• Tidak ada hasil yang ditemukan

của phụ nữ cao tuổi

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "của phụ nữ cao tuổi"

Copied!
11
0
0

Teks penuh

(1)

Tình trạng việc làm và kinh tê của phụ nữ cao tuổi

Nguyễn Hà Đông*

Tóm tắt: Già hóa dân số nhanh gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế và đặt ra nhiều thách thức to lớn đối với việc đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt đối với y tế, chăm sóc tuổi già, lương hưu ở Việt Nam. Do tình trạng “già trước khi giàu", tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam tiếp tục làm việc chiếm tỷ lệ khá cao. Được xem là nhóm dân số dễ bị tổn thương hom so với nam giới cao tuổi nhưng nghiên cứu về tình trạng kinh tế, việc làm của phụ nữ cao tuổi hiện nay còn chưa được quan tâm nhiều. Bài viết này sử dụng dữ liệu của Đồ tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ cở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ frợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” để tìm hiểu về tình trạng việc làm của phụ nữ cao tuổi và điều kiện kinh tế của họ. Ket quà nghiên cứu cho thấy một bộ phận đáng kể phụ nữ cao tuổi vẫn làm việc tạo thu nhập, chủ yếu là các công việc tự sản xuất kinh doanh để duy trì sinh hoạt và độc lập kinh tế. Tuy vậy, việc duy trì sinh hoạt hàng ngày của một bộ phận không nhỏ phụ nữ cao tuổi vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Trong năm 2020, trung bình cứ năm phụ nữ cao tuổi có một người phải vay mượn để trang trải chi phí sinh hoạt* 1.

* ThS., Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

1 Bài viết là sản phẩm của Đe tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” (Mã số đề tài: ĐTĐL.XH-04/20) do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chù trì thực hiện năm 2020-2022.

Từ khóa: Phụ nữ cao tuối; Người cao tuổi; Việc làm; Phụ nữ làm kinh tế.

Ngày nhận bài: 23/2/2022; ngày chinh sửa: 7/3/2022; ngày duyệt đăng:

15/3/2022'

1. Đặt vấn đề

Ở Việt Nam, già hóa dân số nhanh gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế và đặt ra nhiều thách thức to lớn đổi với việc đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt đối với y tế, chăm sóc tuổi già, lưong hưu (UNFPA & MPI,

(2)

Nguyễn Hà Đông 35 2015). Do dân số chuẩn bị bước vào thời kỳ già hóa trong vài năm tới trong khi thu nhập bình quân đầu người mới đạt ngưỡng mức trung bình thấp, người cao tuổi Việt Nam có nguy cơ rơi vào tình trạng “già trước khi giàu”. Đồng thời, chính phủ sẽ phải đối mặt với áp lực chi tiêu rất nặng nề khi hàng triệu người cao tuổi không có thu nhập đảm bảo mức sống nếu không có các giải pháp can thiệp kịp thời. Do đó, một trong những giải pháp quan trọng được đề xuất để khắc phục tình trạng này là khuyến khích người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế phù hợp vừa làm giảm gánh nặng chi tiêu cho chính phủ, đồng thòi, nhằm góp phần nâng cao đời sống và duy trì hoạt động chân tay và trí óc của người cao tuổi nhằm đảm bảo và cải thiện thu nhập của người cao tuổi có được từ lao động và hưu trí (UNFPA, 2011). Tiếp tục làm việc sau tuổi nghỉ hưu không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, đóng góp sản phẩm cho xã hội mà còn góp phần nâng cao sức khỏe tinh thần cho người cao tuổi (UNECE, 2009), mang thêm niềm vui, hạnh phúc cho tuổi già của họ (Diener & Diener, 2009) và góp phần duy trì địa vị xã hội cho người cao tuổi (Vauclair và cộng sự, 2014). Gắn kết chủ động vào các vai trò xã hội phù họp với người cao tuổi sẽ giúp tăng sự hài lòng với cuộc sống, giúp họ cảm nhận được giá trị của bản thân, duy trì được thái độ sống tích cực, cảm thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn và nhờ đó góp phần làm sức khỏe tốt hơn (Havighurst, 1961; Lemon và cộng sự, 1972; Park, 2009). Đồng thời, tiếp tục tham gia lao động cũng là một hình thức gắn kết xã hội của người cao tuổi, là sợi dây duy trì kết nối của người cao tuổi với cộng đồng, xã hội. Việc chủ động gắn kết vào các vai trò mới là “sự thích nghi thành công“ với tuổi già của người cao tuổi (DeLiema & Bengtson, 2015).

