• Tidak ada hasil yang ditemukan

chất nghịch dị trong tiểu thuyết “những đứa con rải rác

N/A
N/A
Nguyễn Gia Hào

Academic year: 2023

Membagikan "chất nghịch dị trong tiểu thuyết “những đứa con rải rác"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

H

“NHỮNG ĐỨA CON RẢI RÁC TRÊN ĐƯỜNG”

CỦA HỒ ANH THÁI

VŨ THỊ THANH HOÀI Tóm tắt

“Những đứa con rải rác trên đường” là cuốn tiểu thuyết mới nhất hiện nay của nhà văn Hồ Anh Thái.

Thông qua hệ thống các nhân vật nghịch dị, tình huống nghịch dị và ngôn ngữ nghịch dị, tác giả đã kiến tạo cho riêng mình một phong cách trào phúng độc đáo trong dòng văn học đương đại Việt Nam- với sự trỗi dậy mạnh mẽ của tiếng cười. Ngòi bút Hồ Anh Thái có cảm hứng đặc biệt trước một hiện thực ngổn ngang những cái vô lý, nực cười, suy đồi, quái gở. Bằng thái độ lật tẩy, cái nhìn tỉnh táo, sắc sảo, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái không chỉ đem đến tiếng cười giễu nhại mà còn ẩn chứa những thông điệp có ý nghĩa thức tỉnh con người.

Từ khóa: Chất nghịch dị, tiểu thuyết, Hồ Anh Thái Abstract

“The children scattered on the road” is the latest novel by the writer Ho Anh Thai. Through a system of grotesque characters, grotesque situations and grotesque language, the author has created a unique satirical style for himself in Vietnam contemporary literature - with the strong resurgence of laughter. Ho Anh Thai seems to have special inspiration before a reality with a lot of absurdity, ridicule, decadence, weird. By debunking attitude and sharp-witted look, Ho Anh Thai’s novel not only brings ridiculous laughter but also hides meaningful messages which awake humans.

Keyword: Grotesque, novel, Ho Anh Thai

ồ Anh Thái được đánh giá là một trong những nhà văn chuyên nghiệp nhất hiện nay ở Việt Nam, một nhà văn chuyên nghiệp trong ý thức về nghề và thực hành với nghề. Tác phẩm của anh đã được dịch ra hơn mười thứ tiếng trên thế giới và mỗi khi xuất hiện đều gây được sự chú ý của giới phê bình cũng như công chúng.

Chính vì nỗ lực bứt phá, cách tân không ngừng trong phong cách, văn chương Hồ Anh Thái luôn đem đến cho người đọc sự mới mẻ, thú vị. Gia tài văn nghiệp của Hồ Anh Thái cho đến nay khá đầy đặn với hơn 30 tiểu thuyết, truyện ngắn, chuyên khảo, tiểu luận và chắc chắn sẽ còn tiếp tục tăng lên trong thời gian tới.

Những đứa con rải rác trên đường là cuốn tiểu thuyết mới nhất hiện nay của Hồ Anh Thái. Ra đời năm 2014, tiểu thuyết này, như tác giả tự giới thiệu, có thể coi như một hệ thống kết cấu gồm 3 truyện dài, vừa có liên quan với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập với nhau. Nội dung chính của cuốn sách viết về ông Kễnh, vốn là một anh lính lái xe thời chiến trở thành một anh cán bộ, ông quan chức cấp cao thời bình. Trải qua nhiều năm sóng gió trên đường trường, trôi nổi trong tình trường, luồn lách chốn quan trường, cùng với những biến thiên dữ dội của thời đại, ông Kễnh, trước khi dấn thân vào vòng lao lý, đã quyết định thực hiện một chuyến đi xuyên Việt để tìm lại những

(2)

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

đứa con rơi vãi của mình. Như nhan đề của tác phẩm phần nào hé mở những “uẩn khúc” dan díu trong cuộc đời nhân vật, cuối cùng, khi đến điểm tập kết là Bờ Hồ - Hà Nội, ông đã gom nhặt được hơn 30 đứa con.

