TAP CHỈ KHOA HOC DHQGHN. KHXH & NV. T XX, So 2. 2004
CẢM NGHĨ VỂ THẦY . GIÁO s ư ĐÀO DƯY ANH
MỘT VÀI KỸ ỨC VÉ THẤY Đ À 0
Tôi dược biết về G iáo sư Dào Duy A nh từ rất sớm qua dọc các sách báo do ỏng v iết và x u ấ t bản trước năm 1945. Có hai cuốn sách của ỏng khi còn học trưng học tỏi r ấ t thích là T ru n g Hoa sử cương và Việt Nam văn hoá sử cương. Còn báo th ì là các bài n g h iên cứu về lịch sử, văn học đàng trên hai tạ p chí T r i T à n, T h a n h N g h ị.
N hư n g phái tới sau kh án g ch iến toàn quốc bùng nổ (1946), tôi mới được trực tiếp gập và quen ỏng. Lúc đó gia đình ông tàn cư về h u yện Thọ X uân, tình T hanh Hoá, gần trường T ru ng học Đào D uy Từ là nơi tôi dạy mối từ th à n h phô"
T hanh Hoá dời lên , m ấy người con ông vì th ế đều trở th à n h học sin h của trường.
Môi quan hệ từ n a y đã trỏ th à n h phụ huynh học sin h với nh à trường.
Kỳ nghĩ hè năm 1947, tỉn h T hanh H oá có tổ chức m ột lớp bồi dường chính trị, vAn hoá cho giáo viên . N h iều nhà khoa học, giáo dục, văn n gh ệ sì nối tiê n g lúc đó có m ặt ở T hanh Hoá, như Đ ặ n g T hai M ai, Tôn Q u an g P h iệt, Vù Ngọc P h an , Trương Tửu, N g u y ễn Lương N gọc... đã tới trìn h bày ch u yên để. v ỏ n ham thích môn lịch sử, những bài giáng của ông Đào Duy Anh đặc biệt thu h ú t tôi.
Có m ột sự m ay m ắn là cũ n g vào thời kỳ này, các ông Đ ặn g T hai M ai, Tôn Q uan g P h iệt, V ù N gọc Phan đều có con học trường Đào D u y Từ nên các ông
n GS . Khoa lích sử, Đại hoc Khoa học Xă hỏi và Nhán văn.
Đ in h X u â n L âm <4) thường tới th ãm trường và các giáo viển.
N hò vậy, vào năm 1948 m ột nhóm ngh iên cứu V ăn - Sử đã ra dời, ngoài một sô"nhà văn hoá đã nh ắc tên ở trên, còn có các giáo viên d ạy các m ôn khoa học xả hội của trường Đ ào Duy Từ. Nhóm n gh iên cứu Văn - Sử sin h hoạt định kỷ m ột th á n g một lần, khi th ì G iáo sư Đ ặng T hai M ai th u y ế t trìn h vê tác phẩm C h in h p h ụ n g â m, khi th ì G iáo sư Đào D uy Anh nói ch u y ện về tác phẩm Hoa T iê n, lại còn' giới th iệu cả tác phẩm T rìn h thử (tôi kh ông nhớ tên người giới th iệu ). Trong hoàn cản h k h á n g chiến mà có m ột tổ chức văn hoá sin h h oạt đều đặn và n gh iêm túc như vậy ỏ m ột vùn g nôn g thỏn, kế củ n g lạ và hiếm ! Đó là chưa nói rằng n h ữ n g người chủ chốt của nhóm n gh iên cứu đểu bận trăm công ngàn việc, ông Đ ặ n g T hai M ai lúc đó giữ chức Chủ tịch U ỷ ban K hán g ch iến - H ành chính tỉn h T hanh Hon, ông Tôn Q uang P h iệ t phụ trách công tác M ặt trận Liên V iệt tỉn h , ông Đ ào D uy Anh là Chủ tịch Hội V ăn n gh ệ Liên kbu 4, và đi họp h à n g th á n g nào có ph ải gần gũi gì, h à n g m ây chục cây sô" dường quê, phần lớn là chông gậy đi bộ, “sang” lắm mới có
“cẩn vụ ” đèo xe đạp. N hóm n gh iên cứu V ăn • Sử đối vối ch ú n g tôi - n h ũ n g giáo v iê n trẻ m ăn g được đào tạo th eo chương trình của P h áp - thực sự bồ ích. Có thế nói đó là trường học đầu tiận bồi dưỡng n â n g cao trình độ c h ú n g tôi về khoa học
4 5
4 6 Đinh Xuân Lùm. Hà Văn Tấn. Trán Q uốc Vượng.
xã hội nhân văn để có th ể hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy trong hoàn cảnh không có sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
C ũng vào thòi g ia n n ày, tôi được đọc cuỏn D uy vật sử q ua n của Đ ào D u y Anh giới th iệu ngắn gọn, dễ h iểu quan điểm của Chủ ngh ĩa M ác về lịch sử, có liê n hệ với lịch sử V iệt N am . C hính nhờ có cuốn sách nhỏ này m à tôi có th ể báo cáo trước lớp bồi dưỡng giáo v iên toàn tỉn h T hanh Hoá vào dịp nghỉ h è 1948 về việc giảng dạy môn lịch sử ở trường tru n g học.
N hư n g rồi nhóm n g h iên cứu V ăn - Sử ở trường Đào D u y Từ cũn g ch ẳ n g hoạt động được lâu vì sa u đó các th à n h viên trụ cột của nhóm n h ư Đ ặ n g T h ai M ai, Tôn Q uang P h iệt và Đ ào D uy A nh đểu ra V iệt Bắc nhận n h iệm vụ mói.
Sau cải cách giáo dục năm 1950, trên đường đi công tác, tôi m ay m ắn m ua được cuốn giáo trình L ịc h sử Vỉệt N am của Đ ào D uy A nh trong m ột quán sách.
Sách in trên giấy xấu , khó đọc, không rõ th eo con đưòng nào m à từ V iệt Bắc vào đến Xứ T h anh . Đối với tôi lúc đó, cuốn sách quả là món quà quý. Tôi đả đọc kỹ cuốn sách, nhờ vậy đã có m ột sô" thu hoạch mói v ề lịch sử dân tộc, điểu đó giúp tôi soạn và g iả n g bài có c h ấ t lượng hơn n h iều , so với trước đó ch ủ y ếu là dựa vào V iệt N a m sử lược của Trần T rọng Kim.
Thời gian th ấm th o á t trôi qua, k ể từ ngày ông Đ ào D uy A nh ra V iệt Bắc, tôi ít có tin tức v ề ông, chỉ n g h e có người nói rằng ông ốm , có thời gian v ể T h an h Hoá dưỡng b ện h , n h ư n g vì lúc đó tôi k h ô n g c ò n d ạ y ở trường CÜ nữa nên khôn g có điều kiện tói th ăm , ít lâu sau vui m ừng
ngh e tin ông đã bìn h ph ục và n ãm 1953 đã về dạy Dự bị đại học và S ư phạm cao cấp ở T hanh H oá.
