” của tòa lâu đài nghệ thuật. Dựa trên cơ sở lí thuyết về biểu tượng, bài báo bước đầu khảo sát và đưa ra một số hướng nghi ̃a biểu trưng của biểu tượng sông trong văn học Việt Nam.

Những hướng nghi ̃a biểu trưng này phần nào thể hiện đời sống văn hóa tinh thần của người Việt cũng như thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người nghệ si ̃ trong việc sử dụng biểu tượng để biểu đạt nghi ̃a của các tác phẩm văn học.

Từ khóa: Biểu tượng, sông, kí hiệu, văn hóa

Abstract

Symbols are signals which have special representation meanings, especially in art texts. This kind of signal is compared to “an important vehicle of culture transmission” or to “keys” to open up doors leading to the sacred site of the art castle. Based on the theorectical background related to symbols, the article initially investigates and gives some symbolic shades of meaning of the ‘river symbol’ in Vietnamese literature. These symbolic shades of meaning did partially reflect the spiritual and cultural life of Vietnamesepeopleaswellasrefectthecreativeness, uniquenessintheuseofsymbolstorepresent meanings of literature works.

Keywords: Symbol, river, sign, culture

ất nước Việt Nam có hơn hai nghìn con sông lớn nhỏ thường trực cung cấp nguồn nước, nguồn thức ăn nuôi sống con người. Người Việt Nam nương vào sông mà sống, mà giao thương đi lại; dựa vào sông mà tuyên bố cương vực, lãnh thổ và bảo vệ độc lập chủ quyền… Trải qua lịch sử thăng trầm, sông đi vào tâm thức người Việt vừa vô thức vừa ý thức như một biểu tượng văn hóa quan trọng. Nghiên cứu về biểu tượng sông trong văn học Việt Nam sẽ góp phần“làm phát lộ những bí ẩn của vô thức, của hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái vô tận”(Jean Chevalier) của những giá trị văn hóa, văn học Việt Nam.

1. Giới thuyết về biểu tượng và biểu tượng trong văn học

1.1. Giới thuyết về biểu tượng

Biểu tượng (symbol) là một loại kí hiệu được định nghĩa như là “sản phẩm của những vô thức cá nhân… diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột (…), là mối liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng” - Sigmund Freud (1, tr. 24), hay là “một vài dạng thức của sự tồn tại bên ngoài đại diện trực tiếp cho cảm xúc, cái mà tuy không được chấp nhận trong giá trị của chính bản thân nó nhưng cách nó hiện ra trước mắt

(2)

chúng ta trực tiếp được chấp nhận cho những giá trị rộng hơn và phổ quát hơn mà nó mang đến trong những ý nghĩ của chúng ta.” - Georg Wilhelm Friedrich Hegel (8, tr.143).

Về cơ bản, các quan điểm trên không mâu thuẫn với quan điểm của các nhà nghiên cứu được xem là cha đẻ của kí hiệu học và ngôn ngữ học hiện đại (Charles Sanders Pierce và Fedinand de Saussure), rằng: biểu tượng là

“một cái gì đó thay thế hoặc diễn giải cho một cái khác” (something stands for something).

Theo đó, cấu trúc của biểu tượng (cũng giống như cấu trúc của một kí hiệu) gồm cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt được hiểu là các sự vật, hiện tượng, ý niệm được sử dụng như là mặt hình thức kí hiệu của biểu tượng (còn gọi là cái thay thế, vật đại diện…); cái được biểu đạt là nội dung ý nghĩa được biểu đạt qua cái biểu đạt. Tuy nhiên, cần thiết phải nhấn mạnh tính đặc biệt của kí hiệu biểu tượng so với các kí hiệu thông thường khác bởi một số lí do sau:

Thứ nhất, nếu các ký hiệu thông thường đơn giản và có thể ví như cánh cửa đi vào thế giới vật thể của ý nghĩa (các hình ảnh và khái niệm) thì biểu tượng là cánh cửa dẫn vào thế giới phi vật thể của các ý niệm.

Thứ hai, nếu mối quan hệ giữa cái biểu đạt cái được biểu đạt của các tín hiệu quy ước thông thường là võ đoán (không có lí do) thì mối quan hệ giữa cái biểu đạt cái được biểu đạt của kí hiệu biểu tượng thường có lí do.