Tỷ lệ người cao tuổi tiếp tục lao động kiếm sống ở Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Ket quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 và 2019 cho thấy tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên tiếp tục lao động chiếm khoảng 35% trong đó phần lớn là lao động tự làm hoặc lao động gia đình không được trả công trong khi tỷ lệ lao động làm công ăn lương thấp. So với nam giới, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi làm công ăn lương thấp hơn hẳn so với nam giới cao tuổi. Điều này khiến cho phụ nữ cao tuổi dễ bị tổn thương hơn (Tổng cục Thống kê, 2021). Các nghiên cứu về người cao tuổi ở Việt Nam cũng đã quan tâm đến tình trạng tham gia hoạt động kinh tế, vai trò kinh tế hay tình trạng việc làm của người cao tuổi nói chung (Giang và cộng sự, 2019; Teeravichitchainan và cộng sự, 2019). Tuy nhiên, các nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu về tình trạng kinh tế, lao động, việc làm của phụ nữ cao tuổi - nhóm đối tượng yếu thế và dễ bị tổn thương hơn - còn chưa nhiều. Bài viết này sử dụng dữ liệu của Đe tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ cở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” để tìm hiểu về tình trạng việc làm của phụ nữ cao tuổi và điều kiện kinh tế của họ.

(3)

36 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 1, tr. 34-44

2. Hệ biến số

Bài viết sử dụng dữ liệu của 792 phụ nữ cao tuổi trong bộ dữ liệu của Đe tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ cở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện tại 06 tỉnh/thành phố gồm Lào Cai, Quảng Ninh, Quảng Trị, Thành phố Hồ Chí Minh và Trà Vinh năm 2021.

Các biến số tác động được sử dụng trong bài viết gồm:

- Các biến số liên quan đến đặc điểm nhân khẩu học của người trả lời gồm độ tuổi, trình độ học vấn, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, tình trạng sức khỏe.

- Các biến số liên quan đến đặc trưng của gia đình gồm nơi cư trú và mức sống. Mức sống của hộ gia đình được đo lường qua câu hỏi gia đình có nằm ưong danh sách hộ nghèo hoặc cận nghèo tại địa phương.

- Ngoài ra, một số biến khác như lương hưu, tình trạng việc làm cũng được sử dụng làm biến số tác động khi phù họp.

Để miêu tả tình trạng làm việc tạo thu nhập và điều kiện kinh tế của phụ nữ cao tuổi, nghiên cứu sử dụng các biến số phụ thuộc như sau:

- Tình trạng làm việc tạo thu nhập của phụ nữ cao tuổi được tìm hiểu qua hai biến số gồm tỷ lệ phụ nữ cao tuổi làm việc tạo thu nhập và loại hình công việc tạo thu nhập.

- Tình trạng kinh tế của phụ nữ cao tuổi được tìm hiểu ở hai chiều cạnh gồm (1) thu nhập trung bình hàng tháng và (2) khả năng độc lập về kinh tế.

3. Tình trạng làm việc tạo thu nhập của phụ nữ cao tuổi hiệnnay

Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy 47,6% phụ nữ cao tuổi vẫn đang tiếp tục làm các công việc tạo thu nhập cho gia đình. Như vậy, tuy đã qua tuổi 60, nhiều phụ nữ vẫn tiếp tục lao động để đóng góp kinh tế cho gia đình. Đáng lưu ý, các hoạt động tạo thu nhập chủ yếu của phụ nữ cao tuổi vẫn là các hoạt động tự sản xuất kinh doanh gồm kinh doanh, buôn bán (18,7%) và trồng frọt, chăn nuôi trong gia đình (18,7%). Trong khi đó, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi làm thuê chiếm khoảng 12,7% và 6,5% tham gia các hoạt động đoàn thể. Các công việc tự sản xuất kinh doanh được xem là một trong hai nhóm lao động dễ bị tổn thương hơn theo cách phân loại của ILO (2018). Vì vậy, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi làm các công việc tự sản xuất, kinh doanh chiếm tỷ lệ cao nhất cũng phần nào dấy lên lo ngại về tính ổn định trong thu nhập của phụ nữ cao tuổi. Đồng thời cũng phần nào cho thấy khó khăn của người cao tuổi nói chung và phụ nữ cao tuổi nói riêng trong việc tìm kiếm việc làm được trả công ưên thị trường lao động.