T hê rồi k h á n g c h iế n 9 n ă m chông thực dân P h á p th à n h công (1954), sau tiếp quản T hủ đô H à N ội (10-1 0 -1 9 5 4 ), các trư òng đại học mở cử a th u n h ậ n sinh v iên , học sin h các v ù n g tự do và m ột sô"
sin h viên thời H à N ội tạ m bị ch iếm còn ở lại. S au T ết n ăm 1955, k h i tôi vừa hoàn th à n h công tác tu y ể n sin h cho tỉnh thì đột n g ộ t n h ậ n được q u y ết địn h của s ỏ G iáo dục L iên kh u 4 cử ra Hà Nội học trường Đ ại học Sư ph ạm , chậm gần 2 th á n g sau khi các trường đại học đã khai giảng. Tôi sẽ k h ô n g bao giờ q uên buổi đầu tiê n n h ậ p học ch iều hôm đó, khi đan g hỏi đường vào lớp tron g h àn h lang g iả n g đường th u ộc k h u vực trường Đại học trên đư òng Lê T h á n h T ô n g thì gặp G iáo sư Đ ào D u y A nh vào. T h â y tôi, ông vui vẻ hỏi tìm ai? ra H à N ội có việc gì?
Tôi trình bày là được cử ra học Đại học Sư phạm n g à n h s ử . Ô n g tỏ ý vui m ừng bảo tôi đi th eo ô n g tới lớp (vi là giáo viên n ên tôi được đặc cách lên năm th ứ 2), và th ú vị th ay người lên lớp ch iểu hôm đó ch ín h là G iáo sư Đ ào D u y A nh. Buối ch iều hôm đó là buổi học đ ầu tiên tôi ngồi n g h e g iả n g với m ột tư cách là sinh v iê n đại học, và th ầ y d ạy giò đầu tiên cho tôi là th ầ y Đ ào D uy A nh. N h ư n g sự th ậ t th ì th ầy Đ ào đã d ạ y tôi từ lâu, từ trước cách m ạ n g v à tro n g k h á n g chiến qua các công trình n g h iê n cứu của T hầy, qua các buổi sin h h o ạ t khoa học cùng T hầy, và cả qu a n h ữ n g bài g iả n g của T hầy tạ i trại h è của n g à n h giảo dục tỉnh T hanh Hoá n ăm 1947 tạ i hu vện T hiệu Hoá trên bờ sô n g C hu năm xưa.
Tạp chí Khoa học Đ H Q G H N . K tìX H & NV. r.xx. So 2. 2ỉHN
Câm nghi võ Tháy ' Giáo str Đào Duy Anh 47
MỘT VÀI KỶ NIỆM VỚI GIÁO S Ư Đ À O DUY ANH
N am 1954, ra Hà Nội, tôi mới được trực tiếp gặp G iáo sư Đ ào D u y Anh. Tôi nhỏ lần gặp nhau đau tiê n là ớ h iệu sách Trường T ien. Lan đỏ ỏng có hói thảm ỏng bác tỏi. Từ đó vê sa u , ngoài giờ nghe ỏng giá n g trên g iả n g dường,* th ỉn h th o ả n g tôi có đến nhà ôn g đê đưa th ắc m ác của anh em trong lớp vì tỏi được ph ân cỏn g phụ trách môn c ổ sử V iệt của lớp tôi. Thường đến nhà ông cù n g anh H oàng Văn Lân, học trên tôi m ột lớp.
T h á n g 7 năm 1954, nã nì tôi tốt ngh iệp có m ột ch uyện đ á n g nhớ. Một hôm ô n g cho người gọi đến. Tôi hơì băn khoăn vì h àn g ngày tôi đến nhà ông mả kh ôn g ai bảo cà. Đ ằn g n à y là có người gọi là G iáo sư cần gặp. Lần đỏ, sau khi dô tôi ngồi bên bàn nước, ô n g lây trong ví ra 5 đồng đế trước m ặt tôi và nói:
- Cho anh tiền tàu xe vể quê.
C hắc ông đoán ra hoàn cảnh tỏi. Tôi vô c ù n g xúc dộng (xúc đ ộn g cho đến giờ, khi tỏi ngồi viết n h ĩỉn g d òn g này).
Sau khi vê què lán đó, tôi trở lại trường, làm tập sự trợ ]ý ỏ bộ môn ông.
Tỏi c.oi dó là một dịp m ay h iếm có trong cuộc đòi tôi. Có lần ô n g đả cho tỏi chiếc bút m áv kim tin h trôn có kh ắc ba chừ Đào D uy A nh b ằn g chừ H án . Tôi rất tiếc là ch iếc bú t m áy đỏ tôi dà đán h m ất. Đ ặc biệt là th ín h th o á n g ông lạ i cho tôi các
’ GS . Vién Khào cổ hoc
Hà V ãn T ấ n r>
tài liệu của ông. G ần đây tôi cỏ tim dược quyến C ác h ỉn h thức sản xuất trước chủ ng h ĩa tư bản in ở T ru n g Quốc, trên có dòng chữ "tặng anh T rần Quốc Vượng và an h Hà V ăn T ấn ngày 19*3-1957".
Q uyển sách này là m ột tác phẩm quan trọng của M ác. Trước đây chì có bán dịch ở T ru n g Quốc và chỉ có ờ Thư viện Trung ương dường Trường Thi. Tôi và anh Vượng phải ra dọc ỏ Trường Thi. Chác là b iế t ch u y ện đó nên tron g chuyến đi T ru ng Quốc, G iáo sư Đào Duy Anh dã m ua quyên sách đó và tặ n g anh Vượng và tôi. Đ iều dó nói lên sự quan tâm của Giáo sư đốỉ với ch ú n g tôi.
Từ bé, tôi đã sa y m ê cách n g h iên cứu của G iáo sư Đ ào D uy Anh. Tôi nhỏ là từ năm 1951, tôi mượn dược sô" báo T hanh N ghị có in bài Vấn đ ề G iao c h i của Giáo sư. Tôi đã phải ngồi chép lại cái bài rất dài dó. Và qua dó, tôi dã b iết các vấn đề m à sa u n à y G iảo SƯ trình bày trong c ố sứ Việt N am . C ùn g qua đó tôi học được
rất n h iều , c h ả n g h ạn tôi h iểu t h ế nào là đồ dẳn g, tức tô tem . Có th ê nói là bài đó ản h hưởng đến bài v iế t đầu tiên của tôi v ể tô tem củ a người V iột cổ.
Các phong cách ch ú trọng sử liệu của G iáo sư cũ n g đà ảnh hướng đến tôi.
