• Tidak ada hasil yang ditemukan

của Cộng đồng Kinh tê ASEAN đối với ngành nông Nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "của Cộng đồng Kinh tê ASEAN đối với ngành nông Nam"

Copied!
3
0
0

Teks penuh

(1)

Ảnh hưởng

của Cộng đồng Kinh ASEAN

đối với ngành nông nghiệp Việt Nam

LÊ TGẤN ANH*

Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập vào cuối năm 2015, đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho sự thay đổi về chất trong hựp tác, hội nhập của các quôc gia ASEAN để trở thành một thị trường thống nhất, năng động cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, chính gia tăng mức độ hội nhập sâu rộng, nên AEC cũng tạo ra áp lực rất lớn lên các ngành kinh tế, trong đó nông nghiệp.

Nghiên cứu này phân tích những tác động của AEC đến ngành nông nghiệp Việt Nam, qua đó gựi mở giải pháp để ngành nông nghiệp hội nhập hiệu quả.

ẢNH HƯỞNG CỦA AEC ĐÔÌ VỚI NGÀNH NÔNG NGHIỆP

Cơ hội lổn

AEC mang lại cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc tăng cường thu hút đầu tưvào ngành nông nghiệp, nhấtlà nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ ngành nông nghiệp... Bên cạnh đó, việc gia nhập AEC cũnglà động lực thúc đẩy cải cách thể chế, môi trường kinh doanh trong nước. Những thay đổi này, một mặt, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng; mặt khác, đặt ra yêu cầu doanhnghiệp phảitựđổimới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.

Mặt khác, thông qua AEC, nông nghiệp Việt Nam có thêm nhiều cơhội tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản thế giới. Với việc mở rộng thị trường nội địa, nông sản Việt Nam có thê tiếp cận khách hàng với nhiều phân khúc hơn, sựphụ thuộc vào thị trường Trung Quốc của nhiều mặt hàng vì vậy cũng giảm đi. Quan trọng hơn, thông qua các thị trường trung gian, nhất là trung tâm trung chuyển hàng hóa như Singapore, thì nông sản Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường ra ngoài ASEAN, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứngnông sản toàn cầu.

Những cam kết trong AEC còn giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ câu ngành nông nghiệp. Trong bốì cảnh quy mô sản xuất của hộ nông dân nhỏ, kết cấu

hạ tầngyêu kém, trìnhđộ áp dụng các tiến bộkỹ thuật thấp, chấtlượng nguồn nhân lực thấp..,, nêndưới áp lực do AEC tạora, quá trìnhtáicơ cấu ngành nông nghiệp đã phần nào diễn ra nhanh hơn, quyết liệthơn.

Nhìn chung,hoạt động xuất khẩu nôngsản của Việt Nam sang thịtrường ASEAN từ khi tham gia AEC đã đạt được những kếtquả khả quan. Sổ"liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch xucít khẩu nôngnghiệp của ViệtNam sang các nước ASEAN sau khi AEC có hiệu lựcđã có sựcảithiện (Biểu đồ). Năm 2017, tổng kimngạch xuất khẩu nông sản sang ASEANđạt 1,71 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2016. Đây là kếtquả tích cực trong bối cảnh tổng kim ngạch xuất khẩucủa Việt Nam giảm 20,3%. Ba thị trường nhậpkhẩuchính của hàng nông sảnViệt NamlàMalaysia, Philippines và Thái Lan có tổng kim ngạch lần lượt đạt 0,50 tỷ USD; 0,49 tỷ USD va 0,43 tỷ USD.

Năm 2018, tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 2,1 tỷ USD. Thành tựuquan trọng

Biểu Đồ: TỔNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU NÔNG NGHIỆP CUA VIỆT NAM SANG CÁC NƯỚC ASEAN SAU KHI AEC CÓ HIỆU Lực

Đơn vị: Tỷ USD

'Trường Đại học Kinh tê Quốc dân

Economy and Forecast Review

23

(2)

NGHIÊN cứa - TRAO Đổi

đạt được trongnăm 2018 là nông sảnViệt Nam đã mở rộng thị trường sang Indonesia, bên cạnh 3 thị trường chủ lực của các nămtrước là Philippines, Malaysia và Thái Lan. Trong các mặt hàng, thìthủy sản đã có đóng góp đángkể trong tổng kim ngạch xuât khâunôngsản sangASEAN.

Năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản củaViệt Nam sang thị trường ASEANlà 2,69tỷ USD.

Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao là rau quả, chè và gạo với tốc độ tăng trưởng lần lượt là 68,8%,

16,9% và 8,6%. Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng kim ngạch xuất khẩunông sảnsang thịtrườngASEAN là 3,43 tỷ USD, tăng 2,8% so với năm 2019.

--- 9, ---

AEC được thành lập vào cuối năm 2015, đánh dâu bước ngoặt quan trọng cho sự thay đổi về chai trong hỢp tác, hội nhập của các quốc gia ASEAN đe trở thành một thị trường thống nhâí, năng động và cạnh tranh hờn.

---—--- „ --- Khó khăn cũng khôngít

Mặcdù vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu cũnggặp những khó khăn nhất định khi tham gia sân chơi này.

Theo Tổng cục Hải quan, trước năm 2015, ASEAN luôn giữ vị trí là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của ViệtNam, chỉ đứng sau thị trường Liên minhchâu Âu (EU), Hoa Kỳ và Trung Quốc.Tuy nhiên, ngay sau khi thực thi AEC, năm 2016, kim ngạchxuất khẩu củaViệt Nam sang các nước ASEAN đã có sự sụt giảm. Tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và thủy sản năm 2016 - năm đầu tiên AEC chính thức có hiệu lực - chỉ đạthơn 1,6 tỷ USD, giảm 20,3% so với năm 2015. Các mặt hàng giảm mạnh nhất đều thuộc nhómnhững sản phẩm chủ lực: cao su (giảm 40,7%), gạo (giảm48,8%), hạt tiêu (giảm 25,5%), sắn và các sản phẩm từ sắn (giảm 19,2%)... Đôì với mặt hàng gạo,tínhđến hết năm 2016, ba thị trường trọng điểm trong ASEAN sụt giảm nghiêm trọng về sản lượng so với năm 2015. Cụ thể là: thị trường Philippines (giảm 65%); Malaysia (giảm 48,1%); Singapore (giảm 30,7%). Giá cà phê giảm 21,2%, cao su giảm 12,5%, sắn giảm 14,4%. Các năm tiếp theo, xuất khẩu nông sản sang ASEAN có sự cải thiện, song chỉ chiếm trên dưới 5% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước. Nguyên nhâncủa những hạn chế nàylà do:

- Đội ngũkhoa học nông nghiệpcủaViệtNamcòn hạn chế về năng lực nghiên cứu, thiếu cán bộ đầu ngành giỏi. Nhiều lĩnh vực khoa học, công nghệ (như công nghệ sinh học) còn thiếu nhân lực trình độ cao, nên chậmđược triểnkhai. Điều kiện vật chát, kỹthuật của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo còn lạc hậu, không đồng bộ, dẫnđến việc đào tạonhân lực khoa học,công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyếtvới thực hành, thiếu các nghiên cứuchuyên

sâu trên mộtđơn vị sản phẩm.Khoahọc, công nghệ cònchưa được đầu tư và quan tâm đúng mức, do vậy chưa tạo ra đột phá cho hoạt động sản xuất.Mức độ đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp tháp, mặc dù một sốdoanh nghiệp lớn đã bắt đầu chuyển sang đầu tư vào nông nghiệp, nhưng nhìn chung vẫn còn rất ít, chỉ khoảng vài phần trăm; đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp không đáng kể. Việc xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao chậm chuyển biến, chưa tạo đột phá để nâng cao giá trị gia tăng và tạo cơsở vững chắc cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả bềnvững. Thiếtbị và công nghệ chế biến sau thu hoạch còn lạc hậu, kết câ'u hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến còn chưa phát triển, quy mô nhỏ, tỷ lệ hao hụt, thấtthoátcao.

- Sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp tại các thị trường AEClà tươngđốigiông nhau, trongkhi giá cả của nông sản các nước này lại rẻ hơn. Đặc biệt, một số nướctrong khu vực (như Thái Lan) lại có trìnhđộ sản xuất nôngnghiệp cao hơn so với nướcta.