(4)

Nguyễn Hà Đông 37 Tỷ lệ phụ nừ cao tuổi làm các công việc tạo thu nhập có sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc, trình độ học vấn và độ tuổi của người trả lời. Phụ nữ cao tuổi người dân tộc thiểu số làm việc kiếm tiền chiếm 61,4%, cao hon khoảng 15 điểm phần trăm so với nhóm người Kinh. Tỷ lệ phụ nữ cao tuổi làm việc tạo thu nhập tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn và độ tuổi của người trả lời. Trình độ học vấn càng cao, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi làm việc tạo thu nhập càng giảm. 52,9% phụ nữ cao tuổi có trình độ tiểu học trở xuống làm việc tạo thu nhập trong khi tỷ lệ này giảm dần ở nhóm ở trình độ trung học cơ sở và trung học phổ thông, lần lượt là 48,9% và 39,8%. Xét theo độ tuổi, phụ nữ ở độ tuổi 60-69 và 70-79 vẫn còn lao động tạo thu nhập khá cao, ở mức khoảng 48% nhưng đến độ tuổi từ 80 trơ lên, tỷ lệ này giảm mạnh xuống còn 12,5%.

Tình trạng phụ nữ cao tuổi làm việc tạo thu nhập có quan hệ chặt chẽ với tình trạng kinh tế của họ hiện nay. Hai yếu tố liên quan đến điều kiện kinh tế được đưa vào phân tích gồm mức sống của hộ gia đình và việc phụ nữ có lương hưu.

Phụ nữ ở các gia đình nghèo/cận nghèo làm việc tạo thu nhập chiếm 62,5% số phụ nữ còn đang làm việc, cao hơn đáng kể so với nhóm sống trong các gia đình có kinh tế tốt hơn (45,7%). Xét theo lương hưu, phụ nữ có lương hưu còn đang tiếp tục làm việc tạo thu nhập chỉ chiếm 32% trong khi tỷ lệ này ở nhóm không có lương hưu là 51,4%. Kết quả này cho thấy tầm quan trọng của yếu tố kinh tế với tình trạng làm việc tạo thu nhập của phụ nữ cao tuổi. Nói cách khác, phụ nữ cao tuổi làm việc tạo thu nhập chủ yếu để đáp ứng cho nhu cầu của họ và gia đình hay vì áp lực của đời sống cơm áo gạo tiền. Mục đích kinh tế là mục đích quan trọng nhất của phụ nữ cao tuổi khi làm việc. Điều này được thể hiện qua các chiều cạnh khác nhau gồm để có thu nhập cho bản thân (79,2%), để có thu nhập thêm cho gia đình (49,7%), để không phụ thuộc kinh tế và con cái (30,8%) và đây cũng là những mục đích được lựa chọn nhiều nhất của phụ nữ cao tuổi khi làm việc. Nói cách khác, đời sống sinh hoạt hàng ngày hay điều kiện kinh tế vẫn là một gánh nặng đối với phụ nữ cao tuổi khiến họ vẫn phải tiếp tục làm việc. Do sự hạn chế của hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt tỷ lệ phụ nữ có lương hưu còn thấp, phần lớn phụ nữ cao tuổi vẫn phải làm việc tạo thu nhập để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và duy trì sự độc lập về kinh tế.

Tóm lại, một tỷ lệ đáng kể phụ nữ cao tuổi hiện nay vẫn đang làm việc tạo thu nhập, chủ yếu là các công việc tự sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ này có quan hệ với yếu tố dân tộc, trình độ học vấn, độ tuổi, mức sống và việc có lương hưu. Do sự hạn chế của hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt tỷ lệ phụ nữ có lương hưu còn thấp, phần lớn phụ nữ cao tuổi vẫn phải làm việc tạo thu nhập để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt và đạt được sự độc lập về kinh tế.

(5)

38 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 1, tr. 34-44

4. Tìnhtrạngkinh tế của phụ nữ cao tuổi hiện nay

Đe tìm hiểu về tình trạng kinh tế của phụ nữ cao tuổi hiện nay, bài viết tập trung vào phân tích trung bình thu nhập hàng tháng của phụ nữ cao tuổi và khả năng độc lập về kinh tế của họ.

4.1. Thu nhập của phụ nữ cao tuổi

Hiện nay trung bình phụ nừ cao tuổi tham gia khảo sát nhận được khoảng 2,54 triệu đồng/người/tháng. Theo Tổng cục Thống kê, ước tính thu nhập bình quân theo đầu người cả nước năm 2020 là 4,25 triệu/người/tháng, thành thị là 5,59 triệu/người/tháng và nông thôn là 3,48 triệu/người/tháng (Tổng cục Thống kê, 2020). Như vậy, mức thu nhập trung bình của phụ nữ cao tuổi hiện nay đang thấp hơn nhiều so với thu nhập bình quân chung đầu người cả nước cũng như ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Tính riêng trong nhóm phụ nữ, so với các nhóm trẻ hơn, thu thập của phụ nữ cao tuổi cũng thấp hơn khá nhiều (Ước tính thu nhập trung bình của phụ nữ năm 2020 là 4,12 triệu/người/tháng) (Tổng cục Thống kê, 2020). Mức thu nhập trung bình của phụ nữ cao tuổi trong mẫu khảo sát còn thấp hơn đáng kể so với mức chi tiêu bình quân đầu người (2,89 triệu/người/tháng), thậm chí, thấp hơn cả mức chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người cả nước nãm 2020 (2,72 triệu/người/tháng) (Tổng cục Thống kê, 2020). Như vậy, mức thu nhập này của phụ nữ cao tuổi thậm chí không đủ để họ đảm bảo cho các nhu cầu ăn, mặc, ở đi lại tối thiểu so với bình quân chung cả nước. Vì vậy, họ có khả năng phải thắt chặt chi tiêu hoặc phụ thuộc vào người khác để đảm bảo trang trải cho sinh hoạt hàng ngày. Kết quả này cho thấy xét về thu nhập, phụ nữ cao tuổi vẫn là nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương.