Làm việc với G iáo sư Đ ào Duy Anh, công việc đầu tiên m à tôi được giao là
l i i Ị K Ìu Khou hot DIIQCÌIIN. K H X H ổi /VI . I XX. S o 2. 2lH)4
48 Đ inh Xuủn L âm , H à V;ìn T ân . T rán Q u ố c Vương..
hiệu đính bản dịch D ư đ ịa c h í của N guyễn Trãi. S au đó lại phải chú th ích các địa danh, v ể m ặt này, tôi học tập được n h iều điều về địa lý học lịch sử ở Giáo sư. N gày nay, đọc lạ i D ư đ ịa chí, tôi kh ông th ể nào h ìn h d u n g được m ình đã hoàn th àn h công trình đó t h ế nào ở tu ổi 20. N ếu kh ôn g có sự chỉ bảo của G iáo sư và tấm gương của Giáo sư thì tôi chắc là không th ể hoàn th à n h được công trìn h đó. N gày đó, tôi được G iáo sư Đào D uy A nh giao cho trách n h iệm làm thư ký bộ môn. B ấy giờ bộ m ôn cỏ m ột tủ sách riêng, có nhiều sách lấy ở th ư v iện Cao X uân Dục như bộ Đ ạ i N am nhất thống c h í - Tự Đức, bản v iế t tay (tôi chú thích D ư đ ịa c h í được là nhờ ở bộ sách này), v ề sau, Giáo sư Đào D uy A nh lại đem v ề tủ sách rất n h iểu sách H án Nôm mượn được ở gia dinh H oàng X uân H ãn. G iáo sư Đào D uy A nh giao cho tôi phải trông coi tủ sấch , nhò đó tôi dọc được rất n h iều điều bổ ích cho công việc sa u này. G iáo sư Đ ào D uy A nh giao cho tôi n h iệm vụ phải dịch toàn bộ phần v iế t về V iệt N am trong bộ sử Loàn t h ế giới của Liên Xô, Sau này G iáo sư Đ àcrD uy A nh cỏ tâm sự với tôi: "Tôi già rồi kh ôn g học được tiế n g N ga nữa, an h còn trẻ, n ên học tiến g N ga vì Đ ông phương học của Liên x ỏ có nh ữ n g tiến bộ đ á n g trân trọng". Ô ng cũ ng từ n g nói với tôi rằng: "Muốn h iểu văn hoá V iệt N am thì phải hiểu biết v ề Ấn Độ và T rung Quốc". C h ín h điều đó đã k h iến tôi học chữ P h ạ n và tìm h iểu các trường phái tr iế t học cổ Ân Độ.
Tôi kh ôn g th ể nào kế h ết các ảnh hưởng của lớn lao của Giáo sư Đào Duy A nh đối với tôi. Giò đây khi v iết các công trình khoa học, tôi đã nh ận ra n h ữ ng ảnh hưởng đỏ. Ảnh hương càn g lón khi
mà tìn h cảm G iáo sư đối với tôi, tỏi biết là rất ấm áp, kh ôn g chỉ là tìn h thầy trò mà còn pha lẫ n mối tìn h cha con. Vì th ế qua n h ữ n g lần nói ch u y ện riêng, ông đã để lộ ra n h iều tâm sự. C h ú n g ta cỏ thế h iếu n h ữ n g tâm sự đó n ếu hiếu được cuộc đời ông. Có lần tôi k ể với ông là tôi đã đọc qu yển N guyễn D u kỷ niệm văn học p h ổ do ông biên tậ p trước cách mạng.
Tôi đã thuộc lòng các bài thờ chừ Hán của N gu yễn Du in tro n g tậ p sách này như u cư, Sơn cư, Đ ộc T iê u Thanh ký...
Ô ng đã k h en tỏi là cư ờng ký, và nhiều lần đề nghị tôi đọc lạ i n h ữ n g bài thơ đó cho ôn g n g h e, đặc b iệ t là bài Độc Tiểu T h a n h ký. Ô ng tâm đác với những câu:
C ổ kim hận sự thiên nan vấ n, Phong vận kỳ oan ngã tự cư và n h ấ t là câu Bất tri tam bách d ư n iên hậu, T h iê n hạ hà nhăn kh ấ p T ố N hư , Tôi ngh i rằ n g với tâm sự đó, m à sa u n à y ông dịch S ở từ của Khuất N g u y ên . Đặc b iệt là tôi nhớ lần ông tâm sự sa u hội th ả o kỷ niệm N guyễn Trãi.
L ần đó tôi th ấ y ông lo lá n g về tìn h trạ n g vãn bản tác phẩm N g u y ễn Trãi và k h u yên ràng lớp trẻ c h ú n g tôi nên tham gia vào công tác này. Hôm ấy ông còn thô lộ tâm sự và ông đọc cho tỏi nghe m ày câu thơ của ông:
L à m người k h ổ lắm a i ơi.
K iếp sau tôi chẳng làm người nữa đâu Một đờ i nước m ắt ngập đầu
C ho hồn tin h vệ biết đ â u m à tìm C hẳn g là ô n g vẫn ví m ìn h như chim tin h vệ ngậm n h ữ n g hòn đá nhỏ ỉ ể lấp biển. Tôi khôn g biết rõ là ô n g đã có v iết m ây câu thơ n à y ỏ đâu chư a, h ay là ông chỉ đọc cho riên g tôi... Tôi k ể lại ở dây để kết th úc nh ữ n g dòng kỷ n iệm về Giáo sư Đ ào D uy Anh.
Tap i lii Khoa hoc Đ H Q G H N . KHXỈI á M . r XX. Sẽ 2. 2(H)4
Cám nghĩ vé Tháy - Gtáo sư Dào Duy Anh 49
TỈNH NGHĨA THẤY TRÒ
Tôi n gh e dan h tiế n g cụ Đào D uy Anh đã khá lâu - ở th ập n iên 40 của th ê kỳ XX, k h í còn là m ột “nhóc con” học ở trường tru n g học (n ay tôi đã vào tuổi
“th ấ t tu ầ n ” và đã có “quá khứ” 48 năm dạy Đ ại học N h ả n v ă n , cũ ng do cụ Đào • th ầ y tôi đun đẩy).
K hông h iểu sao, ở Liên khu 3 thòi k h á n g ch iến chôYig P háp, tôi học G iáo sư Lâm Hữu B à n g (tôi bị b ặ t tin th ầ y từ năm 1950) - từ năm thứ n h ấ t đến năm th ứ tư (1 9 4 6 -1 9 5 0 ) ở trường T ru ng học N g u y ễn B iểu Hà N am - m à th ầ y B àng lại có được cuốn V iệt N a m lịch sứ g iáo trình của cụ Đào D uy A nh (viết k h o ản g
1948-1949), ở L iên kh u 4.
T h ú th ậ t, trước đó, vì “học leo” các an h chị ở các trường C hu V ủn An, trường Đ ỗ H ữu Vị (i Hà N ội, trưỏc 1945-1946, tôi đã “n g ố n ” cuốn sách giáo khoa Việt N am sử lược của học giả T rần Trọng Kim rồi. T h ế m à, ra k h á n g ch iến , đọc và học V iệt N a m lịc h sử g iá o trìn h của cụ Đào D uy A nh , tôi k h ôn g ngốn nổi. Có th ể vì cụ Đ ào v iế t th eo “qu an điểm M ác - x ít”
m à tôi chư a quen . C ũng có th ể vì sách th ì dày (4 tập ), lạ i in trên giấy rất đen và in xấu (do “hoàn cản h k h á n g ch iến ” thời đó), rất kh ó đọc. N h ư n g th ôi, “đừ ng đổ cho hoàn cảnh k h ách qu an” có lẽ tôi còn
° GS . Đại hoc Quóc gia Hà Nội.
T rầ n Q u ố c V ư ợ n g (<i q u á nhỏ tuổi và quá dốt n ên “đọc” cụ Đào
“k h ó nh ai - n u ốt” hơn đọc cụ Trần.
Rồi cũ n g đọc ở đâu đó (hình như ở T hái B ình - chợ Đ ống N ă m , trong các sạp sách cũ trước 1950) n h ữ n g sách của cụ Đ ào nh ư T ru n g H oa sử cương, M uốn h iêu sử h ọc, Việt N a m văn hóa sử cương, D â n tộc là g ỉ? ... (chắc là ở tron g bộ sách của Q uan h ả i từng thư), tôi cũ n g chỉ h iểu lơ-tơ-m d...