Nếu như tác phẩm Báu vật của đời của nhà văn Mạc Ngôn viết về một người phụ nữ nông thôn Trung Quốc có tên là Thượng quan Lỗ Thị mà số phận đau thương thăng trầm của bà gắn với cuộc đời chìm nổi của 9 đứa con riêng, thì người đàn ông - ông Kễnh - trong tiểu thuyết Những đứa con rái rác trên đường của Hồ Anh Thái lại chẳng mảy may hay biết gì về quá trình sinh ra và lớn lên của những đứa con ngoài giá thú. Chịu ảnh hưởng bởi quan niệm“trọng nam khinh nữ” trong xã hội phong kiến, Thượng Quan Lỗ Thị phải cắn răng chịu nhục để quan hệ với những người đàn ông khác nhằm sinh cho nhà chồng một đứa con trai; ông Kễnh thì ngược lại, hoàn toàn buông thả trong quan hệ chốc lát với những người đàn bà trên mỗi chặng dừng chân. Cả cuộc đời Thượng Quan Lỗ Thị là buồn đau nước mắt vì bị hành hạ, khinh rẻ và chịu bao nhọc nhằn tủi hổ để nuôi 9 đứa con, 8 đứa cháu ngoại; ông Kễnh thì chỉ nuôi duy nhất một đứa con chính thức bằng đồng tiền bất chính và sự nuông chiều. Lỗ Thị là một bà mẹ có tấm lòng bao dung, đức hi sinh vô bờ bến, sẵn sàng giang tay đón nhận che chở cho những đứa con thất cơ lỡ vận, những đứa cháu mồ côi;

ông Kễnh lại là một ông bố vô can trước những khổ đau hạnh phúc trong cuộc đời của mấy chục đứa con. Báu vật của đời là một chuỗi những bi kịch liên tiếp xảy ra gắn với những biến động chính trị lớn lao của vùng đất Cao Mật – Trung Quốc rộng lớn; Những đứa con rải rác trên đường lại lột tả những tình huống hài hước, những nghịch cảnh xảy ra trên đất nước ta từ thời bao cấp đến thời của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuy ở hai đất nước khác nhau, có tư tưởng và phong cách khác nhau, nhưng Mạc Ngôn và Hồ Anh Thái đều có điểm tương đồng

ở nghệ thuật miêu tả hiện thực. Họ đã kiến tạo nên một thế giới mà hiện thực ở đó được soi chiếu qua lăng kính nghịch dị.

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về nghịch dị (grotesque). Thuật ngữ này khi được du nhập vào Việt Nam có thể được dịch là cái thô kệch, lố lăng hoặc nghịch dị. Đó là “một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật (hình tượng, phong cách, thể loại) dựa vào huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại, lối kết hợp và tương phản một cách kỳ quặc cái huyễn hoặc với cái thực, cái đẹp với cái xấu, cái bi với cái hài, cái giống như thực với cái biếm họa” (2, tr.215). Nghệ thuật nghịch dị là một kiểu ước lệ đặc thù: nó công nhiên và chú ý trình bày một thế giới dị thường, trái tự nhiên. Kiểu hình tượng nghịch dị vốn có trong thần thoại và trong nghệ thuật cổ sơ của mọi dân tộc, nhưng chỉ trong các sáng tác của một số nhà văn cổ đại ở văn học châu Âu và trong văn học dân gian nó mới trở thành thủ pháp.

Đỉnh cao nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực nghịch dị là tác phẩm Gacganchuya và Pantagruyen của F. Rabelais. Chất nghịch dị được tìm thấy trong nhiều tác phẩm sau đó của các nhà văn nổi tiếng như: M.Cervantes, Victor Hugo, Franz Kafka…Ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, việc xây dựng những hình tượng nghịch dị đã tạo nên ấn tượng về một thế giới lố lăng kệch cỡm hoặc méo mó xệch xạc trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng hay truyện ngắn của Nam Cao. Từ 1986 đến nay, chất nghịch dị hồi sinh mạnh mẽ trong văn xuôi đương đại Việt Nam với những tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái... Nghịch dị đã góp phần thể hiện cái nhìn dân chủ, tư duy hiện đại, đi cùng tiếng cười châm biếm, giễu nhại. Thông qua những hình tượng trái với thông thường, ở dạng thức méo mó, lệch lạc so với thông niệm, hiện thực được khuếch đại, tô đậm, biểu hiện một thái độ tiếp cận đối tượng “suồng sã”, phi thành kính. Những hình tượng nghịch dị ấy vừa đi sâu vào

(3)

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

bản thể con người vừa chạm đến những vấn đề muôn thuở của cuộc sống.

1. Nhân vật nghịch dị

Xu hướng xây dựng những nhân vật nghịch dị thể hiện trong nhiều tiểu thuyết của Hồ Anh Thái: nhân vật nữ doanh nhân thích ăn cốm chuột, ông luật sư thích chơi trò đám ma (SBC là săn bắt chuột); anh chàng họa sỹ Chuối Hột ưa khỏa thân tại gia, bà mẹ cô Mơ Khô mê mải tình trường, nhà văn hóa lớn quen bốc bải và tiểu tiện ngoài đường (Mười lẻ một đêm)… Các nhân vật nghịch dị thường không hiện diện dưới một cái tên đẹp đẽ, cụ thể mà thường gắn với một nghề nghiệp hoặc đặc điểm nào đó.