Bảng 2 cho thấy thu nhập bình quân hàng tháng của phụ nữ cao tuổi có sự chênh lệch rõ rệt giữa các nhóm với các đặc điểm đặc trưng nhân khẩu học và gia đình khác nhau. Nhóm phụ nữ cao tuổi là người Kinh có thu nhập cao hơn so với nhóm dân tộc thiểu số gần 1 triệu đồng/người/tháng (mức tương ứng là 2,62 triệu/người/tháng và 1,67 triệu/người/tháng). Mức thu nhập trung bình của phụ nừ cao tuổi cỏ trình độ học vấn khác nhau chênh lệch rõ rệt.

Những người có trình độ từ phổ thông trung học trở lên có thu nhập trung bình là 4,44 triệu đồng/người/tháng, cao gấp gần 2 lần so với nhóm có trình độ trung học cơ sở (2,27 triệu/người/tháng) và gấp 3 lần so với nhóm có trình độ tiểu học trở xuống (1,48 triệu/người/tháng). Như vậy, nhóm phụ nữ cao tuổi có trình độ trung học phổ thông trở lên là nhóm duy nhất trong 3 nhóm tuổi có mức thu nhập trung bình cao hơn so với thu nhập bình quân cả nước (4,25 triệu/người/tháng).

(6)

Nguyễn Hà Đông 39 Độ tuổi tỷ lệ nghịch với mức thu nhập trung bình của phụ nữ cao tuổi. Phụ nữ từ 80 tuổi trở lên có thu nhập bình quân hàng tháng thấp nhất với 1,24 triệu/người/tháng, thấp hơn rõ rệt so với nhóm 70-79 (2,06 triệu/người/tháng) và nhóm 60-69 (2,84 triệu/người/tháng). Tương tự như độ tuổi, mức thu nhập bình quân của phụ nữ cao tuổi cũng tỷ lệ nghịch với tình trạng sức khỏe. Phụ nữ có sức khỏe yếu thu nhập bình quân đạt 1,73 triệu/người/tháng, chỉ bằng 1/2 so với nhóm có sức khỏe tốt hơn. Điều này có thể giải thích do sức khỏe giảm sút khi về già dẫn tới suy giảm khả năng lao động và kéo theo sự sụt giảm mức thu nhập.

Bảng 1. Thu nhập bình quân hàng tháng của phụ nữ cao tuổi (triệu đồng/tháng) Thu nhập/tháng

Chung 2,54

Noi cư trú*** Nông thôn Đô thị

1,51 2,84

Dân tộc* Kinh 2,62

DTTS 1,67

Tôn giáo 2,42

Không 2,79

Trình độ học vấn*** Tiểu học trở xuống 1,48

THCS 2,27

THPT trở lên 4,44

Tình trạng hôn nhân Đang có vợ/chồng 2,65

Hiện không có vợ/chồng 2,42

Độ tuổi** 60-69 2,84

70-79 2,06

80 trở lên 1,24

Tình trạng sức Trung bình 3,39

khỏe

*** Yếu 1,73

Lao động kiếm Không 1,65

sống

*** 3,09

Nguồn thu chính*** Trồng trọt, chăn nuôi 1,95

Kinh doanh/dịch vụ 3,91

Việc làm được trả công 2,76

Lương hưu 4,78

Trợ cấp xã hội 1,22

Tiền hỗ trợ từ các thành viên gia đình 2,01

Lãi suất tiết kiệm 4,24

Mức ý nghĩa thống kê: ***p<0,001; **p<0,01; *p<0,05 Nguồn: Số liệu khảo sát của Đề tài, 2021.

