QUẢ TRÌNH XÁC LẬP ĐƯỜNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - CAMPUCHIA ở NAM BỘ
TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN NĂM 1954
NGUYỄN ĐÌNH cơ*
* TS. Nguyễn Đình Cơ, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Bài viết phân tích quá trình hình thành và xác lập đường biên giới giữa Việt Nam và Campuchia ở Nam Kỳ từ khi người Việt đặt chân đến vùng Mô Xoài, Đồng Nai khai khẩn đất đai, lập làng (thế kỷ XVII) cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhăn dân Việt Nam kết thúc thắng lợi (thảng 7/1954). Ớ thế kỷ XVII - XVIII, cùng với bước chân “Nam tiến”, người Việt đã từng bước khai phá, thiết lập làng xóm ở khu vực sông Đồng Nai, rồi tiến xuống vùng hạ lưu sông Mekong rộng lớn, tạo tiền đề để chính quyền chúa Nguyễn từng bước sáp nhập các vùng đất mới được khai khẩn vào lãnh thổ Đàng Trong. Đường biên giới giữa Đàng Trong - Chân Lạp ở Nam Kỳ thời kỳ này bước đầu được xác lập, tuy nhiên còn chưa rõ ràng, thường xuyên biến động. Đầu thế kỷ XIX, các vị vua đầu của nhà Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) đã có sự quan tâm lớn với khu vực biên giới phía Tây của Nam Kỳ. Đường biển giới Nam Kỳ - Campuchia cơ bản được xác lập trên cơ sở sự đồng thuận giữa triều đình Đại Nam và triều đình Campuchia. Sang thời thuộc Pháp, chính quyền Pháp đã quan tâm dặc biệt đến việc hoạch định biên giới giữa vùng Nam Kỳ thuộc địa (Cochinchine Franqai.se) với Campuchia, bằng những hiệp ước giữa 2 chính quyền, vẽ bản đồ xác thực và cắm mốc trên thực địa.
Từ khóa: đường biên giới, Việt Nam, Campuchia, Nam Kỳ, thế kỷ XVII, năm 1954.
Mở đầu
Đầu thế kỷ XVII, do nhiều nguyên nhân người Việt từ vùng đất ngũ Quảng(1) di cư vào Mô Xoài, Đồng Nai cùng với các cộng đồng cư dân bản địa nơi đây cộng cư, khai phá và từng bước lập nên vùng đất Nam Bộ. Trong giai đoạn đầu để khuyến
khích lưu dân khai phá đất đai, chính quyền chúa Nguyễn đã có nhiều chính sách khuyến khích khẩn hoang, mở rộng diện tích. Sang thế kỷ XVIII, người Việt đã đặt chân đến khu vực biên giới với Campuchia ở từ núi Bà Đen (Tây Ninh) cho đến địa đầu cực Nam ở vùng Mang Khảm (trấn Hà Tiên sau này). Sau khi
Nguyễn Đĩnh Cơ - Quá trình xác lập đường biên giới Việt Nam - Campuchia... 33
chính quyền nhà Nguyễn thành lập, triều đình trung ương đã có nhiều chính sách khuyến khích dân khai phá, cử binh lính đồn trú bảo vệ lưu dân, bảo vệ đường biên giới quốc gia dù còn sơ khai. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, bên cạnh việc thiết lập bộ máy hành chính, chính quyền Nam Kỳ thuộc địa đã có những cuộc đàm phán, ký kết hiệp ước với chính phủ Campuchia và thực hiện cắm mốc khẳng định chủ quyền.
Biên giới giữa Nam Kỳ với Campuchia về cơ bản được xác lập một cách ổn định, theo thông lệ quốc tế, được sự đồng thuận của 2 chính quyền.
1. Đường biên giới Việt Nam - Campuchia từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX
Nam Bộ là một vùng đất cổ, địa bàn sinh sống của con người cách đây khoảng 4000 nàm. Cách ngày nay 3000-2500 năm, cư dân nơi đây đã biết sử dụng công cụ bằng đồng thau, sắt, dù công cụ bằng đá vẫn phổ biến. Trên cơ sở đó văn hóa Óc Eo đã nảy sinh và phát triển rực rỡ ở Nam Bộ.
Từ nền văn hóa Óc Eo đã hình thành nên vương quốc cổ Phù Nam với địa bàn chính là khu vực Nam Bộ (Việt Nam) và lan tỏa ra hạ lưư sông Mekong(2).
Từ thế kỷ VII do nhiều nguyên nhân, vương quốc Phù Nam suy yếu và bị Chân Lạp (Tchenla, vốn là thuộc quốc) thôn tính.