Tìm được hơn 30 đứa con ngoài giá thú, ông Kễnh hoàn toàn không biết tên gọi thật của chúng, ông ghi theo biệt danh của người mẹ hoặc địa điểm gặp gỡ năm xưa: con giao liên, thằng quân lương, thằng ca sĩ, thằng xích líp, thằng thoát hồn, con biên giới, thằng đá quý, thằng bờ ruộng, con người mẫu… Không có một cái tên cụ thể nên các nhân vật có thể đại diện cho bộ phận người nào đó. Họ vừa quen lại vừa lạ. Những thói hư tật xấu, những lố lăng kệch cỡm, những mánh khóe con buôn…vốn hiện hữu đây đó trong cuộc sống, được soi chiếu dưới lăng kính phóng đại vừa gây cười hài hước vừa có ý nghĩa cảnh tỉnh, răn đe. Mặc dù nhà văn không dành nhiều tâm sức để phác họa diện mạo bên ngoài của họ nhưng người đọc vẫn có những ấn tượng vô cùng sâu sắc về các nhân vật bởi những chi tiết “lật tẩy” có ý nghĩa lột tả hành động, tính cách và suy nghĩ của họ.

Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Những đứa con rải rác trên đường là ông Kễnh. Con đường tiến thân của ông có những ngã rẽ bất ngờ: anh lính bộ binh lại trở thành lính xế, rồi chuyển ngành, được đi học hàm thụ tại chức, đi làm công tác đoàn thanh niên, rồi cứ thế mà lên, rốt cục thành ông Kễnh quyền cao chức trọng. Sự nghiệp lập thân “tay ngang” của ông

Kễnh nghe qua có vẻ khó tin nhưng lại là công thức điển hình mà Hồ Anh Thái đã từng phác họa ở một số nhân vật trong các tiểu thuyết khác: ông giáo sư Khỏa vốn là kỹ sư hóa chất chuyển sang quản lý khoa học xã hội, anh thanh niên hăng hái tham gia múa hát tập thể trở thành ông Víp, anh cán bộ kiểm lâm giỏi diễn thuyết trở thành ông Cốp…Từ ngày anh lính bộ binh mười bảy tuổi vào chiến trường đến khi năm mươi chín tuổi, anh ta đã kịp trở thành ông Kễnh và nếu“tập hợp được toàn bộ lũ con một lần thôi, ít ra cũng được một đại đội. Trăm đứa chứ không ít. Rải rác từ Nam ra Bắc, trên từng cây số, từng lối ngoặt, từng chỗ rẽ…”(7, tr.308).

Ông đã sản sinh ra những đứa con mà đứa đầu tiên nếu trời cho đậu thì đến nay cũng bốn mươi hai tuổi, đứa gần nhất cũng hơn bốn tuổi. Ông Kễnh rất tự hào về “sở trường” của mình. Ngòi bút hài hước của Hồ Anh Thái có phần chi tiết khi cực tả, phóng đại đặc điểm này ở ông Kễnh.

Nhà văn hé mở quá khứ của ông Kễnh gắn liền với niềm ham thích vô độ, bản năng của ông ta:

“Thời còn là anh lính xế non choẹt thì chỉ toàn thao tác với những nàng buôn chuyến những gái công trường, tóm lại là thuộc diện bố cu mẹ đĩ đồng chua nước mặn. Rồi chuyển ngành rồi thăng tiến thì đối tượng của nó cũng cao dần lên thơm dần ra. Nó đã nhằm tới những nữ viện sĩ những nữ doanh nhân những nghệ sĩ những người mẫu”.

Thói quen nhục dục vô độ của ông Kễnh cùng với đặc điểm bộ phận sinh dục khác thường đó đã “di truyền” sang cậu con trai quý tử: “Chỉ mới ba năm học phổ thông, nó đã ngủ với hơn chục đứa con gái, bị gia đình chúng phàn nàn khiếu nại đe dọa, kèm thêm năm đứa phải nạo thai, bị gia đình chúng bắt đền bắt bồi” (7, tr.52). Ông Kễnh thừa biết lối sống thác loạn của con trai ông ta có nguyên nhân do đâu. Cha nào con ấy, cậu quý tử du học nước ngoài nhưng “học ít chơi nhiều, gái gú bài bạc nhậu nhẹt”, đến lúc bị đuổi học, sắp

(4)