Lúc bấy giờ, tôi th ích các sá ch toán củ a T ây hdn, nó d u y lý v à d ễ h iể u (dù tri th ứ c P h á p ván củ a tôi th ì cũ n g
“x o à n g ” th ôi).
Bước n g o ặ t của cuộc đời tôi và sự n g h iệp tôi là từ sau nảm ‘tích cực cầm cự, ch u ẩ n bị tổ n g phản công” (k hoảng n ăm 1950). Từ K hu 3, tôi “đi cư” vào xứ T h a n h , th i tô t n gh iệp tru n g học rồi theo học trường Lam Sơn (trước m ang tên Đ ào D uy Từ). H ết lớp “9 bổ túc” (sau gọi là lớp 10) tôi vào học trường Dự bị đại học ỏ T hanh Hoá (k h oản g 1951-1952).
T ại đây, tôi đã gặp và được học với n h ữ n g bậc th ầ y nổi tiế n g từ lâu trong cả nước: T rần V ăn G iàu , N g u y ễn M ạnh T ưòng, Trương T ử u ...V à n h ấ t là cụ Đào D u y A nh (năm ấ y tu ổi “chưa đầy nàm m ươi” n h ư n g đã “già d ặn ” lắm ).
Tạp chi Khoa học D H Q G H N . K H X H <& NV. T.XX. S ổ 2. 2(H)4
5 0 Đ inh X uân Lítm , H à V ãn T ân . T rấ n Q u ố c Vượng,
Cụ Đào từ V iệt Bắc (hình như là th ành viên Hội V ăn .học * N ghệ th u ậ t, Ban Sử - Đ ịa, Bộ G iáo dục) v ề xứ T hanh dưỡng bệnh (cụ đã m ắc bệnh lao phối hay là m ột th ứ bệnh gì đó về hệ hô hấp).
Theo tôi CÒIÌ nhớ được, h ìn h như ban đẩu cụ Đ ào chưa phải là th à n h viên của trường Dự bị đại học và Sư phạm cao cấp CỈO các Giáo sư T rần V ăn G iàu, Đ ặn g T hai M a i... sá n g lập (trong H ồ i k ý, cụ Đào nói mùa th u 1953 cụ mới công tác ở Trường). Ciiáo sư T rẳn V ăn G iàu vừa dạy triết (duy v ậ t biện ch ứ n g và duy v ậ t lịch sử) vừa bình g iả n g vể lịch sử V iệt N am th eo các tài liệu của cụ Đào D uy Anh, H oàng X uân H ãn, T rần T rọng Kim .
Thu • Đ ỏng 1953» G iáo sư G iàu phải lên V iệt Bắc họp, đi lại h à n g th á n g trời.
Ô n g nhờ cụ Đào đ ến trư ờ n g th i th o ả n g th ay .ông và giao cho tôi (lúc ấy là Thường vụ H iệu đoàn, phụ trách Vản khoa) phải phụ trách việc tổ chức đưa đón cụ Đào. Trước khi đi V iệt Bắc, th ầ y G iàu còn dặn tôi: “A n/ỉ Đ ào b ị lao, nếu an h không dạy được th ì "ch ú ” p h ả i đến tận nhà (ở Đ u ) nghe an h ấy g iả n g, “ch ú ” g h i chép lạ i t ỉ m ỉ rồ i vể “thuyết trin h” lạ i cho sin h viên các chú nghe. N h ư n g nhớ là p h ả i nói đây là g h i lạ i lời G iáo sư Đ ào D u y A n h , “ch ú có nhiệm vụ g h i lạ i và truyền đạt lạ i lời G iá o sư Đ ào”.
Tôi thực h iện rất n gh iêm chỉnh lời chỉ th ị của G iáo sư ? G iám đốc kiêm B í th ư Đ ảng uỷ N h à trường.
G iáo sư Đ ào D uy Anh chỉ đên lớp dược hai tối. Ỏ n g ngồi trên ghê gồ đặt sa u cái bàn gỗ đế ỏ h à n g h iên của một căn nhà sau ch u n h ân bị “quy’* là “địa ch ủ”. T rên bàn đ ặ t một. ngọn đèn dầu leo lắ t m à ông còn bảo v ặ n nhò thôi hoặc tắ t đi cũ n g được vì ông nói (“th u y ế t trìn h”) kh ôn g cần “n h ìn ” vào m ột giáo trình - giáo án ch i cả. S in h viên ch ú n g tôi ngồi ngoài sâ n , n h ữ n g cái b àn cái ghẽ dã chiến xin h x in h , nhỏ bé, xách ta y - kẹp nách và đưỏi n h ữ n g ngọn đ èn còn leo lắ t hdn, ph ần lớn làm b ă n g n h ữ n g vò lọ “pê- n ê-xi-lin ” bé tí tẹo (của G iáo sư Đ ặn g Văn Ngừ) chửa được k h o á n g 2*3 em '
“dầu hoả”, th ắ p k h o á n g 2 - 3 giờ là tắt.
Cụ Đào D uy A nh cứ t h ế g iả n g m iên m iên về “Cổ sử V iệt N a m ”, “Lịch sử V iệt N am ” kh ô n g m ột tờ g iấ y dư ới ta y, trên bàn (sa u n ày tô i mới b iế t là cụ đà biên so ạ n các g iá o tr ìn h n à y từ khi còn ở V iệt BẮc).
S au 2 - 3 tối, cụ Đ ào ho lụ khụ. Ban G iám đốc N hà trường bảo tôi đến nhà cụ, n g h e cụ giản g rồi vé “t h u y ế t t r ì n h ” lại cho đồng môn. T rên thực tế, tôi đà là ‘trợ lý*’ của cụ Đ ào từ T hu Đ ông 1953. Sau này (1/7/1956), tố t n g h iệp th ủ khoa cử n h ân Sử Đ ịa (cù n g P h a n H uy Lê), tôi được giữ lại làm “tậ p sự trợ lý” cho G iáo sư Đ ào Duy A nh dường nh ư là m ột sự tất n h iên .
Mọi sự về s a u , d u y ên nợ với cụ Đ ào, tôi đã th u ậ t lạ i tro n g cuốn Khoa S ử và tôi. Thôi k h ô n g cần nói n ữ a ...
Tạp í hi Khoa học DHQ CỈHN. K H X H & N V . T XX. Si» 2. u m
C ám n g h ĩ vế T hấy ■ G iáo sư D ào D uy Anh M
CẢM NGHĨ VẾ THẦY ĐÀO DUY ANH
Sau n gày m iền Bắc hoàn toàn giải phóng, th á n g 10 năm 1954, các trường dại học được mở lại ỏ Hà Nội. Tôi cùng m ột s ố bạn bè cù đà m ay m án được bước chân vào dại học, trò th à n h sin h viên Đại học Sư phạm và là học trò của T hầy Đ ào D uy Anh - người th ầ y giáo chu yên về lịch sử Việt N am cổ tru n g đại. Được học T hầy, đọc sách của T h ầy, nghe nói ch u y ện vê T hầy, dẩn d ần tôi mới b iết T hầy là m ột nhà sứ học, một nhà vản hoá có danh tiếng.