Thứ ba, bản chất biểu tượng bộc lộ ở “Sự ứ tràn của nội dung ra ngoài dạng biểu đạt của nó” hay nói cách khác, “Chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt;

hoặc giản đơn hơn, cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt”(1, tr. 27).

1.2. Biểu tượng trong văn học

Trong văn học, các phương tiện biểu đạt biểu tượng là các hình thể từ ngữ và được gọi là các từ-biểu tượng (word-symbol). Biểu tượng trong văn học có vai trò như những tín

hiệu thẩm mĩ được tổ chức, sắp xếp trên tính hình tuyến chặt chẽ của ngôn từ . Các mối quan hệ hình tuyến này được cụ thể hoá qua những biến thể kết hợp của biểu tượng ngôn từ (kết hợp với những từ ngữ trước và sau nó trong ngữ đoạn), với những biểu tượng khác trong ngữ cảnh tu từ rộng và hẹp…qua đó tạo khả năng phát triển nghĩa mới.

Biểu tượng ngôn từ trong văn học có thể là sự đi vào và chuyển hóa của các mẫu gốc, các biểu tượng văn hóa. Lúc này, văn bản nghệ thuật là “môi trường sống” của các mẫu gốc biểu tượng văn hóa và trong “môi trường” ấy, các biểu tượng vừa có trong mình những nét nghĩa “hằng thể” của một thời quá khứ vừa có thêm những ý nghĩa mới nảy sinh. Điều này mang đến những giá trị độc đáo cho biểu tượng ngôn từ nghệ thuật: vừa mang đậm giá trị lịch sử, giá trị của những chiều sâu quan niệm, làm thức dậy những nỗi niềm từ ngàn đời trong tâm thức độc giả, vừa có những giá trị mới gợi cảm hứng về những điều mới mẻ, khác lạ.

2. Một số hướng nghĩa biểu trưng của biểu tượng sông trong văn học Việt Nam

Cũng như bất cứ biểu tượng ngôn từ nào, giá trị của từ-biểu tượng sông được xác định trong sự tương tác với các yếu tố ngôn ngữ khác trên trục hình tuyến và tương tác với các biểu tượng khác trong văn bản.

Trên trục kết hợp hình tuyến, từ - biểu tượng sông có thể kết hợp với các yếu tố ngôn ngữ đứng sau để tạo ra các tổ hợp như sông dài, sông sâu, sông uốn lượn, sông cạn, sông chảy, sông bồi đắp, …; kết hợp với các yếu tố ngôn ngữ đứng trước như tắm (ở) sông, chết (ở) sông, kiếm sống trên sông, đi lại trên sông, qua sông, sang sông, vượt sông…

Trong mối quan hệ tương tác (tương đồng đẳng cấu hoặc đối lập) với các biểu tượng khác, biểu tượng sông thường được đặt trong mối quan hệ tương tác với các biểu tượng cái chết, đò/thuyền, bèo, các huyền thoại (ba ba – thuồng luồng, Hà Bá)…

(3)

Chính sự kết hợp, tương tác trên trục ngữ đoạn cũng như tương tác với các biểu tượng khác ở nội văn bản hoặc liên văn bản tạo ra những biến thể từ ngữ - biểu tượng phong phú, là cơ sở của quá trình tạo nghĩa, chuyển nghĩa biểu tượng sông trong các tác phẩm văn học Việt Nam.

2.1. Sông - dòng đời

Trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam, sông mang ý nghĩa biểu trưng cho dòng đời.

Dòng nước dài, luôn vận động chảy trôi qua các khúc, các đoạn biểu trưng cho dòng chảy vô thường của đời sống với những chuyển vần, biến dịch, thăng - trầm, được - không ngừng. Ta có thể nhận ra hướng nghĩa biểu trưng này của biểu tượng sông trong các tác phẩm“Tràng giang” của Huy Cận, “Tiếng hát sông Hương

của Tố Hữu, “Chảy đi sông ơi!” của Nguyễn Huy Thiệp, “Nhớ sông” của Nguyễn Ngọc Tư …