Về danh nghĩa, Nam Bộ trong các thế kỷ VII - XVI, cơ bản tương thích với Thủy Chân Lạp, vùng đất Chân Lạp giành được nhờ triệt hạ Phù Nam(3). Tuy nhiên, từ sau đó cho đến thế kỷ XVI, Nam Bộ là một vùng đất hoang vu, chưa được khai phá, gần như là vô chủ. Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí vùng đất phương Nam, phủ Gia Định (gồm hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn) được thành lập(4). Năm 1708, phủ Gia Định có thêm trấn Hà Tiên sáp nhập vào (nhưng có tính tự trị tương đối cao). Vùng đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong năm 1708 là một sự kiện quan trọng trong quá trình mở rộng chủ quyền của chúa Nguyễn ở vùng đất Nam Bộ(5). Đến đầu thê kỷ XVIII, chủ quyền của Đại Việt đã mở rộng đến đến tận mũi Cà Mau (thuộc trấn Hà Tiên), bao gồm các hải đảo ngoài biển Đông và Vịnh Thái Lan(6). Năm 1732, chúa Nguyễn sáp nhập thêm châu Định Viễn vào phủ Gia Định mở rộng thêm vùng đất Nam Bộ. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương chia lại địa giới hành chính. Đàng Trong có 12 dinh, thì khu vực nay là Nam Bộ có 3 dinh (Trấn Biên dinh, Phiên Trấn dinh và Long Hồ dinh) và 1 trấn là Hà Tiên(7). Năm 1757, với việc ủng hộ Nặc Tôn làm vua Chân Lạp, chính quyền Đàng Trong đã thu về vùng đất Tầm Phong Long (An Giang) và cả một khu vực đất đai rộng lớn phía bắc Hà Tiên từ cảng Compongsom đến giáp giới trấn Hà Tiên gồm 5 phủ là: cần Bột (Kompot), Vũng Thơm (Kompong Som), Chưn Rùm (Chai Chun), Sài Mạt (Bantey méas) và Linh Quỳnh (Raung Veng). Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã thành lập thêm 3 đơn vị hành chính ở những vùng đất mà Chân Lạp vừa mới chuyển giao cho Đàng Trong là đạo Đông Khẩu (ở Sa Đéc), đạo Châu Đốc (ở Châu Đốc) và đạo Tân Châu (ở Cù Lao Giêng), đều lệ thuộc vào dinh Long Hồ(8).
Năm 1772, chúa Nguyễn tiếp tục lập đạo Trường Đồn (ở Mỹ Tho), đến năm 1778 được đổi thành dinh Trường Đồn(9).
34 Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2022
Như vậy đến cuối thê kỷ XVIII, phần lớn lãnh thồ của vùng đất Nam Bộ đã thuộc về chúa Nguyễn. Chính quyền Đàng Trong đã đánh thức và làm hồi sinh một vùng đất gần như bị lãng quên trong nhiều thế kỷ. Từ đây, vùng đất Nam Bộ hòa nhập vào xu thế phát triển chung của cộng đồng cư dân, chính trị, kinh tê và văn hóa Việt. Ngoài ra, các chúa Nguyễn cũng đã từng bước thiết lập một hệ thống quản lý hành chính trên toàn cõi Nam Bộ, với phương châm: dân khai phá trước, nhà nước thiết lập bộ máy quản lý sau. Những đơn vị hành chính được chính quyền lần lượt thiết lập ở Trấn Biên, Phiên Trấn, Hà Tiên, Long Hồ (Vĩnh Trấn) và Trường Đồn (Trấn Định). Cũng trong thời gian này, lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn ở Nam Kỳ đã trở thành một khu vực thống nhất, liên tục về địa lý từ Biên Hòa tới Hà Tiên bên bờ vịnh Thái Lan. Đường biên giới bước đầu được hình thành: biên giới phía Tây đã đi tới phần trên của núi Bà Đen (còn gọi là Bà Đinh) thuộc 3 đạo Quang Hóa, Quang Phong, Thuận Thành (Tây Ninh hiện nay) cắt hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm cỏ Tây; cắt con sông Tiền sông Hậu ở phía tây Châu Đốc ngày nay (khu vực phía Tây kênh Vĩnh Tế); sau đó chạy sang hướng Tây tới biên giới Xiêm ngăn cách Chân Lạp với Vịnh Thái Lan.
Đường biên giới này có một vài thay đổi trong những năm 1790, 1829 do sự thỏa thuận điều chỉnh của Nguyễn Vương và hoàng đế Minh Mạng với chính quyền Chân Lạp.
Đối với Chân Lạp, nhà N guyễn vẫn duy trì chính sách như các chúa Nguyễn đã thực thi trước đây. Trong khi đó ở phía Tây, Xiêm cũng tiến hành đẩy mạnh chính sách
bành trướng sang phía Đông. Chân Lạp trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa nhà Nguyễn và triều đình Xiêm. Trong khi đó bản thân nước Chân Lạp lại bị suy yếu với các cuộc tranh giành quyền lực, không đủ sức bảo vệ nền độc lập của mình. Nội bộ triều đình Chân Lạp bị chia rẽ thành 2 phe: phe thân Việt và phe thân Xiêm.
Năm 1815, quân đội của nhà Nguyễn đã đánh bật quân Xiêm ra khỏi Campuchia, triệt tiêu sự đe dọa ở khu vực phía Tây Nam của đất nước. Vua Gia Long cử Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành, đem quân trấn giữ, sửa đắp lại thành Nam Vang, hộ tống Nặc Chân về làm quốc vương Cao Miên dưới sự bảo hộ của nhà Nguyễn. Năm 1824, vua Chân Lạp là Nặc Chân cắt dâng đất đai 3 phủ Chân Sâm, Mật Luật và Khu Lợi Bát cho nhà Nguyễn. Vua Minh Mạng chỉ nhận 2 phủ Chân Sâm và Mật Luật, giao cho chính quyền trấn Vĩnh Thanh thống thuộc, quản lý(10). Cuối năm 1833, triều đình Xiêm đưa quân tấn công quân đội nhà Nguyễn trên đất Cao Miên, rồi xâm chiếm cả Hà Tiên và Châu Đốc của quốc gia Đại Nam. Năm 1834, quân Nguyễn tổ chức phản công đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ, rồi thừa thắng đánh bật quàn Xiêm ra khỏi Cao Miên. Sau đó nhà Nguyễn lấy đất cần Bột (Cam pốt) và Hương Úc do vua Cao Miên là Nặc Chân cắt dâng tặng đặt thành phủ Quảng Biên lệ thuộc vào tỉnh Hà Tiên. Cuối năm 1834 Nặc Chân chết không có con trai nối ngôi, nhà Nguyễn bèn xóa bỏ chế độ bảo hộ.