N gay từ trước Cách m ạn g th á n g 8 năm 1945, khi T h ầ y còn rất trẻ, ỏ độ tuổi 25 • 35, T hầy đà là m ột n h à hoạt động chính trị, m ột nhà khoa học, m ột nhà báo được n h iều người hãm mộ. T hầy đã dầy công n gh iên CÛU, b iên soạn n h iều bộ sách quý như: Việt N a m văn hoá sử cương, H á n - Việt từ đ iể n y P h á p - Việt từ đ iê n " không chỉ có giá trị đương thời mà còn có giá trị đến n gày nay. Bên cạnh đó, T h ầy còn v iết n h iều bài báo sắc sảo.
Trong hoàn cảnh nưỏc ta đương thòi, đâu phải dễ d àn g mà v iết được nhữ ng công trình khoa học n h ư vậy v à chính những điểu đó khiến cho n h ữ n g học trò như ch ú n g tôi suy nghi.
Cách m ạng th á n g 8 th à n h công, với tâm n guyện và ý chí của m ìn h , T hẳy Đ ào D uy A nh dã đi theo cách m ạng, đi vào cuộc k h á n g ch iến c h ô n g Pháp. C hính trong nhữ ng năm đầy khó k h ă n đó, T hầy
n GS ,Khoa Sừ. Đai hoc Sư pham Hà Nỏi
T rư ơ n g Hửu Q u ý n h r) đã biên soạn hộ Việt N a m lịch sử g iá o trin h (xu ất bản 1949)» đế rồi sau ngày hoà bình lập lạ i, khi trở th ành th ầ y giáo đại học, T hầy sử a chừ a, bố su n g và xu ất bản th àn h bộ L ịc h sử Việt N am (2 tập).
Có th ể xem dây là bộ th ôn g sử V iệt Nam thòi cô tru n g đại đầu tiên của nước ta được biên soạn th eo quan điểm củ a chủ nghỉa Mác - L ên in và cũ n g là bộ giáo trìn h lịch sử đầu tiên của trường đại học V iệt N am . Và phài ch ăn g, trong nhữ ng năm này, T h ầy vừa trơ th ành m ột giáo sư vừa trở th à n h m ột nh ả sử học. N ghĩa là vừa làm công tác dào tạo t h ế hệ khoa học trẻ vừa mở đường n g h iên cứu lịch sử dân tộc thời phong kiến.
S au ngày tốt n gh iệp , tôi không được m ay m ắn tiếp tụ c th eo T hầy, nhưng n h ữ n g đ iều T hầy dạy, phương pháp g iả n g dạy của T hầy, sự khu yến khích, động v iên của T h ầ y về n g h iên cứu khoa học cũn g như n h ữ n g gì tôi đà đọc và học được của T hầy qua các công trình ngh iên cứu, dịch th u ậ t và chú th ích vể lịch sử dân tộc, m ãi m ãi ghi sá u vào trí óc tỏi, giúp tôi rấ t n h iều trong cuộc đòi công tác, g iả n g d ạy và n g h iên cửu lịch sử.
N h â n dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của T hầy Đ ào Duy A nh, tôi v iết m ấy dòng cảm n gh ĩ của m ình về T h ầy đê khắc sâu hơn nữa lòng b iết ơn và kính trọng của m ột học trò rất quý m ến và hâm mộ T hầy.
Tạp (h i K lit Hỉ Um D iỊ Q iU iN . K H X H & N \\ TXX.SỎ 2.2004
52 Đ in h X uàn L âm . H à V àn T ủn. T rấ n Q u ố c V ượng.
GIÁO Sư ĐÀO DUY ANH - NHÀ VÁN HOÁ LỖI LẠC
Khoa Sử thường nói, v iế t th ầ y là G iáo sư S ử học. Đ ú n g, n h ư n g chưa đủ.
Giáo sư Đào D uy A nh trước h ế t là N h à sử học vào loại lớn nhâ't của đ ấ t nưỏc V iệt N am th ế kỷ XX. Tôi là k ẻ ngoại đạo, nói th ế dầu có chủ qu an củ n g xin được m iễn thứ. T rong nhà tôi, non chục công trình m à tôi dựa vào để k ín h G iáo sư là th ầy, lại chưa phải là sử m à là các loại từ điển. Về m ặt này, phải coi th ầ y là N h à từ điển học. H á n - Việt từ đ iê n y T ừ điển truyện K iề u... đều là n h ữ n g công trình mở đường và d a n g có giá trị quí hiếm hà n g đầu. H á n - V iệt từ đ iể n in đi in lại, in ch ín h in trộm đến m ấ y chục lầ n s ố lương quá nhiều; T ừ đ iển truyện K iề u in lần đầu 1974 đến 3 0 2 0 0 cuốn. G iáo SƯ Đào D uy A nh còn là N h à khảo cứu H á n N ôm trác việt. Sách nào Cụ dịch, Cụ
phiên âm , Cụ h iệu đín h cũ n g dành được niềm tin của độc giả, nh ư Đ ạ i Việt sử ký toàn thư, N guyễn T r ã i toàn tập (in tái bàn 1976: 5 2 0 0 cuốn), cho đến nay v ẫ n là tập sách n g h iên cứu chữ nôm theo phương pháp cổ điển hệ th ốn g, toàn diện, khoa học, m à có giá trị th u y ế t phục kh ông th u a kém rừng sách n g h iên cứu
B ù i D u y T â n <#ỉ chữ nôm th eo phương pháp mới. Tập K h ả o lu ậ n truyện K iể u và Truyện K iể u do Cụ khảo đính đến nay vẫn được coi là n h ữ n g tập sách n g h iên cứu khảo luận v ă n b ản có giá trị, được sách giáo khoa và các bộ tu y ển tậ p , tổn g tập trích in.
Rồi tập Việt N a m văn hoá sử cương (in 1938) và T iểu lu ậ n V ăn hoá là g ỉ (in 1946) lại là n h ữ n g công trìn h sớm n h ấ t và sâ u rộng n h ấ t về văn hoá V iệt N am , m à tác giả Cụ Đ ào xứ ng đ án g là N hà văn hoá lớn.
Tôi đã từ n g được học và được đọc trước tá c của bôn đại gia được suy tôn từ tiền bán th ế kỷ trước: Đ ào Duy Anh, H o à n g X uân H ãn, C ao X uân Huy, Đ ặng T h ai M ai, th ấ y rõ G iáo sư Đ ào D uy Anh là học giả có n h iều công trìn h khoa học ỏ n h iểu lĩn h vực khoa học xã hội và nhân văn , công trình của Cụ th ư ờn g có tính ch ấ t k h ai sá n g và đ a n g còn giá trị cao.
Tôi m uôn, dầu có th ể chủ quan, m ệnh dan h T h ầy Đ ào D uy A nh là N h à v ă n h ỏ a lỗ i lạ c . Và xin được coi đây là nén tâm hương th à n h kín h cảm tạ Cô' Giáo sư n h â n dịp kỷ n iệm 100 năm sin h của Người.
° PGS.. Khoa Vân hoc, Đại học Khoa học Xả hội và Nhân vân.