Ý nghĩa biểu trưng cho dòng đời của biểu tượng sông được thể hiện rõ nét qua sự tương tác với các biểu tượng về thân phận con người như con thuyền, cành củi khô trong “Tràng giang” của Huy Cận: dòng sông biểu trưng cho dòng đời mênh mông nhiều ngả để trên/trong đó, con người (như cành củi khô, như con thuyền) nhỏ bé, lạc loài đến tội nghiệp. Trong

“Tiếng hát sông Hương”của Tố Hữu, dòng sông biểu trưng cho dòng đời ô nhục của những cô gái làm nghề “buôn son bán phấn” trên sông Hương: Em đi với chiếc thuyền không/ Khi mô vô bến rời dòng dâm ô. Trong “Nhớ sông” của Nguyễn Ngọc Tư, dòng sông là hành trình mưu sinh lênh đênh nay đây mai đó của những con người miền sông nước: dòng sông dập dềnh - cuộc sống chòng chành bấp bênh, dòng sông rộng dài - cuộc sống mờ mịt tương lai…

Biểu tượng dòng sông - dòng đời có khi gắn với trải nghiệm mang tính triết lí của hành trình trở về với kí ức để nhận ra lẽ vô thường của cuộc đời.“Chảy đi sôngơi!”của Nguyễn Huy Thiệp là hành trình ngược trở về với dòng quê hương, với những con người sinh sống trên

dòng sông ấy của nhân vật tôi. Chính “hành trình ngược” ấy tương tác với “hành trình xuôi” của sự chảy trôi không ngừng của dòng sông - dòng đời - dòng thời gian tạo nên sắc thái chiêm nghiệm, triết lí về dòng sông - dòng đời - dòng thời gian bất khả quy hồi và theo đó là sự mất mát, lãng quên: Chảy đi sông ơi!/ Băn khoăn làm gì?/ Rồi sông đãi hết/ Anh hùng còn chi?...

2.2. Sông - vẻ đẹp thiên tính nữ

Không biết từ bao giờ, người ta nhìn sông to, sông nhỏ thành sông mẹ (sông cái) sông con và sự bồi tụ phù sa của sông là sự nuôi dưỡng của một người mẹ? Và cũng không biết từ bao giờ, người ta nhìn thấy vẻ đẹp dịu dàng tha thiết của người con gái trong dáng hình mềm mại uốn lượn của dòng sông? Chỉ biết rằng, trong văn hóa Việt Nam và theo đó là trong văn học Việt Nam, từ lâu, sông mang ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp thiên tính nữ. Vẻ đẹp thiên tính nữ đó có thể là vẻ đẹp của một người mẹ và có thể là vẻ đẹp của một người con gái nào đó.

Trong “Vàm Cỏ Đông” của Hoài Vũ, sông là mẹ chở che, nuôi dưỡng: Đây con sông như dòng sữa mẹ/ Nước về xanh ruộng lúa, vườn cây/

Và ăm ắp như lòng người mẹ/ Chở tình thương trang trải đêm ngày. Hay trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy dòng sông Hương như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở…

Ở góc nhìn khác, một số nghệ sĩ lại thấy ở một dòng sông cụ thể nào đó vẻ đẹp của những người con gái. Với Nguyễn Tuân, hình dáng của con sông Đà nhìn từ trên cao tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc (“Người lái đò sông Đà”). Hay với Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương mang vẻ đẹp của một cô gái Digan phóng khoáng và man dại hay người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (“Ai đã đặt tên cho dòng sông”).

(4)

2.3. Sông - quyền năng thần thánh Là một biến thể của biểu tượng nước, biểu tượng sông hàm chứa nét nghĩa biểu trưng:

mang đến nguồn sống nhưng cũng mang đến sự chết chóc. Trong nhiều tác phẩm văn học, dòng sông được nhắc đến gắn liền với nỗi sợ hãi về sự nhấn chìm, ngập lụt: nước sông ăn lên lem lém nuốt chửng cả cánh bãi xanh non mênh mông lúa lốc và vừng (“Thời xa vắng” - Lê Lựu);

Cánh đồng làng Đông chìm trong biển gió đen ngòm. Nước sông cuồn cuộn sôi lên sùng sục (“Bến Không Chồng”- Dương Hướng); Nửa đêm, vỡ đê sông Hoàng Long. Nước réo ồ ồ. Chó tru.