(7)

40 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 1, tr. 34-44

Mức thu nhập bình quân theo đầu người có quan hệ chặt chẽ với tình trạng lao động của phụ nữ cao tuổi. Những người còn đang tiếp tục lao động kiếm sống có mức thu nhập bình quân đạt 3,09 triệu/người/tháng, cao gấp gần 2 lần so với nhóm không còn lao động kiếm sống (1,65 triệu/người/tháng). Ket quả này cho thấy tầm quan trọng của việc tiếp tục lao động kiếm sống sau khi đã đến tuổi nghỉ hưu của phụ nữ cao tuổi. Rõ ràng, lao động vẫn đang là nguồn thu nhập rất quan trọng đối với phụ nữ cao tuổi. Kết quả này cho thấy nguy cơ cần được hỗ trợ về kinh tế, nguy cơ đói nghèo và trở thành gánh nặng kinh tế của gia đình và hệ thống phúc lợi xã hội khi phụ nữ cao tuổi không thể tiếp tục làm việc (Pham và cộng sự, 2020).

Mức thu nhập bình quân của phụ nữ cao tuổi cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm có nguồn thu nhập chính khác nhau. Nhóm có thu nhập chính từ lương hưu có thu nhập bình quân là 4,78 triệu/người/tháng, cao hơn nhiều so với các nhóm khác và cao hơn so với thu nhập bình quân/người của cả nước. Điều này phần nào cho thấy tầm quan trọng của lương hưu trong việc đảm bảo kinh tế cho người cao tuổi khi về già. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc triển khai chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, thu hút người lao động mua bảo hiểm nhằm đảm bảo nguồn thu nhập ổn định cho họ khi về già. Đồng thời, cần có các chính sách nhằm cải thiện chất lượng việc làm, tạo thêm các việc làm ổn định, được đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động để đảm bảo họ có lương hưu khi về già.

Trong khi đó, nhóm có thu nhập chính từ trợ cấp xã hội (1,22 triệu/người/tháng), từ trồng trọt, chăn nuôi (1,95 triệu/người/tháng) và từ tiền gửi/hồ trợ của các thành viên gia đình (2,01 triệu/người/tháng) là những nhóm có thu nhập bình quân thấp nhất, thấp hơn cả thấp hơn cả mức chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người cả nước năm 2020 (2,72 triệu/người/tháng). Điều này khiến cho những nhóm này sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo sinh hoạt hàng ngày.

Xét theo nơi cư trú, phụ nữ cao tuổi ở đô thị có mức thu nhập bình quân là 2,84 triệu/người/tháng, cao hơn 1,9 lần so với nhóm sống ở nông thôn (1,51 triệu/người/tháng). Như đã trình bày ở trên, phần lớn phụ nữ cao tuổi có lương hưu hiện nay đang sinh sống ở đô thị và điều này cũng có thể là một tác nhân góp phần làm nới rộng khoảng cách thu nhập của phụ nữ cao tuổi ở đô thị và nông thôn.

Như vậy, phụ nữ cao tuổi người dân tộc thiểu số, sống ở nông thôn, tuổi cao, trình độ học vấn thấp, sức khỏe kém, hiện không còn tiếp tục lao động kiếm sống và không có lương hưu là nhóm yếu thế hơn về thu nhập và dễ bị tổn thương về kinh tế so với phụ nữ cao tuổi nói chung.

(8)

Nguyễn Hà Đông 41 4.2. Khả năng độc lập về tài chinh của phụ nữ cao tuổi

Khả năng độc lập về tài chính của phụ nữ cao tuổi được tìm hiếu qua các nguồn thu nhập và khả năng tự chi trả cho các nhu cầu chi tiêu cá nhân của họ năm 2020. Kết quả khảo sát cho thấy khoảng 40% số phụ nữ cao tuổi được hỏi đang phụ thuộc vào sự hỗ trợ kinh tế từ người khác trong đó 21,2% hiện nay không có nguồn thu nhập nào và phải phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình đế đảm bảo trang trải cho cuộc sống. Điều này cho thấy một bộ phận không nhỏ phụ nữ cao tuổi hiện nay có đời sống rất khó khăn. Bên cạnh đó, khoảng 1/5 số phụ nữ cao tuổi được hỏi hiện nay sống dựa vào hỗ trợ từ các thành viên gia đình là chính (18,9%). Tính riêng từng nguồn thu nhập, sự hỗ trợ từ các thành viên trong gia đình là nguồn thu nhập chính phổ biến nhất của phụ nữ cao tuổi.

Phần lớn phụ nữ cao tuổi hiện nay vẫn duy trì được sự độc lập về kinh tế với hơn % số phụ nữ cao tuổi được hỏi có nguồn thu nhập chính là lao động hiện tại hoặc lao động trong quá khứ (lương hưu). Tính chung lại, lao động vẫn là chiếm vị trí quan họng nhất trong các nguồn thu chính của phụ nữ cao tuổi.