- Việc thiếu liên kết trong quá trình sản xuấtdẫn tớihạn chếtrongviệc giảm giá thành sản xuất.Đồngthời, hạn chế về thiếtbị và công nghệ bảoquản cũnggóp phần làm gia tăng giá thành sản phẩm.

- Doanh nghiệp Việt Nam nóichung và doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nông sản nói chung chưa tận dụng tốt những ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang thị trường AEC thời gianqua. Việc chủđộng tìm hiểuthông tin về chính sách thuế quan của các doanh nghiệp xuât khẩu trong nước về AEC còn rất chậm.

Theo thôngkêcủa Phòng Thươngmại và Công nghiệp Việt Nam, mặc dù có gần 94% doanh nghiệp biết về AEC, nhưng chỉ có 16,4% thực sự hiểu rõ về những camkết khu vựckinh tế trongAEC và tỷ lệ tậndụng ưu đãi trong khuôn khổ AEC chỉđạt 31,8% (Trần Thị Hà, 2018).

MỘT SÔ GIẢI PHÁP

Để tận dụng lợi thế và cơ hội từ việc tham gia AEC đôi với ngành nông nghiệp, Chính phủ và các doanh nghiệp cầnthực hiện các giải phápnhư sau:

Một là, Chính phủ thực hiện nhất quán chủ trương tái cơ câu ngành nông nghiệp theo hướng tăng trưởng dựa vào

24

Kinh lế và Dự báo

(3)

đầu tư công nghệ, nâng cao giá trị của sản phẩm nông nghiệp. Tiếp tục ban hành các chính sách hỗ trợ trong việc hoàn thiện cơ sở hạ tầngchongànhnông nghiệp theo hướng quy hoạch rõ các vùng sản xuất, tạo ra sự liên kết vùng nhằm mở rộng quymô sản xuất, chếbiến sản phẩm theo hướng bán công nghiệp và công nghiệp, giảm tình trạng sản xuất, kinhdoanhmanh mún,nhỏ lẻ. Mặt khác, cần đặc biệt quan tâm các chính sáchtín dụng, thuê đấtnông nghiệp,đầu tư nghiên cứu và chuyểngiao khoahọc, côngnghệtrong nôngnghiệp.

Hai là, tiếp tục triển khai các hoạt động xúc tiếnthương mại thông qua các trungtâm xúc tiến thươngmạitronglĩnh vựcnông nghiệp vào thị trường các nước ASEAN theo hướng tập trung vào các thịtrường trọng điểm của nông sản Việt Nam. Đồng thời, hỗ trợ thông tin về các cam kết, thông tintại các thị trường các nước ASEANtới các doanh nghiệp. Các cơ quan, ban ngành liên quan cũngcần nghiên cứu, phổ biến những quy định mới, sự thay đổi chính sách nhập khẩu của các nướctrongkhuvực đểcác doanh nghiệp kịp thời cập nhật, điều chỉnh hoạt động cho phù hợp, giúp các doanh nghiệp thâm nhậptốt hơn vào thịtrường các nước.

Ba là, ở cấp độ địa phương, cần thực hiện quy hoạch nông nghiệp theo trung hạn và dài hạn, thúcđẩy táicơ cấu chuôi giá trị nông sản dựa trên lợi thếso sánh

của từng vùng, từng địa phương; tập trung phát triển sản phẩm có lợithếso sánh trong tương quan với các nước ASEAN.

Các địa phươngcũng cần tăng cường công tác tập huấn chuyển giao khoahọc, kỹ thuậtvà công nghệcho các doanh nghiệpsản xuất, hỗ trợkỹ thuật đôi vớicác hộ sản xuấtnông nghiệpxuất khẩu.

Bốn là, các doanh nghiệp cần thay đổi mô hình sản xuất, hình thành liênkết ngang trong ngành nông nghiệp để tạo ra các doanh nghiệplớn, từng bước tạo cáccụm công nghiệp dịch vụhỗ trợ ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn. Đồng thời, chú trọng tạo ra doanh nghiệp lớn quản lý toàn bộ chuỗi cung ứng từ đầu vào, sản xuất, chế biến, đóng gói, phân phối và bán lẻ nhằmgiúp giảmchi phí trung gian từ đó tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Một vài doanh nghiệp đơn lẻ sẽ khó thực hiện được, mà lúc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự liên kết với nhauthành chuỗi cung ứng nông nghiệp chặt chẽ, chuyên môn hóa cao hơn.