Đầu năm 1835, khi vua Minh Mạng quyết định áp dụng chế độ cai trị trực tiếp, Chân Lạp được đổi thành tên mới là trấn Tây Thành, đem cả phủ Châu Rum, Sài Mạt ở
Nguyễn Đình Cơ - Quá trình xác lập đường biên giới Việt Nam - Campuchia... 35
phía Tây Châu Đốc và sau đó cả phủ Quảng Yên lệ thuộc vào đấy. Đường biên giới giữa Nam Bộ và Campuchia đã có sự điều chỉnh đáng kể(11). Để trấn giữ biên giới phía Tây nhà Nguyễn đã tổ chức 25 vệ sở dọc những điểm tiếp giáp với lãnh thổ Xiêm để phòng ngừa. Trấn Tây Thành duy trì đến năm 1841, vua Thiệu Trị quyết định triệt thoái, truyền cho quan quân Đại Nam rút quân về giữ An Giang(12). Đại Nam và Xiêm đều công nhận Sá Ông Giun (Ang Duong) là quốc vương Cao Miên, công nhận độc lập của Cao Miên. Trong quan hệ với nhà Nguyễn, Sá Ông Giun chịu nhận lễ sắc phong của triều Nguyễn, đồng thời tự nguyện thừa nhận toàn bộ lãnh thổ Đại Nam giáp với Cao Miên có trước năm 1824 bao gồm cả các hải đảo:
Phú Quốc, CỔ Công, Thổ Chu, Cố Cốt... là hoàn toàn thuộc chủ quyền của Đại Nam(13). Đến đây đường biên giới giữa Việt Nam và Campuchia về cơ bản đã được xác lập ộn định. Nhà Nguyễn quản lý đất đai và dần cư ven biên giới bằng bộ máy hành chính, quân sự. Cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858), từ tỉnh Biên Hòa tới tỉnh Hà Tiên, lãnh thổ Việt Nam tiếp giáp đất Campuchia ở 8 huyện thuộc 6 phủ, 5 tỉnh đã được xác định rõ, bao gồm:
Tỉnh Biên Hòa ở cực Tây Bắc: có huyện Phước Bình thuộc phủ Phước Long (sang thời Pháp đổi thành tỉnh Thủ Dầu Một, nay là tỉnh Bình Phước).
Tỉnh Gia Định: có 2 huyện Tân Ninh và Quang Hóa đều thuộc phủ Tây Ninh (thời Pháp thuộc là tỉnh Tây Ninh).
Tỉnh Định Tường: có 2 huyện Kiến Phong và Kiến Đăng đều thuộc phủ Kiến Tường (thời Pháp thuộc là tỉnh Sa Đéc)
Tỉnh An Giang: có 2 huyện là Hà Am thuộc phủ Tuy Viễn và huyện Đông Xuyên thuộc phủ Tây Thành (thời Pháp thuộc là tỉnh Châu Đốc)
Tỉnh Hà Tiên có huyện Hà Châu thuộc phủ An Biên (thời Pháp thuộc là tỉnh Hà Tiên).
Tất các các địa phương này đều có đường biên giới đất liền giữa Việt Nam và
Campuchia. Phía tây huyện Phước Bình có núi Bà Rá và vùng các sách man ở phía Nam dãy Trường Sơn quy phục triều đình từ thời vua Minh Mạng và Thiệu Trị. Phủ Tây Ninh có núi Linh Sơn (Bà Đen), núi Lấp Vò cách Linh Sơn 60 dặm về phía Bắc), sông Luật (Vàm cỏ Đông) phía tây Phủ Tây Ninh gần đất Campuchia, qua khe Xỉ (rạch Tây Ninh) đến đạo Quang Phong (thành phố Tây Ninh hiện nay)(14).
Có thể thấy, đến giữa thế kỷ XIX, đường biên giới giữa Việt Nam và Campuchia về cơ bản đã được xác lập trên cơ sở được sự đồng thuận của chính quyền Đại Nam và Campuchia, chính quyền Xiêm cũng không có sự phản đối. Theo Vũ Đức Liêm: Mặc dù người Pháp sau này vẽ các bản đồ mà từ đó đường biên giới này được quốc tế công nhận, Việt Nam và Campuchia dựa vào đó để hoạch định đường biên biên giới của mình, nhưng thực tế là nó dựa trên cơ sở của đường biên giới đã được xác lập bởi chúa Nguyễn và các vương triều Campuchia từ 1755 đến 1847 bằng nhiều con đường khác nhau. Nhà Nguyễn đã sử dụng các yếu tố địa lý tự nhiên như phương tiện xây dựng hệ thống quân sự, bố trí dân cư và từng bước tổ chức hệ thống hành chính nhằm “lãnh thổ hóa”
vùng hạ lưu Mekong. Đến giữa thế kỷ XIX thì về cơ bản đường ranh giới này đã được
36 Nghiên cứu Đông Nam Á, sô'4/2022
định hình. Và trên cơ sở sự tương tác quyền lực giữa Đại Nam - Campuchia - Xiêm thời kỳ này, đường biên giới đó đã được công nhận bởi cả Huế, Phnom Penh và Bangkok* 15).