40,8% phụ nữ cao tuổi trong nghiên cứu hiện có nguồn thu nhập chính từ lao động kiếm sống trong đó tỷ lệ tham gia vào các hoạt động nông nghiệp, tự kinh doanh hay làm đi thuê không chênh lệch đáng kể với tỷ lệ lần lượt là 14,6%, 13,5% và 12,7%. Số liệu này một mặt cho thấy tính tích cực của phụ nữ cao tuổi trong hoạt động kinh tế hiện nay nhưng đồng thời cũng cảnh báo nhu cầu cần được hỗ trợ về kinh tế, nguy cơ trở thành gánh nặng của gia đình và hệ thống phúc lợi xã hội khi người cao tuổi không thể tiếp tục làm việc (Pham và cộng sự, 2020). Hơn nữa, trong số những phụ nữ đang lao động kiếm sống, 2/3 số này đang tự sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại của ILO (2018), đây là một trong hai nhóm lao động dễ bị tổn thương hơn. Vì vậy, khi các công việc thuộc nhóm này hở thành nguồn thu nhập chính của phụ nữ cao tuổi cũng sẽ đặt ra những lo ngại về an sinh thu nhập cho họ.

Chỉ có khoảng 12,4% phụ nữ cao tuổi hiện nay có thu nhập chính từ lương hưu trong đó đại đa số là nhóm sống ở đô thị (92,9%). Tính trung bình cứ 10 người được hỏi mới có khoảng 1 người hiện nay đang có thu nhập chính từ lương hưu. Trong khi lương hưu đóng vai trò là một nguồn an sinh xã hội quan họng cho ngươi cao tuổi, giúp họ đảm bảo sự độc lập, tự chủ về kinh tế, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi có lương hưu thấp khiến cho cuộc sống của họ khi về già hở nên ít đảm bảo hơn, đặc biệt đối với nhóm sinh sống ở nông thôn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiển cho phụ nữ cao tuổi phải làm việc để kiếm sống, duy trì sinh hoạt nhiều hơn là làm việc để cải thiện sức khỏe tinh thần, đáp ứng nhu cầu giao tiếp xã hội như ở các nước phát triển hơn.

(9)

42 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 1, tr. 34-44

Với mức thu nhập năm 2020, nhìn chung, phụ nừ cao tuổi phải chi tiêu tương đối tiết kiệm để trang trải cho nhu cầu cá nhân nhưng khả năng đáp ứng cho nhu cầu cá nhân chưa được đầy đủ. Chỉ có khoảng 12% phụ nữ cao tuổi có thể đáp ứng khá và tốt cho nhu cầu cá nhân từ thu nhập của minh. Ngược lại, 53% số phụ nữ cao tuổi được hỏi có thu nhập không đủ để chi tiêu cho nhu cầu cá nhân trong đó 19% không đáp ứng được hoàn toàn và 34% đáp ứng được một phần. Như vậy, tính trung bình, cứ 2 phụ nữ cao tuổi được hỏi thì có 1 người không có khả năng độc lập về tài chính. Ngoài ra, còn 35% phụ nữ được hỏi có thu nhập vừa đủ chi tiêu. Đây cũng là nhóm có tình trạng kinh tế mong manh và dễ bị biến động khi có sự cố xảy ra.

Với khả năng tài chính này, trong năm 2020, trung bình cứ 5 phụ nữ cao tuổi có một người phải vay mượn để trang trải chi phí sinh hoạt, đời sống hàng ngày (21,1%). Kết quả này cũng góp phần khẳng định thêm khó khăn trong việc duy trì sinh hoạt hàng ngày của một bộ phận không nhỏ phụ nữ cao tuổi. Đặc biệt là nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số, sống trong các gia đình nghèo và ít tuổi hơn. So với nhóm phụ nữ Kinh, nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số phải vay mượn trang trải cuộc sống cao tuổi gần 13 điểm phần trăm (32,8% so với 20,0%).

Nhóm phụ nữ sống trong các hộ nghèo/cận nghèo phải vay mượn để trang trải cuộc sổng cũng cao hơn đáng kể so với nhóm sống trong các hộ từ trung bình trở lên (32,7% so với 19,2%). Đáng lưu ý là tỷ lệ phải vay mượn để trang trải cuộc sống ở phụ nừ cao tuổi tỷ lệ nghịch với độ tuổi. Nhóm phụ nữ 60-69 phải vay mượn để trang trải cuộc sống chiếm tỷ lệ cao nhất với 24,2%, tiếp đó là nhóm 70-79 với 16,1% trong khi nhóm từ 80 trở lên phải vay mượn chỉ chiếm 6,9%.

Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này nhưng một trong những lý do có thể do

nhóm từ 80 trở lên khi không có khoản thu nhập nào đã có trợ cấp xã hội hàng

tháng. Khoản trợ cấp này tuy còn thấp nhưng cũng có thể có ý nghĩa đáng kể với một bộ phận phụ nữ cao tuổi nghèo. Ngoài ra, khi đã ở độ tuồi mà khả năng lao động rất hạn chế, phụ nữ cao tuổi cũng hạn chế vay mượn vì e ngại khả năng chi trả của mình.

Trong năm 2020, đã có 21,1% phụ nữ cao tuổi được hỏi phải vay mượn để trang trải chi phí sinh hoạt, đời sống hàng ngày. Trong đó, chủ yếu là những phụ nữ đang tiếp tục lao động kiếm sổng, là người dân tộc thiểu số và sống trong các hộ nghèo/cận nghèo. Tỷ lệ nhóm phụ nữ là nghề phi nông (30,8%) và nông nghiệp (25,5%) phải vay mượn để trang trải cuộc sống trong năm 2020 cao hơn rõ rệt so với nhóm nội trợ (16,5%) và đặc biệt là hưu trí (6,3%). Phụ nữ trong các gia đình nghèo/cận nghèo phải vay mượn để trang trải sinh hoạt cũng cao hơn 13,4 điểm phần trăm so với nhóm không nghèo (32,7% so với 19,2%). Nhóm

(10)

Nguyễn Hà Đông 43 phụ nữ người dân tộc thiểu số phải vay mượn để trang trải cuộc sống chiếm 32,8%, cao hem 12,8 điểm phần trăm so với nhóm người Kinh.

Tóm lại, khả năng độc lập về tài chính của phụ nữ cao tuổi trong mẫu khảo sát hiện nay còn khá hạn chế. */2 số người được hỏi không có khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu cá nhân. Họ thậm chí phải vay mượn để trang trải cho sinh hoạt hàng ngày.

5. Kếtluận

Có thể thấy dù đã qua tuổi nghỉ hưu, một tỷ lệ đáng kể phụ nữ cao tuổi hiện nay vẫn đang làm việc tạo thu nhập, chủ yếu là các công việc tự sản xuất, kinh doanh, số liệu này một phần cho thấy khả năng lao động của phụ nữ cao tuổi nhưng đồng thời cũng phần nào cho thấy nhu cầu kiếm sống của họ. Khi phụ nữ có lưcmg hưu và mức sống khá hem, họ ít làm các công việc tạo thu nhập hem. Do sự hạn chế của hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt tỷ lệ phụ nữ có lưcmg hưu còn thấp, phần lớn phụ nữ cao tuổi vẫn phải làm việc tạo thu nhập để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt và đạt được sự độc lập về kinh tế thay vì các mục tiêu liên quan đến duy trì sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần như ở các nước phát triển.

Trung bình phụ nữ cao tuổi tham gia khảo sát nhận được khoảng 2,54 triệu đồng/người/tháng. Mức thu nhập này đang thấp hem nhiều so với thu nhập bình quân chung đầu người cả nước cũng như ở cả khu vực thành thị và nông thôn, thậm chí, không đủ để họ đảm bảo cho các nhu cầu ăn, mặc, ở đi lại tối thiểu so với bình quân chung cả nước. Vì vậy, họ có khả năng phải thắt chặt chi tiêu hoặc phụ thuộc vào người khác để đảm bảo trang trải cho sinh hoạt hàng ngày.

Khả năng độc lập về tài chính của phụ nữ cao tuổi hiện nay cũng còn gặp nhiều khó khăn. Điều này được the hiện ở tỷ lệ phụ nữ có thu nhập đảm bảo chi tiêu còn thấp. 53% số phụ nữ cao tuổi được hỏi có thu nhập năm 2020 không đủ để chi tiêu cho nhu cầu cá nhân. Điều này khiến cho phụ nữ cao tuổi bị lệ thuộc hem vào sự hồ trợ từ gia đình và các nguồn khác, đồng thời phải thắt chặt chi tiêu để đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt tối thiểu. Mặt khác, lao động vẫn là chiếm vị trí quan trọng nhất trong các nguồn thu chính của phụ nữ cao tuổi, số liệu này một mặt cho thấy tính tích cực của phụ nữ cao tuổi trong hoạt động kinh tế nhưng đồng thòi cũng cho thấy nhu cầu cần được hồ trợ về kinh tế, nguy cơ trở thành gánh nặng của gia đình và hệ thống phúc lợi xã hội khi người cao tuổi không thể tiếp tục làm việc (Pham và cộng sự, 2020). Do đó, khả năng tài chính của một bộ phận đáng kế phụ nữ cao tuổi hiện nay đang tiềm ấn nhiều rủi ro.