Gà quác. Trâu bò phá gióng. Dê phá chuồng kêu khản giọng. Dân kinh hoàng, nháo nhác chạy lụt như chạy loạn (“Mười ba bến nước” - Sương Nguyệt Minh).

Sông cũng gắn với những buồn đau về sự chết chóc. Trong “Nhớ sông” của Nguyễn Ngọc Tư là cái chết của má Giang: Má ngã xuống, đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi má cong lại như chiếc võng, hụp vào sông (…) mái tóc má trôi xùm xòa phiêu phiêu trong làn nước, rồi mất hút. Trong“Bến Mom” của Văn Giá là cái chết của Dung: Dung bị hất xuống sông (…). Đúng chỗ bến đò, nước ngòi đang chảy xiết ra sông. Con bé chìm nghỉm. Cái nón trắng trôi dập dềnh…

Sông như một cái gì đó ghê gớm hãi hùng nên người Việt ta có văn hóa ứng xử với sông một cách “tôn kính và sợ hãi” và huyền thoại hóa nỗi sợ hãi của mình thành các huyền thoại về Ba Ba, Thuồng Luồng, về thần Hà Bá chuyên bắt đàn bà, trẻ em (như trong “Bến Không Chồng” - Dương Hướng, “Mười ba bến nước” - Sương Nguyệt Minh…).

2.4. Sông - sự minh oan, gột rửa

Ý nghĩa biểu trưng này của biểu tượng sông cũng được“di truyền” từ ý nghĩa của biểu tượng nước vốn là mẫu gốc mà biểu tượng sông chỉ là một biến thể như đã trình bày ở trên. Sông chứa nước, sông là nơi người dân thường ra tắm nên tắm sông, gieo mình xuống sông thường biểu trưng cho sự minh oan, gột rửa, thanh lọc tâm hồn con người.

Trong “Chuyện người con gái Nam Xương

(Nguyễn Dữ), Vũ Nương, người phụ nữ thủy chung son sắt chờ chồng nhưng bị chồng nghi oan, đã tìm đến dòng sông để trẫm mình: “Kẻ

bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. (…) Nói xong, gieo mình xuống sông mà chết”. Trong

Chảy đi sông ơi!” của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật tôi sau khi được cứu lên khỏi dòng sông, nhận thấy: Lòng tôi trào lên cảm giác dễ chịu lạ lùng, như vừa tắm xong, như vừa gột rửa được điều u ám. Và trong “Khúc hát sông quê” của Lê Huy Mậu, chúng ta cũng không khó để nhận ra rằng dòng sông quê hương có ý nghĩa như một sự thanh lọc, gột rửa bụi trần ai của con người:

Quá nửa đời phiêu dạt/ta lại về úp mặt vào sông quê và ta nhận ra rằng sao ngày xưa yên ổn quá chừng/ một dòng xanh trong chảy mãi đến vô cùng.

2.5. Sông - ranh giới, cách trở

Sông với các đặc tính dài, rộng, sâu… tạo sự ngăn cách tự nhiên giữa đôi bờ, giữa hai vùng địa lí, giữa quê mẹ - quê chồng… Và do đó, sông mang ý nghĩa biểu trưng cho ranh giới, sự cách trở. Đó là sự cách trở khiến các chàng trai cô gái xưa phải đau đáu nỗi niềm nhớ nhung: Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi (Ca dao). Đó là ranh giới, trở cản của phận gái theo chồng: Một lần này bước ra đi/ Là không hẹn một lần về nữa đâu/ Cách mấy mươi con sông sâu/ Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh (“Lỡ bước sang ngang”, Nguyễn Bính).

Ranh giới quê mẹ - quê chồng cũng là ranh giới của hôn nhân lành - vỡ: sang sông với chồng là bắt đầu một cuộc sống hôn nhân và khi ôm túi đồ vào lòng, vừa đi vừa khóc, chạy cùn cụt ra bến nước, ới đò sang sông về nhà mẹ (“Mười ba bến nước” - Sương Nguyệt Minh) cũng có nghĩa là hôn nhân tan vỡ.