Bên cạnh việc xác lập đường biên giới, chính quyền chúa và vua Nguyễn đã cho thiết lập những đồn binh, các đạo ở khu vực biên viễn và cử quân đội đến đồn trú để bảo vệ lưu dân và bảo vệ biên giới. Ngay từ khi chúa Nguyễn hoàn thành về cơ bản quá trình Nam tiến (năm 1757), chính quyền Đàng Trong đã lập ra một số
“đạo”(16) ở khu vực phía Nam, cử binh lính đến đồn trú, vừa bảo vệ lưu dân, bảo vệ biên giới và làm tiền đề cho sự hình thành các đơn vị hành chính ở khu vực biên viễn,
ơ
khu vực Gia Định có đạo Quang Phong, Quang Hóa, Thuận Thành (Tây Ninh hiện nay), đạo Băng Bột (Thủ Dầu Một), đạo Cần giờ (Sài Gòn),... khu vực Tây Nam Bộ có đạo Đông Khẩu, đạo Tân Châu, đạo Châu Đốc, đạo Long Xuyên, đạo Trường Đồn... Sang thời nhà Nguyễn ở đầu thế kỷ XIX, chính quyền Đại Nam tiếp tục củng cô các thủ sở đạo biên phòng, tăng cường lực lượng lính biên phòng đồn trú. Từ các thủ Tân Lợi, Tân Định, Tân Bình, Tân Thuận ở phía Tây tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Bình Phước)'171 qua các đồn thủ ở phủ Tây Ninh (Quang Hóa, Thuận Thành, Quang Phong, Định Liêu), xuống đến tận Hà Tiên đều được thành lập thêm, tăng cường thêm binh lính biên phòng đồn trú để bảo vệ đồn các đồn, chòi canh, kênh rạch và làng mạc Việt Nam đã trở thành những dấu ấn hình ảnh đặc biệt của vùng địa lý do Huế kiểm soát. Nhà Nguyễn đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống thông tin liên lạc và các công trình phòng thủ từ HàTiên đến phủ Tây Ninh (được thành lập năm 1836). Các quan chức ở Hà Tiên hàng tháng gửi báo cáo về tình hình biên giới cho triều đình Huế(18í.
2. Đường biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchỉa được khẳng định theo qui định Quốc tế dưới thời thuộc Pháp (1862 - 1954)
Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nang) mở đầu cho quá trình xâm lược Đại Nam.
Âm mưu của Pháp và Tây Ban Nha khi tấn công Đà Nẵng là thực hiện kế sách
“đánh nhanh thắng nhanh”, chiếm lấy Đà Nẵng làm bàn đạp, từ đó đánh vào nội địa, tiêu diệt sinh lực của triều đình nhà Nguyễn tại đây, rồi tấn công sang kinh đô Huế, buộc Đại Nam phải đầu hàng(19Ị. Sau hơn 5 tháng không đạt được mục đích, lợi dụng điều kiện gió bấc, Pháp - Tây Ban Nha giong thuyền xuống tấn công Gia Định. Tháng 1/1859, đô đốc Pháp Riganlt de Genouilly cho quân tấn công Vũng Tàu, Biên Hòa, tiếp đó cho thuyền tiến vào cửa biển Cần Giờ tân công chiếm các đồn tiền tiêu của Gia Định. Thành Gia Định nhanh chóng bị thất thủ, đô đốc Võ Duy Ninh và án sát Lê Từ tự sát. Tuy nhiên phong trào đấu tranh của nhân dân Gia Định vẫn diễn ra rất mạnh mẽ khiến cho quân Pháp không thể yên ổn đóng trong thành.
Riganlt de Genouilly quyết định cho phá hủy thành, đốt sạch các kho lúa gạo, rút quân xuống đóng dưới các tàu chiến, chỉ để lại một lực lượng nhỏ đòn trú ở đây. Theo Nguyễn Thê Anh thì trước những khó khăn lớn thời điểm này chính phủ Pháp muốn rút quân khỏi Việt Nam, nhưng Riganlt de Genouilly về Pháp đã biện hộ
Nguyễn Đình Cơ - Quá trình xác lập đường biên giới Việt Nam - Campuchia... 31
cho lý do duy trì sự hiện diện của quân đội Pháp ở Sài Gòn và cuối cùng chính phủ Pháp đã đồng ý với phương án mở rộng xâm lược Nam Kỳ sau khi giải quyết khó khăn ở Trung Quốc(20). Ngày 25/10/1860, tư lệnh hải quân quân đội Pháp, Phó đô đốc Channer đã đưa 70 chiến hạm, 3500 quân đến chi viện cho quân Pháp đang đóng ở Nam Kỳ. Ngày 23/2/1861, sau khi có lực lượng tăng viện, liên quân Pháp - Tây Ban Nha do Phó đô đốc Chaner chỉ huy khoảng 8000 quân với nhiều khẩu đại bác các loại đã bắt đầu tấn công đại đồn Chí Hòa(21). Do sự đối phó bị động của quan quân triều đình, đại đồn Chí Hòa nhanh chóng bị thất thủ chỉ sau 2 ngày tấn công (25/2/1861). Nguyền Tri Phương bị trọng thương và lui quân về Hóc Môn và sau đó lại rút về Biên Hòa cố thủ; quân Pháp mở rộng đánh chiếm ra các khu vực khác của Nam Kỳ (trước hết là các tỉnh miền Đông). Định Tường (4/1861), Biên Hòa (12/1861), Vĩnh Long nhanh chóng rơi vào tay của Pháp. Tháng 5/1862 Tự Đức vội cử 2 phái viên đi đàm phán với đại diện của Pháp và ký hiệp ước Nhâm Tuất nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ và đảo Côn Lôn. Từ ngày 20/6 đến 24/6/1867, quân Pháp đã thôn tính tiếp 3 tỉnh Miền Tây (Hà Tiên, Vĩnh Long, An Giang) mà không hao tổn 1 viên đạn, 1 quân lính nào. Nam Kỳ lục tỉnh rơi vào tay của Pháp.
Ngay từ năm 1862, sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ từ triều đình nhà Nguyễn, chính quyền Pháp đã quan tâm đến việc hoạch định rõ ràng đường biên giới Nam Kỳ - Campuchia. Mặc dù thời điểm trước khi Pháp đặt chân đến Đông Dương, các vương triều phong kiến của
Việt Nam, Lào và Campuchia về cơ bản đã thống nhất với chủ quyền đã được phân chia trong phạm vi ảnh hưởng của mình nhưng ranh giới cụ thể giữa các quốc gia vẫn chỉ là những khu vực biên giới, chưa nhất quán, thường xuyên có sự thay đổi.