Như vậy, do tầm quan trọng của lưemg hưu trong việc đảm bảo an sinh xã hội

(11)

44 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 32, số 1, tf. 34-44

cho phụ nữ cao tuổi, cần tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm đảm bảo nguồn thu nhập ổn định cho họ khi về già. Đồng thời, cần có các chính sách nhằm cải thiện chất lượng việc làm, tạo thêm các việc làm bền vững cho lao động nữ để họ có điều kiện chuẩn bị tốt hon về kinh tế cho tuổi già.

Tàiliệutrích dẫn

DeLiema, M., & Bengtson, V. 2015. "Activity Theory, Disengagement Theory, and Successful Aging". In N. Pachana (Ed.), Encyclopedia of Geropsychology.

Singapore: Springer.

Giang, T. L., Thi Pham, T. H., & Manh Phi, p. 2019. "Productive activities of the older people in Vietnam". Social Science & Medicine, 229, pp.32-40.

doi:https://doi.org/10.1016/j.socscimed.2018.09.054.

Havighurst. 1961. "Successful aging". The Gerontologist, 7(1), 8-13.

ILO. 2018. Paid employment vs vulnerable employment - A brief study of employment patterns by status in employment”. https://ilo.org/wcmsp5/groups/

public/—dgreports/—stat/documents/publication/wcms_631497.pdf.

Lemon, Bengtson, & Peterson. 1972. "An exploration of the activity theory of aging: activity types and life satisfaction among in-movers to a retirement community". Journal of Gerontology, 27(4), pp.511-523.

Park. 2009. "The relationship of social engagement to psychological well-being of older adults in assisted living facilities". Journal of Applied Gerontology, 25(4), pp.461-481.

Pham, T. V., Hsu, H.-C., Zaidi, A., & Chen, Y.-M. 2020. "Active Ageing Index in Vietnam Relative to China, South Korea, Taiwan, and 28 European Union Countries". Research on Aging, pp.1-14. doi:https://doi.org/10.1177/

0164027520934049.

Teeravichitchainan, B., Prachuabmoh, V., & Knodel, J. 2019. "Productive aging in Southeast Asia: Comparative analyses between Myanmar, Vietnam and Thailand". Social Science & Medicine, 229, 161-171. doi:

https://doi.Org/10.1016/j.socscimed.2018.09.053.

Tong cục Thong kê. 2020. Niên giám thong kê 2020. Nxb. Thống kê, Hà Nội.

Tổng cục Thống kê. 2021. Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019: Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. https://vietnam.unfpa.org/vi/publications/

tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019-gia-hoa-dan-so-va-nguoi-cao-tuoi- viet-nam.

UNFPA. 2011. Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chỉnh sách.

UNFPA, MPI. 2015. Impact of Changes in Population Age Structure on Vietnam ’s Economic Growth and Policy Recommendations. Ha Noi.

Referensi

Dokumen terkait

Tại điều, khoản này đáng chú ý nhất là: i Lần đầu tiên, sau hơn 75 năm lập quốc và xây dựng Hiến pháp, quyền của người cao tuổi được ghi thành một điều khoản riêng, tách hẳn với các

Một bác sĩ người Chăm làm việc tại Trạm Y tế xã Châu Phong cho biết việc có BHYT đã giúp phụ nữ lựa chọn cơ sở y tế khi sinh con: “Bây giờ thì những người mang thai họ cũng đã đăng ký

Qua phân tích trên cho thấy, thực trạng tham gia vào hoạt động trồng trọt của phụ nữ ở địa bàn nghiên cứu phản ánh thực tế mô hình phân công lao động sản xuất nông nghiệp vẫn mang màu

THÚC ĐẨY QUYỀN THAM CHÍNH CỦA PHỤ NỮ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY PHẠM THỊ HẰNG * Tóm tắt: Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách nhằm giải phóng phụ

Kết luận: Tỷ lệ NTTN không triệu chứng ở phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng là 13,4% và chưa tìm thấy các yếu tố liên quan đến nhiễm trùng niệu ở thai phụ..

TÌNH HÌNH NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG SINH DỤC DƯỚI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ CÓ CHỒNG TUỔI TỪ 18 – 49 TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ Nguyễn Quang Thông1*, Trần Ngọc Dung2, Nguyễn Minh

Ngoài ra, độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu của tác giả Pooja Dhaon thấp hơn nghiên cứu này, nên MĐX có thể chưa ảnh hưởng nhiều để gây ra sự khác biệt về tỉ lệ loãng xương

Bài viết tập trung tìm hiểu thực ttạng phụ nữ cao tuổi tiếp cận với các tiện ích về văn hóa thể thao và du lịch ở địa phương và những yếu tố ảnh hưởng tới khả năng và cơ hội tiếp cận