Cũng phát triển hướng nghĩa biểu trưng này của biểu tượng sông, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp lại nhấn mạnh sắc thái triết lí của ranh giới dòng sông. Với Nguyễn Minh Châu (trong “Bến quê”), hành trình vượt qua ranh giới, cách trở của sông để sang bờ

(5)

bên kia là hành trình để đi đến một thế giới khám phá mới. Và trong hành trình ấy, nếu con người không cố gắng vượt qua thì dòng sông sẽ mãi mãi là sự ngăn cách khiến con người đến một lúc nào đó sẽ phải hối hận vì không thể chạm tới cái đích bên kia của khát vọng khám phá, dẫu đó có thể chỉ là cái bến gần gũi bên kia sông. Còn với Nguyễn Huy Thiệp trong truyện ngắn “Sang sông”, ông nhấn mạnh và nhuốm ý nghĩa biểu trưng sông - ranh giới trong màu sắc triết lí “đáo bỉ ngạn” của Phật giáo: sông là ranh giới, qua sông là qua được những đắm chìm dục sắc để “đáo bỉ ngạn”

(đến bờ bên kia)-nghĩa ẩn dụ là đạt tới sự hoàn thiện, không còn bị các dục vọng, phiền muộn chi phối.

Ngoài ra, còn có thể kể đến một số hướng nghĩa biểu trưng nữa của biểu tượng sông trong văn học như sông - cố nhân, sông - chứng nhân, sông - quê hương, sông - mạch nguồn tình cảm yêu thương… Những hướng nghĩa biểu trưng này được hiện thực hóa qua các tác phẩm văn học Việt Nam ở các mức độ “đậm - nhạt” khác nhau.

*

* *

Như một nhà nghiên cứu đã nói, biểu tượng nằm ở trung tâm, ở tim của cuộc sống giàu tưởng tượng. Nghiên cứu biểu tượng là cách tiếp cận bản chất một cách trực tiếp nhất những giá trị văn hóa và đời sống tinh thần của một cộng đồng, dân tộc. Và việc làm rõ các hướng nghĩa biểu trưng của biểu tượng sông trong văn học trong bài viết này phần nào cho thấy được những khía cạnh đặc trưng trong đời sống tinh thần cũng như tư duy văn hóa, tư duy nghệ thuật của con người Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc phân tích làm rõ các hướng nghĩa biểu trưng của biểu tượng sông trong văn học Việt Nam một lần nữa minh định rằng ý nghĩa của một biểu tượng không phải là một cấu trúc khép kín, không phải là sự tương ứng cố định giản đơn 1:1 giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mà là một khả năng gợi ra các chiều liên tưởng trong thực tại tinh thần

của con người. Do đó, nói đến biểu tượng là nói đến sự “cởi mở” về nghĩa, nói đến sự thiếu hiệu quả để biểu thị một ý nghĩa cuối cùng, nói đến “một máy tích điện của tất cả các nguyên tắc của tính kí hiệu và đồng thời vượt ra ngoài giới hạn của tính kí hiệu”- Iu. M. Lotman trong (5, tr.231).

Đ.T.L (Ths, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa quốc tế)

Tài liệu tham khảo

1. Chevalier, J., Gheerbrant, A. (1969), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (bản dịch tiếng Việt của Nxb Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du), Nxb. Đà Nẵng, 2002.

2. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng-một số hướng tiếp cận lí thuyết, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2005), Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ.

4. Đoàn Tiến Lực (2012), Lửa: từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng ngôn từ, Nghiên cứu văn hóa số 5, tháng 9-2012.

5. IU. M. Lotman (2015), Kí hiệu học văn hóa (Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.

7. Hoàng Trinh (1992), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8. Eco, U. (1986), Semiotics and the Philosophy of language, Indiana University Press.

9. Noth, W. (1995), Handbook of Semiotics, Indiana University Press.

Ngày nhận bài: 29 - 12 - 2015

Ngày phản biện, đánh giá: 8 - 6 - 2016 Ngày chấp nhận đăng: 28 - 6 - 2016

(6)

Referensi

Dokumen terkait

Trong phần tiếp theo của nghiên cứu này, kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và thực hiện chính sách văn hóa về việc phát huy sức mạnh mềm của văn hóa của Mĩ và Trung Quốc sẽ lần lượt

Trong thời gian tới, cần mở rộng nghiên cứu theo hướng này theo hướng bổ sung chi tiết hơn các dữ liệu đo đạc, hoàn thiện phương trình tính toán, phương pháp xử lý ảnh để có thể mở rộng