Trong bối cảnh này, các nhà cầm quyền Pháp nhận thấy cần phải hoạch định và phân vạch những đường biên giới hành chính trong toàn bộ khu vực Đông Dương.
Đầu năm 1863, đô đốc De la Grandière - quyền chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ- đã cử trung úy hải quân Doudart de Lagrée sang Udon gặp vua Campuchia là Norodom đệ nhất(22).
Sau khi thực dân Pháp thiết lập chế độ bảo hộ ở Campuchia (8/1863), việc nghiên cứu biên giới được giao cho thanh tra Philastre. Đến năm 1867 sau khi thôn tính hoàn toàn Lục tỉnh Nam Kỳ, song song với việc xây dựng bộ máy hành chính cai trị, thực dân Pháp đã đặt sự quan tâm hàng đầu đến việc phân định cụ thể đường biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia.
Từ tháng 3/1870, để tránh việc người dân dọc biên giới tìm cách trốn thuế, một ủy ban hỗn hợp Pháp - Campuchia được thành lập để nghiên cứu hoạch định ranh giới tiếp giáp giữa tỉnh Tây Ninh của Nam Kỳ với tỉnh Kampong Cham (Campuchia).
Trong tháng 3/1870, ủy ban này đã tiến hành phân ranh giới trên thực địa và cắm được 19 cọc mốc từ bờ sông Tonle Tru (mốc N01) đến Hưng Nguyên (mốc N019). Do có sự khiếu nại từ phía Campuchia nên khi ký thỏa ước ngày 9/7/1870, chính quyền Pháp và Campuchia chỉ xác nhận vị trí từ bờ sông Tonle Tru (mốc N01) đến điểm rạch Tà Sang gặp rạch Cái Cậy (vị trí mốc N016) hủy bỏ đoạn ranh giới từ từ mốc
38 Nghiên cứu Đông Nam Á, số4/2022
N017 và mốc N018 đến Hưng Nguyên (mốc N019), nhưng lại nhượng phần đất giữa rạch Cái Cậy và Cái Bát(23) cho phía Campuchia, đổi lại 486 nóc nhà hợp thành các làng Snok Tranh, Bang Chnum và dãi đất dọc theo hai bên sông Vàm cỏ(24). Theo Annuaire general commercial, administra
tive & industriel de I’Indo-Chine (Tổng niên giám thương mại, hành chính và kỹ nghệ Đông Dương) xuất bản năm 1901, ghi cụ thể hiệp ước bằng tiếng Pháp như sau:
“La frontiere demeure telle qu’elle a été tracée sans aucun changement depuis le poteau no 1 (à 1’embouchure du Peam- prien), jusqu’au poteau no 16 (à Ca-sang sur Cái-cay). Le terrain compris entre le Cái-bach, et le Caĩ-cay qui faisait partie du territoire francaise (et dont le revenue annuel s’eleve environ à 1.000 francs), sera
concede au Cambodge, en compensation des 486 maisons environ qui forment les villages situés vers Soc-trang à Bang- chrum. Les poteaux nos 17, 18 et suivants seront annulés jusqu’a Hung-nguyên; le Cambodge conservera tout les pays actuellement habité par les Cambodgiens des province Prey-reng, Boni-fuol, Soc- thiet”(25). Từ năm 1871, hai bên tiếp tục phân ranh trên thực địa từ mốc NO 17 trở đi và các nhà cầm quyền Pháp đã hoàn thành họa đồ hai tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc.
Năm 1872, hai bên phân vạch trên thực địa và cắm 12 mốc giới trên đoạn biên giới còn lại giữa tỉnh Tây Ninh và tỉnh Svay Rieng. Ngày 15/7/1870, thống đốc Nam Kỳ, Đô đốc Dupré và Quốc vương Campuchia Norodom chính thức ký kết:
“Công ước về việc xác định giải quyết dứt điểm đường biên giới giữa Vương Quốc Campuchia và xứ Nam Kỳ thuộc Pháp”.
Đường biên giới giữa Nam Kỳ và
Campuchia bao gồm 124 cột mốc, bắt đầu từ cột mốc số 1 trên sông Tonlé Tru, tức sông Sài Gòn, và đi theo hướng Tây Nam cho tới cột mốc 124 được xác định tại Hà Tiên. Cùng với đoạn biên giới Tây Ninh - Tân An, công ước năm 1873 còn xác định đoạn biên giới từ cột mốc 60 đến cột mốc 124 rồi đi tiếp đến Vịnh Thái Lanl26).
Chính quyền Pháp hoàn thành việc cắt chỉnh địa giới hai hạt Hà Tiên và Châu Đốc của Nam Kỳ, phần đất phía bắc kênh Vĩnh Tế và thị xã Hà Tiên ngày nay giao cho Campuchia. Đến năm 1874, các bên đã hoàn thành cắm mốc trên thực địa theo công ước này(27).
Với hai bản thỏa ước 1870 và 1873, đường biên giới giữa Campuchia và Nam Kỳ được xác lập. Cho đến năm 1896, giữa Pháp và Campuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về việc hoạch định phân giới, cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia. Trên cơ sở các văn bản pháp lý đã ký kết, hai phía Nam Kỳ và Campuchia đã lập ra các ủy ban cắm mốc để đưa đường biên giới ấn định lên thực địa, đồng thời vẽ bản đồ đường biên giới.