Tạp (h i Khoa học D tìQ G H N . KN XỈỈ A NV, r.xx, S ố 2. 2004
Cam nghĩ vé Tháy - Giáo sư Đào Duy Anh 5 3
KÍNH TRỌNG GIÁO SƯĐẢO DUY ANH
Bước chân vào ngàn h sử, tôi từ n g đem lòn g kín h trọng G iáo sư Đ ào D uý A nh - m ột nh à sử học u yên th â m , có n h iều công h iế n cho nền Sử học nưỏc nhà. Tôi nhớ, n ăm 1954, khi Ban V ăn Sử Đ ịa mối ra đòi, T rung ương Đ ản g chỉ thị cho B an phải th u thập, quyên góp các di sả n quý về Sử học đan g bị cuộc ch iến tra n h xâm lược của thực dân P h á p phá h oại, cũ ng như n h ữ n g tư liệu tịch thu được của địa chủ trong cải cách ruộng đất. Các nhà trí thức y êu nước cù n g đã qu an tâm đến v iệc này. Cho nên, th ậ t là vu i m ừng, trong khi ờ V iệt Bắc c h ú n g tôi đi th u th ậ p được m ột sò’ tà i liệu tron g đợt đầu p h át dộng quẩn ch ú n g giảm tô, cải cách ruộng đ ấ t, thì ở khu 4 các n h à sử học tâm h u y ết với n gàn h, như G iáo sư T rần V ăn G iàu, G iáo sư Đ ào D uy A nh đã sớnì quan tâm đến việc này. Khi B an V ăn Sử Địa cử cán bộ vào tiếp n h ận (đồng ch í H iến ) thì hai G iáo sư đã sẵ n sà n g trao cho m ột s ố sách báo, tài liệu mà các giáo sư vốn n h ạy bén với thời cuộc đả quy tậ p được. Khối lượng tu y kh ôn g n h iều do vận ch u y ển khó k h ăn , n h ư n g ch ấ t lượng là đ á n g quý. C ụ th ể tư liệu h iếm hoi v ề N g u y ễn Trường Tộ m à n gày nay ch ú n g ta đ a n g sứ d ụ n g là nằm trong sô" tư liệu này.
N ăm 1959, G iáo sư Đ ào D uy A nh được C hính phủ cử về công tác tạ i V iện Sử học, ch ú n g tôi vui m ừng khi được đón
° GS.. Viẻn Sử học
V ăn T ạ o (,)
“m ột cây đại th ụ ” về làm th ầy cho lớp trẻ. Đ ặc b iệt lúc đó N h à nưổc ta râ't chăm lo k h ai th á c di sả n văn hoá dán tộc, k h ôn g chỉ là thu th ậ p tà i liệu mà cỏn cho ph iên dịch các tác phẩm sử học đả có từ H án - Nôm ra tiế n g V iệt. G iáo sư Đào đã cù n g các n h à H án học uyên thâm như Trần V ãn G iáp, Hoa B ă n g H oàng, Thúc C hâm , Phạm T rọng Đ iểm cù n g hơn m ột chục các cụ cử n h â n , tú tà i nho học khác và các nhà cổ sử như N guyễn Đ ổng Chi, Văn T â n ... đã hợp tác ph iên dịch h ằ n g trăm công trình S ử học b ằn g Hán Nôm ra tiê n g quốc ngữ m à đ ến n a y ch ú n g ta đ an g trân trọng sử dụng. Đồ sộ như bộ Việt sử Thông g iá m Cương m ụ c, Đ ạ i N am thực lụ c tiền biên uà ch ín h biên, L ịc h triều hiến chương lo ạ i c h í, Đ ạ i N am hội điên sư lệ.,, trong đó G iáo sư Đ ào là người có công đóng góp quan trọng.
N ay n h ân dịp kỳ n iệm lầ n thử 100 ngày sinh củ a cụ, đ iều tô i học tập được ỏ cụ là tin h thằn say mẽ, có th ể nói là hy sinh quên m in h vì sự n gh iệp sử học nói riêng, cũ n g nh ư vì sự n gh iệp vồn hoá nước nhà nói ch u n g. Đ ặc biệt là đức vị tha trong đào tạo th ế hệ trẻ và đức khiêm tôn trong khoa học và trong cuộc sống đời thường. G iáo sư kh ông bao giò nói h ay v iế t vê m ìn h , cũ n g như không muôn ai ca ngợi m ình lúc sinh thời.
C hính vì v ậy m à sự ngh iệp của cụ lại ngày càn g sán lạ n , được n h ân dân trong nước và th ế giới đán h giá cao.
Tạp chi Khoa hục D H Q G H N . KỈIXH Á N I . ĩ.XX. Sô 2, 2004
5 4 Đ in h X uán Lâm , H ã V ãn T ấn . T rán Q u ố c V ưưng.
NHỚ VÀ NGHĨ VẾ THẤY
G iáo sư Trần Vàn G iàu nói: “Trước đây ta có Lê Q uý Đòn bác học, nay có Đào D u y A n h uyên bác”; “trong tư cách nhà sử học, nhà văn học, nhà khảo cố học, nhà từ điển học... C ụ lá một. chửìig nhàn lớn lao của thê kỷ...” (Phạm Văn Hạng), tôi cứ thấy nói t h ế vẫn còn chưa đủ.
Cụ sin h nám 1904, 28 tuổi làm xong Hán * V iệt từ điển (1932), 32 tuổi làm xong P háp - V iệ t từ điển (1936), quyển nào cũ ng trên dưổi n g h ìn trang, và cũng là đã qua m ột thời là m báo T iến g D ãn và T ổng bí thư Đ ả n g T ân V iệt.
1954, tròn 50 tu ổi, làm G iáo sư sử học, tiếp việc đà làm từ 9 năm trước (1945), Tố trưởng tổ c ố sử V iệt N am của Đ ại học V ăn khoa, h oàn th à n h 4 tập L ịc h sử Việt N am từ nguồn gốc đến th ế kỷ XIX, m ột m ình từ v iế t, tự in, tự phát hàn h. T h ật ký lạ quá, không sao hiểu nổi. Đ ây khôn g th ê là công v iệc của một người bình thưòng, m à là một thiên tài.
N ăm 1957, xảy ra vụ “N h â n vàn giai ph ẩm ” rồi đến đợt ch ỉn h h u ấn của tri thức, trong đó có các nh à giáo Đại học, kéo dài hơn m ột th án g. Tôi th am dự cù ng m ột tổ với Cụ và n h iều người nữa, n h ư ng ch uyện đă cũ qua lâu rồi, không n ên nói lại. S a u năm này, Cụ ph ải nghỉ
n GS., Vién Khảo cổ hot.
L ư ơ n g N in h dạy. K hoảng 2 năm sa u đó c h u y ê n vể công tác n gh iên cứu tạ i V iện Sử năm
I960, cảm nghi của Cụ s ẽ nói dưới đây.
Tại V iện Sử học, v iện trưởng T rần H uy Liệu nói: uA n h m uố n n ghiên cửu vấn để g i tuỳ a n h, như ng nên chọn nhữ ng vấn đế hiển là n h th i hơn". Cụ xúc tiến n g h iên cứu m ột vấn đề đà có tích luỹ trong quá trình n g h iên cứu lịch sử là vấn dể Đ ịa lý học lịch sử.
N ăm 1964, tác phẩm Đ ất nước Việt N am qua các đời x u ấ t bản , tác phẩm mà bây griờ và hơn 100 năm sa u s ẽ còn dứng vữ ng là sách cẩm n an g, còng cụ cho các nhà n g h iên cửu lịch sử, địa lý, quan lý hành chính, c ầ n đã đ àn h mà quý là ở chỗ đây là một côn g việc cho đến hiện nay, chỉ có Cụ duy n h ấ t làm được. Hoá ra, việc n ày lại là “cái m ay m án vĩnh cửu” cho khoa học.