Doanh nghiệp cũng phải đầu tư mạnh mẽ hơn vào công nghệ, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, hướng dẫn người nông dân thay đổi thói quen sảnxuấttruyền thông theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong AEC, người nông dân sẽ buộc phải đẩy mạnh sản xuất theo quy mô lớn, ứng dụng mạnh mẽ khoahọc, công nghệ nhất là áp dụng các mô hình sản xuất tiên tiến theo chuẩn VietGap, GlobalGap trong nông nghiệp để sản phẩm làm ra đáp ứng được các cam kết khắt khe trong hộinhập.

Nămlà, các doanh nghiệpxuất khẩucần xây dựng chiếnlược kinh doanh phù hợp với định hướng mỗithị trường ASEAN, gắn với cách thứcthâmnhập thị trường theo sát xu hướngtiêu dùngcủamỗi thịtrường cụ thể, liên kết với các nhà phân phối nội địaphù hỢp...Q

TÀILIỆU THAM KHẢO

1. Tổng cục Hải quan (2016-2020). Tĩnhhĩnhxuấtkhẩu,nhậpkhẩuhànghóacủa Việt Nam tháng 12 và các năm 2015-2019

2. Tổng cục Hải quan (2020). Tình hình xuấtkhẩu, nhập khấu hàng hóa của Việt Nam tháng 11 năm 2020

3. Nguyễn Đức Thành và Nguyễn Thị Thu Hằng(2015). Tác động củaAEClên nền kinhtế Việt Nam: Các khía cạnh vĩ mô và trường hợp của ngành chăn nuôi, Nxb Thê giới

4. Nguyễn Tiến Dũng (2011). Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Hàn Quốc đến thươngmạiViệt Nam, Tạp chíKinh tế và Kinh doanh, 27, 219-231

5. Huỳnh Thị Diệu Linh và Hoàng Thanh Hiền (2019). Tác động của Hiệp định thương mại tự do đối với xuất nhập khẩu Việt Nam:áp dụng môhìnhlựchấpdẫnvới các nhân tố cố định, Tạp chí Kinh tế pháttriển, số 267, tháng 9/2019

6. Nguyễn Anh Thu. VũThanh Hương, Vũ Văn Trung vàLê Thị Thanh Xuân (2015). Tác động của AEC đến thương mại của Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tê' và Kinh doanh, 31(4), 39-50

7. Trần ThịHà (2018). Nôngnghiệp Việt Namsau 3 năm gia nhậpAEC, truy cập từ . . vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/ncvtd/ncvtd_chitiet;jsessionid=mpbVh0cyk9LWk4FC_

sOulk_4CddOMuPJSs5LvjEFl M-iL0ns24DQí-3678521901730304133?dDocName=MOFUCM 14 8737&dID=155107&_afrLoop=1441416445401782#%40%3FdID%3D155107%26_afrLoop%3D

1441416445401782%26dDocName%3DMOFUCM 148737%26_adf.ctrl-state%3D 14bmvc9sor_4 https://www mof.gov

Economy and Forecast Review

25

Referensi

Dokumen terkait

Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại các khoản 1, 2 Điều này chỉ được kinh doanh các dịch vụ lô-gi-stíc khi tuân theo những

Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn Năm 2018, công tác phòng chống thiên tai tiếp tục được UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo, Sở Nông nghiệp và PTNT đã thực hiện tốt nhiệm vụ cơ quan

Xét về cơ hội, các DN Việt Nam và các DN của tỉnh Quảng Nam sẽ được một thị trường hàng hoá và dịch vụ rộng lớn hơn; đât nước Việt Nam cũng sẽ có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài

lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu mùi, Việt Nam cần tập trung cải thiện 5 vấn đề: 1 điều chỉnh các quy định về nhãn hiệu theo hướng phù hợp các cam kết tại các điều