Sau đó do một số tranh chấp phát sinh trong quá trình quản lý thực tế, nên sau đó, đường biên giới này đã được sửa đổi, điều chỉnh ở một số điểm nhỏ bởi những nghị định khác nhau của toàn quyền Đông Dương. Lần lượt là: nghị định ngày 10-12- 1898, sửa đổi đoạn biên giới giữa Tây Ninh và tỉnh Svay Rieng; nghị định ngày 20-3- 1899, điều chỉnh đoạn biên giới tỉnh Tân An (nay là Long An) và tỉnh Svay Rieng;
nghị định ngày 31-7-1914, là lần điều chỉnh trên nhiều đoạn biên giới trong đó gồm: đoạn biên giới giữa tỉnh Hà Tiên và tỉnh Kampot, đoạn biên giới giữa tỉnh Tây
Nguyễn Đình Cơ - Quá trình xác lập đường biên giới Việt Nam - Campuchia... 39
Ninh và tỉnh Prey Veng (vùng đất dọc bờ nam rạch Cái Cậy thỏa ước năm 1870 quy định thuộc Tây Ninh Nam Kỳ tới nghị định này được cắt trả về Campuchia), và đoạn biên giới giữa tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Kampong Cham.
Đến năm 1942, toàn bộ đường biên giới trên bộ giữa Nam Kỳ và Campuchia đã được 2 bên (Pháp và Campuchia) nhất trí phân định và cắm mốc. Cùng với việc hoạch định biên giới và phân giới cắm mốc trên thực địa, sở địa dư Đông Dương đã in ấn hệ thống bản đồ thể hiện đầy đủ, rõ ràng đường biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia. Đến năm 1954, toàn bộ biên giới giữa hai nước Việt Nam và Campuchia đã được thể hiện trên 26 mảnh bản đồ tỉ lệ 1/100.000 do Sở Địa dư Đông Dương xuất bản. về cơ bản, đường biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia được thể hiện trên các mảnh bản đồ này là phù hợp với các; văn bản pháp lý được ký kết giữa hai nước liên quan đến hoạch định biên giới trên cơ sở kế thừa đường biên giới được xác lập dưới triều Nguyễn, làm tiền đề cho việc cắm mốc biên giới trên thực địa, cũng như tiền đề cho việc hình thành đường biên giới hiện nay giữa hai nước Việt Nam và Campuchia.
Kết Luận
Đường biên giới Việt Nam - Campuchia ở khu vực Nam Bộ được hình thành ổn định từ trong quá trình hàng trăm năm lịch sử, phù hợp với thực tiễn giao bang hai nước và luật pháp quốc tế. Cùng với quá trình di cư từ vùng ngũ Quảng vào khai phá vùng đất Nam Bộ, lưu dân người Việt đã dần dần dặt chân đến khu vực biên giới khai phá đất đai, thiết lập những thôn
xóm ở đây. Chính quyền chúa Nguyễn (và sau đó là nhà Nguyễn) đã có nhiều chính sách thu hút người dân khai phá, cử lực lượng quân đội đồn trú bảo vệ vùng đất mới và khẳng định chủ quyền ở những vùng đất dọc tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia ngày nay. Trong quá trình đó, chính quyền của 2 nước đã có sự thỏa thuận và công nhận đối với đường biên giới của nhau, tuy nhiên ranh giới trên thực địa thì vẫn chưa thực sự rõ ràng. Khi Pháp thiết lập ách thống trị Nam Kỳ (cuối thế kỷ XIX), chính quyền thuộc địa đã có những cuộc đàm phán và đi tới ký kết với chính quyền Campuchia những hiệp ước liên tiếp phân định rạch ròi đường biên giới, cho vẽ bản đồ và thực hành cắm mốc trên thực địa phù hợp với luật pháp quốc tế, trên cơ sở đồng thuận, giám sát của 2 chính quyền./.
CHÚ THÍCH
1. Ngũ Quảng gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế), Quảng Nam và Quảng Ngài.
2. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên, 2017), Vùng đất Nam Bộ, tập IV. Nxb. Chính tộ Quốc gia, Hà Nội, tr.26
3. Phan Huy Lê (chủ biên) (2017), Vùng đất Nam Bộ - Qúa trình hình thành và phát triển, tập 1.
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.42.
4. Trịnh Hòai Đức (2005), Gia Định thành thống chí, Lý Việt Dũng dịch, Nxb Tổng hợp Đồng Nai., Biên Hòa, tr. 112.
5. Quốc sử quán nhà Nguyễn ghi chép: “Lấy Mạc Cửu làm Tổng binh xứ Hà Tiên. Cửu người Lôi Châu, xứ Quảng Đông. Nhà Minh mất để tóc chạy sạng phương Nam, đến đất Chân Lạp làm chức Oc Nha thấy phủ Sài Mạt nước ấy nhiều người buôn các nước tụ họp bèn mở sòng bạc để thu thuế, gọi là thuế hoa chi, lại được hố bạc chôn nên trở nên giàu có. Nhân chiêu tập dân đến các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Gia Khê, Luống Cày, Hương úc, Cà Mau, thuộc tỉnh Hà Tiên lập
40 Nghiên cứu Đông Nam Á, số4/2022
thành 7 xã thôn. Thấy nơi ấy tương truyền có người tiên thường xuyên hiện ra trên sông, nhân thế đặt tên là Hà Tiên. Đến đấy Cửu ủy cho người bộ thuộc là Trương cầu và Lý Xá dâng thư xin làm Hà Tiên trưởng chúa nhận cho, trao cho chức Tổng binh. Cửu xây dựng dinh ngủ đóng ở Phương Thành, nhân dân ngày càng đến đông.” [Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb giáo dục,
Hà Nội, tr.122].