N ăm năm công tác tại V iện Sử, Cụ
“d ịch và h iệu đ ín h g ầ n vạn tra n g” (Hồi ký “ATiớ n g h ĩ ch iều hôm")y nhiều thư tịch cố do Cụ đề xuất, thúc đẩy mà có. Chỉ xin kể lại đây một sô'công trình chính:
- Đ ạ i N am thực lụ c
- Đ ạ i N am nhất thống c h í 31 quyển , do ôn g Phạm T rọng Đ iểm dịch ‘ củ n g do tôi h iệu đ ín h ”.
Tạp ( hi Khoa học Đ ỊỊQ G H N . KH XÌỊ <fi N V. Ị XX. S ố 2, 2(HN
C ãm nghi vò T h áy - G iát) sir D ào Duy A nh 5 5
- Đ ạ i V iệt sử ký toàn thư đo Cao Huy Du dịch, "có n h iều chồ s a i về sự kiện và về niên h iệ u, ììén trong k h i h iệu đ in h và chú g iả i, tỏi p h ả i làm việc khảo chửng ti m ỉ d ế sửa chữa và g iả i th ích m ọi chỗ sai sót, uề h ìn h thức củ n g như về n ộ i d un g"
(Hồi ký, tr. 145).
- L ịc h triều hiến chương lo ạ i chí.
- P hủ biên tạp lục.
- G ia đ ịn h thành công c h í (do ông Đồ Mộng Khưcíng và ông Nguyễn Ngọc Tình dịch).
- o ch âu cận lục
K hông phải chỉ là hiệu đính, chủ giải bản dịch - việc n ày kh ông ph ải là quá khó, n h ư n g chỉnh lý 7 - 8 bản v iế t/ in khác, p h á t hiện chỗ sa i, tìm bản đúng nh ất, sửa chỗ sa i rồi mới dịch thì cho đên nay, cù n g chỉ có Cụ làm được.
M ột v ạ n trang sách trong hơn 5 năm . Lượng n h ư th ế đã là hiếm có, n h ư n g ch ất như t h ế thì kh ông th ể có người thứ hai, kh ông ai làm th ay được.
Xin trở lạ i một diều lý th ú trong ph ong cách làm viộc của m ột nhà khoa học siêu việt:
N g à y 19 - 12 - 1946, cụ đem gia đình tản cư về T hanh Hoá; ở đây, Cụ được bầu là Chi hội trưởng chi hội văn hoá tỉn h và củ n g kh ông quên nh ắc tên đ ồn g chí Lưu Cộng H oà, T ỉnh uỷ viên đã ủ n g hộ n h iệt tìn h nhóm n g h iên cửu. Đi ch ạy giặc mà Cụ lại kể: “T ô i chú ý đ ặ c biệt về văn hoá, xả h ộ i người M ường, về lịc h sử th i tôi chú ý C ầ n Vương m à T h a n h H oà là một tru n g tăm lớn. B ấ y g iờ tôi có cơ hội đ i n h iều nơ i, lạ i đă sắm. được xe đạp nên đ i lạ i d ễ d àng hơn. T ô i đã từng có n h iều hứng thú với cách thờ củ n g thánh Lường
và đ ịn h đ i thăm hệ thông hơn trăm đền th ỉ/'. Cứ đi như th ế, để đến khi biên soạn lịch sử, Cụ v iê t (xin trích một đoạn):
“S ôn g L ạ ch Trư ờng ngày nay là dòng ch ín h sông M á ngày xưa, sách củ g ọi là N g u G iang. Tương truyền trước đáy (độ hơn một th ể kỷ), một trận lụ t lởn đánh đắm một bè gỗ, cứa sông N gu bị tắc, hẹp lạ i, thi sông M ả đã trò rộ n g thêm. Trước, sông M ã chảy ra L ạ ch Trư ờng chỗ cửa T rà o còn hẹp lắm , có nơi bác cá i đòn gánh mà qua được, và đ i vòng ớ p h ía
s a u , tức bên tã n ú i P hong, chứ không p h ả i à trước m ặt n ú i như ngày nay...".
Còn n h iều lắm kê kh ôn g xiết.
Đ ến đâu, gặp việc gi kh ông để phí thài gian, p h á t hiện n g a y ra vấn đề, tìm tòi, n g h iên cứu. Tôi kh ông hiểu nhữ ng đoạn tả sông, tả đ ấ t trên đâv và còn n h iều lắm , khi tôi v iế t hồi ký là CỈO Cụ nhớ, Cụ thuộc h ay phải giờ sách ra tra lại? Dù thư th ê nào th ì tôi cũ n g (ỉâ cảm th ấ y kh iếp đảm rồi.
N ám 1965, Cụ ngh ỉ hưu ở tuổi 61.
N g h i th ậ t, n h ư n g cũ n g năm này, theo y êu cầu của N h à x u ấ t bàn Q uân đội, ph ân công cho ch ú n g tôi dịch bộ B in h thư yếu lược và H ô trướng kh u cơ. Nhóm địch còn có ông Đỗ M ộng Khương và N g u y ễn Ngọc T ỉnh, Cụ làm hiệu đính.
H ai quyển này đến nám 1970 đà xuất bản.
C ũng trong năm 1965, "trong k h i người ta đ a n g ch uẩ n bị công việc kỷ niệm N g uyễn D u, tôi thoáng có cảm g iá c ră n g đ áy p h ả i là công việc của m in h : biên soạn TU đ iển T ru yện K iể ù \ in năm 1072, ba công trình đồ sộ để lại vinh viễn cho dời. T ru yện K iề u còn số n g m ãi với dân tộc, sa u n ày, b ấ t cứ ai tìm h iểu , ngh iên
Tạp i ht Khoa hục DHQCiHN. K H XH á NV. 7 .XX, So 2. 2004
56 D inh Xiiíìn Làm , H à V ãn T án. T rán Q uốc V ượng..
cứu Truyện K iề u lại k h ô n g th ể khôn g lần giỏ T ừ điên Truyện K iể u. Ba công trình làm tiếp sau khi ngh ỉ hưu 5 năm , 7 năm , nhưng bài học, tấm gương để lại củ ng th ậ t vô giá, m à cũn g phải nói th ậ t là khó theo: ‘T ô / thôi làm công việc hiệu đ ín h, mà thực ra, tôi c h ỉ xem là công việc tay t rá i, còn nh ư đ ô i với cổng việc nghiên cứu th i sự về hưu khôn g có ý nghĩa gì... có người thấy tôi vần làm việc n h ư thường, lấy làm lọ... tôi p h ả i trả lờ i nửa đ ù a nửa thật “tôi làm việc tức là trò g iả i trí...
(Cảm nghĩ thứ n h ấ t) L à m việc vốn là một nh u cầu của cơ thế, của t r í tuệ, chứ có p h ả i là việc k h ổ d ịc h đ à u ! T ò i cười và nói thêm ra n g: N h ư ng m uôn như th ế thi p h ả i tu luyện th ế nào cho thành nếp quen mới đư ợ c' (tr. 149).