6. Vũ Minh Giang (chủ biên, 2018), Lược sử vùng đất Nam Bộ. Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 33-34.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn chép “Buổi quốc sơ, bờ cõi một ngày một mở mang, chia đặt cả cõi làm 12 dinh: ở Ái Tử gọi là Cựu dinh, ở An Trạch gọi là Quảng Bình dinh, ở Võ Xá gọi là Lưu Đồn dinh, ở Thổ Ngõa gọi là Bố Chính dinh, ở Quảng Nam gọi là Diên Khánh, Bình Khang gọi là Bình Khang dinh, ở Bình Thuận gọi là Bình Thuận dinh, ở Phước Long gọi là Trấn Biên dinh, ở Tân Bình gọi là Phiên Trấn dinh, ở Định Viễn gọi là Long Hồ dinh. Các dinh đều đặt trấn thủ, cai bạ và ký lục để cai trị. Duy hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn lệ thuộc vào dinh Quảng Nam, thì đặt riêng chức tuần phủ và chức khám lý để cai trị. Hà Tiên lại biệt làm một trấn, thuộc chức đô đốc. Phú Xuân thì gọi là Chính dinh, nay chúa đã lên ngôi vương, mới đổi làm đô thành như thế” (Quốc sử quán nhà Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1. Nxb. giáo dục, Hà Nội, tr.134 - 135).
8. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch. Nxb. Đồng Nai, tr.114.
9. Phan Khoang (1969), Việt sử xứ Đàng Trong.
Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.178-182.
10. Quốc sử quán nhà Nguyên (2007), Đại Nam thực lực tập 2, Nxb giáo dục, Hà Nội, tr.349.
11. Tham khảo những đoạn ghi chép về việc thành lập và phân công nhân sự ở trấn Tây thành khi thành lập (năm 1835) trong Đại Nam thực lục.
Quốc sử quán nhà Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb giáo dục, Hà Nội, tr559, 600, 700,800.
12. Quốc sử quán nhà Nguyễn (2007), Đại Nam thực lực tập 6, Nxb giáo dục, Hà Nội, tr.220.
13. Nguyễn Sỹ Tuấn (2010), Báo cáo Tổng quan kết quả nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu cơ sở lịch sử, văn hóa, chính trị xã hội và pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia và đề xuất giải pháp ổn định, phát triển vùng biên giới hai nước, Bộ khoa học công nghệ, đề tài độc lập cấp nhà nước, tr.48.
14. Lê Quang Định miêu tả vào năm 1806 như sau:
“Từ rạch Khe Răng 19.740 tầm (khoảng 41,85
km) thì đến thủ sở đạo Quang Phong, lệ đặt thuộc binh ở thủ này là một đội, ở đây quân dân tự trồng trọt để sinh sống... Từ đó đi lên đến chỗ ba nhánh: Tức Tra, Cái Bát, Cái Cạy, cả ba đều giáp địa giới của Cao Miên” [Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Phan Đăng dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.92-93].
15. Vũ Đức Liêm, Sự hình thành đường biên giới Việt Nam - Campuchia thời Nguyễn, Tạp chí Tia Sáng, truy cập ngày 15/9/2017.
16. Đạo là một tổ chức quân sự - hành chính không nằm trong hệ thống hành chính bắt buộc của chính quyền họ Nguyễn (bao gồm cả thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn). Thông thường đạo nằm trong phủ. Viên quan đứng đầu đạo được gọi là quản đạo (có khi gọi là quản thủ đạo).
Trách nhiệm chủ yếu của quản đạo là trông nom việc binh bị chứ không phải là việc dân sự. Bởi thế, bên cạnh quản đạo là tham tán và lãnh binh thay vì các cai bạ, ký lục, thừa ty... Nhà Nguyền đã đặt ra khá nhiều đạo ở Gia Định. Ví dụ, ở phía Tây Gia Định có đạo Quang Uy, tức huyện Hóc Môn và Củ Chi ngày nay; kế đến là đạo Quang Hóa; phía Bắc đạo Quang Hóa là đạo Quang Phong (vùng trung tâm là núi Bà Đen ngày nay). Ớ phía Tây Bắc của Gia Định thì có đạo Thuận Thành (trung tâm là huyện Lộc Ninh và tx. Bình Long của tỉnh Bình Phước ngày nay). Xa hơn ở miền Tây thì có đạo Sa Đéc, Long Xuyên, Đông Khẩu.. Như vậy, đạo là một “đặc khu”, được chính quyền họ Nguyễn thành lập ở những vùng đất biên viễn hay mới xác lập được chủ quyền. Đạo có diện tích tương đối lớn nhưng dân đinh rất ít, chủ yếu là binh lính bảo vệ trong các thành, bảo, đồn, lũy.
[Vương Công Đức (2016), Trảng Bàng phương chí, Tái bản lần thứ nhất, có chỉnh lí, bổ sung, Nxb Tri thức, Hà Nội, tr. 84-85],
17. Quốc sử quán nhà Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.67-68.
18. Vũ Đức Liêm (2016) “Vietnam at the Khmer Frontier: Boundary Politics, 1802-1847.” Cross- Currents: East Asian History and Culture Review 5 (2): 534—64.
19. Đinh Xuân Lâm (cb, 2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb giáo dục, Hà Nội, tr.17.
20. Nguyễn Thê Anh (1970), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.
21. Theo Monographic de la province de Gia Dinh (chuyên khảo về tỉnh Gia Định - 1902): Thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp đã chỉ huy 1000 lính xây dựng nên 3 đồn (đồn Tiền trên đường đi Tây Ninh, kèm hai bên tả hữu cách nhau 400 m là Đồn — hữu và Đồn - tả). Tháng 8/1860,
Nguyễn Đình Cơ - Quá trình xác lập đường biên giới Việt Nam - Campuchia... 41
Nguyễn Tri Phương ngay khi vừa được cử vào Gia Định thay Tôn Thất Hiệp đã tiếp tục huy động dân binh củng cố, hoàn thiện đại đồn Chí Hòa trở thành một công trình phòng thủ kiên cố. Các phòng tuyến này nằm trên con đường Thiên Lý (đường cách mạng Tháng Tám hiện nay - NĐC chú), có chiều dày 3m, chiều cao 2,5m, trên phòng tuyến có nhiều pháo đài được trang bị súng đại bác, ở giữa được bảo vệ bởi một hào lụy chia trại ra làm hai, là đồn Trung được làm bộ chỉ huy và xung quanh đó là kho tiếp tế và nơi ở của các quan và binh lính. Kho thuốc súng được đặt giữa đồn Trung và đồn Tiền. Phía sau về phía Bà Quẹo, hai đồn phía ngoài bảo vệ cho trại: đồn Tiền và Tả - Hậu [Hội nghiên cứụ Đông Dương, Monographic de la province de Gia Định (chuyên khảo về tỉnh Gia Định - 1902), Nguyễn Nghị-Nguyễn Thanh Long dịch, Nxb Trẻ, tr. 154-159].
22. Dương Kinh Quốc (1999), Việt Nam những sự kiện Lịch sử (1858 - 1918), Nxb giáo dục, Hà Nội, tr.35
23. Rạch Cái Bốt và rạch Cái Cạy là 2 nhánh bên phải và bên trái của sông Vàm cỏ Đông.
24. Lê Trung Dũng (2015), Quá trình hình thành đường biên giới đắt liền Việt Nam - Campuchia, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.189.
25. Annuaire general commercial, administrative &
industriel de ITndo-Chine, P-H. Schneider, Imprimeur - éditeur, Paris, p.187. Tạm dịch:
“Biên giới được giữ nguyên như đã vẽ mà không có bất kỳ sự thay đổi nào từ cột mốc số 1 (tại vàm Peam Prien) đến cột mốc số 16 (tại Ta Sang trên bờ rạch Cái c ạy). Vùng đất giữa rạch Cái Bát và rạch Cái Cạy là một phần lãnh thổ của Pháp (th^i nhập hàng năm lên tới khoảng 1.000 franc), sẽ được nhượng cho Campuchia, bù trừ 486 hộ, hợp thành các thôn xóm từ Sóc Trang đến Bang Chrum. Các cột mốc số 17, số 18 và các cột mốc tiếp theo cho đến Hưng Nguyên sẽ bị hủy bỏ; Campuchia sẽ giữ tất cả vùng đất hiện có người Campuchia sinh sống thuộc các tỉnh Prey Veng, Boni Fuol, Sóc Thiết”
(Cao Vãn Nghiệp dịch).
26. Hội nghiên cúù Đông Dương (2017), Monographie de la Province\de Châu Đốc. Nxb Trẻ. Tp Hồ Chí Minh, tr.6. Tham khảo nội dung của hiệp ước bằng tiếng Phấp:
bpt6kl261881M3.item.
https7/gallica.bnf.fr/ark712148/
27. Ban Tư tưởng văn hóa trung ương, Ban Biên giới (Bộ ngoại giao) (2006), Các Văn bản pháp lý về việc giải quyết biên giới Việt Nam - Campuchia. Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.27.
TÀI LIỆUTHAM KHẢO
1. Annuaire general commercial, administrative &
industriel de I’Indo-Chine, P-H. Schneider, Imprimeur - éditeur, Paris.
2. Ban Tư tưởng vàn hóa trung ương, Ban Biên giới (Bộ ngoại giao) (2006), Các Văn bản pháp lý về việc giải quyết biên giới Việt Nam - Campuchia.
Nxb. Thế giới, Hà Nội.
3. Dương Kinh Quốc (1999), Việt Nam những sự kiện Lịch sử (1858 - 1918), Nxb giáo dục, Hà Nội.
4. Đinh Xuân Lâm (cb) (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb giáo dục, Hà Nội.
5. Hội nghiên cứu Đông Dương, Monographic de la province de Gia Định (chuyên khảo về tỉnh Gia Định - 1902), Nguyễn Nghị-Nguyễn Thanh Long dịch, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
6. Hội nghiên cứu Đông Dương (2017), Monographie de la Province de Châu Đốc, Nxb Trẻ. Tp Hồ Chí Minh.
7. Lê Trung Dũng (2015), Quá trình hỉnh thành đường biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Quang Ngọc (cb, 2017), Vùng đất Nam Bộ, tập IV. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.26.
9. Nguyễn Sỹ Tuấn (2010), Báo cáo Tổng quan kết quả nghiên cứư của đề tài: nghiên cứu cơ sở lịch sử, văn hóa, chính trị xã hội và pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia và đề xuất giải pháp ổn định, phát triển vùng biên giới hai nước, Bộ Khoa học Công nghệ, đề tài độc lập cấp nhà nước.
10. Phan Khoang (1969), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, Hà Nội.
11. Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam thời Pháp dô hộ, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.
12. Phan Huy Lê (chủ biên, 2017), Vùng đất Nam Bộ - Qúa trình hình thành và phát triển, tập 1.
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Quốc sử quán nhà Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1. Nxb. giáo dục, Hà Nội.
14. Quốc sử quán nhà Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 2. Nxb. giáo dục, Hà Nội.
15. Quốc sử quán nhà Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 4. Nxb. giáo dục, Hà Nội.
16. Quốc sử quán nhà Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 7. Nxb. giáo dục, Hà Nội.
17. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch. Nxb. Đồng Nai.
18. Vũ Minh Giang (chủ biên, 2018), Lược sử vùng đất Nam Bộ, Nxb. Thê giới, Hà Nội.