Sau dây, n h ữ n g tưởng Cụ nghỉ ngơi»
hoá ra C ụ lại ch u y ển sa n g n g h iên cứu Khổng, Lão, P h ật. T heo tôi hiểu , kh ông phải Cụ chú ý van đề tâm lin h mà là vấn để tinh th ần . T h iển tôn thời nh à Trần rôt cuộc cũ n g lại là m ột vấn để lịch sử.
Cụ viết: “Phật giáo chỉ. chú trọng vào tâm
của con người, tức vào bản thân con người, Phật t ức tâm y con người có th ể đốn ngộ thành Phật nên củ n g có th ế “cư trần lạ c đ ạ o 99 (có th ế vừa tu hànhy vừa g iú p đời)." Nhờ có sự n g h iên cứu n ày mà ta có bàn dịch của Cụ, tá c phẩm K h ó a h ư lụ c của Thượng h oàn g T rần T hái Tôn. Và củng nhò đó, ta b iế t Cảm n g h ĩ thứ h a i của Cụ “K h i còn trẻ, ch ú n g ta tưởng rằ n g làm cách mệnh lờ quét sạch cơ quá khứ lẫn hiện tạ i, đẽ xây dự ng tương la i. C àng nh iều tuổi càng thấy rằ n g công cuộc xảy dựng tương la i khôn g p h á i là dơn giản.P h á i kết. hợp việc vay mượn trong kho tàng văn hoá của lo à i người với việc k ế
thừa tro n g kho tàng văn hoá của dán tộc” (tr. 197).
T iếp th eo , cụ “tỉm h iểu ph ong trào thiện đ à n ", uđô'ì thoại với một nhà Đạo học hiện đ ạ i” (G iáo sư Cao Xuân Huy) và (cuối cù n g) là “T r í thức Việt N am với dân tộc uà cách m ệnh” .
Đ ây k h ô n g p h ải là n g h iên cứu, m à là tìm h iểu và su y ngẫm . Âv là tôi hiểu như th ế, đã đi vào khoa học rồi mà dôi VỚI Cụ th ì có chỗ nào kh ôn g phải là khoa học đâu? Đ ến yếu tô" tin h th ầ n , có đôi ch út tâm lin h m à Cụ h o àn to àn tĩn h táo, duy vật, đ ú n g ra là khoa học, khoa học 100%.
Tìm h iểu và su y ngẫm về cuộc dời, cuộc sông; sao lại khỏng? Ai cù n g phái sông và cuộc số n g ch ín h là hoàn cảnh đê làm khoa học, dê ngh ĩ, đế có yếu tố tinh th ần, thậm ch í cả tâm lin h nữa.
Cụ n g h ĩ vể các triề u đại phong kiến với trí thức, trí th ứ c dân tộc, như cử nhân N g u y ễn T ru n g Trực, T iến sĩ Ngô Đức Kế, T iến sĩ H uỳn h T húc K háng, các bậc tri th ứ c n h ư N g u yễn Ái Quốc, N g u y ễn An N in h ... và Cách M ạng với trí thức nh ư Hồ chủ tịch "gọi về nước đ ế tham g ia d ấ u tra n h g iả i phỏng nước nhà", mọi người bỏ tấ t cả để th eo Hồ chủ tịch, n h ư T rần Tưốc, T rần Đại N gh ĩa, Lương Đ ìn h Của, Đ ặ n g Văn N gữ, cà nhà triết học trẻ tuổi T rần Đức T háo..., những người mà “cái ý thức dân tộc không bao giờ tắt”, (nên) Cảm n g h ĩ thứ ba :
“K h ô n g nên n h ìn t ri thức Việt N am với con m ắt của người cách mệnh phương Tày m ả p h ả i n h ìn người t ri thức Việt N am tro n g đ iề u kiệ n lịc h sứ dán tộc
V iệt N a m .
T ạ p í h i K h oa hot D H Q G U N . K H X H & N V . I XX. Sò 2. 2 M 4
Cãm nghĩ võ ï*hity • Giáo Mí Đào Duy Anh 57
Nay, Cụ đả là ngưòi thiên cổ, thương tiếc vô cùng, nhưng cũng may sao, những còng viẹc cần phải làm mà chỉ có mình Cụ làm được thì chính Cụ đà căn bản làm xong rồi. Những việc còn lại, nhẹ hơn, đặt trên vai những người kế tục. Chính vì thế, những người giảng dạy Đại học và nghiên cứu khoa học xã hội mang ơn và mắc ơn cụ nhiều quá. Hôm nay, ở dây, được nói vài lời để vơi bớt nỗi bức xúc của ơn và nợ, tuy không sao trả được.
Nhà điêu khác Phạm Văn Hạng nặn tượng chân dung Cụ, được Cụ tặng hai câu thơ, nhưng chính là hai câu tự vịnh (1977):
“C u ộ c đ ờ i nước m ắ t n g ậ p đ ẩ u T h ì hồn tin h về biết đ à u m à v ề
’
Ây thế mà cuốn hồi ký
“N h ớ n g h ĩ c h iề u h ô m ”ghi
“viết xo n g năm 1 9 72 ”(năm xuất bản
T ừ đ iể n T ru y ệ n K iể uvà có lẽ cũng là cuôì?). Nhưng mãi đến nảm
1989, tức 17 năm sau, mới in, xuất bản được cuốn
H ồ i k ýnày.
Kết quyển
H ồ i k ý, bìa 4, Cụ viết 4 câu thơ gọi là
uĐ á p T ố N h i/ '\“Ô n g h ỏ i đ ờ i sa u a i k h ó c m in h ? M à n a y bốn b ế lạ i lừ n g d a n h C h o hết th ảy đ ều m ả y n ổ i
C ò n với non sôn g m ột ch ú t t in h ”
Tôi không biết làm thơ, nếu biết tôi sẽ làm mấy câu thơ như thế, như lời Cụ đả “Đáp
T ỏ N hu?'để kính thư vong linh cụ. Nhưng tôi chắc Cụ cũng không cần đến thơ của tôi, rồi cũng bị vượt qua, nhưng
cô n g cụvà
p h ư ơ n g tiệnthì còn lại mãi mãi. Chính khôi thư tịch cổ và khảo cứu tư liệu là
công c ụvà
p h ư ơ n g tiệnCụ để lại cho đời, đã dựng bia đá lưu danh Cụ, cho đến khi nào ngươi Việt Nam còn cần đọc
Đ ạ i N a m n h ấ t th ố n g c h í, Đại
N a m thực lục...
và tra cứu các Từ điển của Cụ.
VNU. JOURNAL OF SCIENCE,
soc .
SCI , HUMAN ■ T XX, N02, 2004IMPRESSIONS AND FEELINGS ABOUT TEACHER PROFESSOR DAO DUY ANH
Dinh Xuan Lam, Ha Van Tan, Tran Quoc Vuong, Truong Huu Quynh, Bui Duy Tan, Van Tao, Luong Ninh
Vietnam N ational University, Hanoi
These are the quotations from the speeches by the scholars who used to be Prof.
Dao Duy Anh’s students on the occasion of their beloved and respected teacher’s 100lh birth anniversary Seminar. Through sincere words, moved memories, it is possible to see here our respect and deep gratitude to the teacher who had profound knowledge and highly respected moral devoted his whole life to the national culture research, set up the foundation of the Vietnamese ancient history and made the great effort to the national education.
Tạp chi Khou hot D tiQ C ỈỈỈN , K H X ÍỈ (ft N Y . T XX Sô 2. u r n