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

trục xuất về nước thì tìm cách ở lại, thậm chí sẵn sàng cặp với một cô tóc xanh mắt vàng để được cấp thẻ công dân. Vừa về đến Hà Nội, anh ta lại tiếp tục lối sống thác loạn buông thả như cuộc sống tự do ở nước ngoài. Đã hồi hương nhưng cậu con vẫn viết thư nói dối bố mẹ để xin tiền. Bố còn sống nhưng nghịch tử sẵn sàng bịa ra rằng bố đã chết. Hồ Anh Thái dường như có cảm hứng phê phán mãnh liệt trước lối sống bừa bãi, ham muốn xác thịt vô độ đang diễn ra ở một bộ phận cư dân thành thị. Vì vậy, kiểu người sống thác loạn như con trai quý tử, như ông Kễnh không ít: nhân vật Cốc, Đông, Phũ, Yên Thanh trong Cõi người rung chuông tận thế, bà mẹ cô Mơ Khô, ông Khỏa trong Mười lẻ một đêm, Giáo Sư, Đại Gia trong SBC là săn bắt chuột. Nếu hình tượng thân xác trong tác phẩm Gacganchuya và Pantagruyen của F. Rabelais có ý nghĩa tích cực, ý nghĩa khẳng định, tượng trưng cho ý niệm tăng trưởng, phồn thịnh và sung mãn của một thân thể chủng loại - mang tính toàn dân và phổ quát, thì trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, sự khuếch đại bộ phận sinh dục và nhu cầu sinh lí quá độ ở đây thể hiện một lối sống suy đồi, sa ngã, trụy lạc ở một bộ phận cư dân thành thị đương thời.

Trong Báu vật của đời, nhà văn Mạc Ngôn xây dựng hình tượng Kim Đồng hết sức khác thường, nghịch dị bởi anh ta lớn lên không bằng cách ăn uống như những người bình thường mà anh chỉ có một sở thích và đam mê duy nhất là được ngậm bầu vú của mẹ, của những người đàn bà sẵn sàng cho anh.

Kim Đồng dị ứng với tất cả các thức ăn khác ngoài dòng sữa ngọt lành được chắt chiu từ tình yêu thương và đức hi sinh của người mẹ.

Anh trân trọng những dòng sữa đó cũng như thương xót cho những nỗi nhọc nhằn khốn khổ mà mẹ anh phải chịu đựng. Bầu vú trở thành biểu tượng cho cái đẹp, sự tinh khiết, suối nguồn trong trẻo, thiên chức sinh thành và nuôi dưỡng vĩ đại của người mẹ. Nhân vật

Kim Đồng mãi mãi là một cậu bé- người lớn đáng yêu và đáng thương. Còn tay đội trưởng trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái thì vô cùng quái đản. Anh ta đến với cô xuất khẩu nhưng không ngủ với cô mà thèm bú sữa của cô, bú tranh phần của con cô. Cái mồm cá ngão của anh ta vều ra“đớp lấy bầu vú cô bú chồm chộp”,

“bú xong tồng tộc như lợn sục cám thì gã nằm đờ ra, mép gã còn dây sữa’ (7, tr.405). Mỗi lần như thế gã cũng coi như một lần ngủ, và khi cô xuất khẩu không còn sữa nữa thì gã cũng hết thèm muốn, gã bỏ cô luôn. Chiểu theo thói tật bệnh hoạn đó, mấy chục năm sau gặp lại, anh con trai cô xuất khẩu đã cho ông đội trưởng chỉ được uống sữa bò bỏ thuốc mê mà ngủ li bì, lê lết năm ngày năm đêm.

Hồ Anh Thái tuy phác họa sơ sài nhưng đã dựng nên khá ấn tượng nhiều chân dung khác thường độc đáo. Đặc điểm chung của các nhân vật này là sự khác thường của họ không phải do bản thân họ muốn mà là do hoàn cảnh.

Nhân vật anh trăn là một điển hình. Anh ta vốn là con của cô xuất khẩu, bị gã đội trưởng bú tranh phần, đứa trẻ chỉ biết ngủ li bì cho quên đi thực tại nay vẫn quán tính ấy, cứ làm việc gì xong là lăn ra ngủ, như sinh ra trên đời chỉ để ngủ. Hình ảnh quái dị về anh là“một gã trai dài thườn thượt và co quăm quắp. Dài nhưng mà nằm co. Gần như khoanh tròn lại mà nằm ngủ.

Như một con trăn nằm ngủ. Khoanh rất tròn và ngủ rất yên”, “ngủ như một con ma ngủ”, “ngủ đúng kiểu không còn hồn phách gì trong cái thân xác ấy nữa” (7, tr.412). Kiểu ngủ say như chết ấy đã gây ra nhiều tai vạ thời anh ta còn đi lính. Anh trăn còn có một khả năng khác người là có thể nôn ọe bất cứ lúc nào, “anh chỉ cần hất hàm nấc lên một cái là nôn thốc nôn tháo”.

Nhân vật cô sợi phíp thì xuất hiện rất lạ lùng.

Để kiếm tiền nuôi thân và một người chồng tàn phế trong thời buổi ngăn sông cấm chợ, cô sợi phíp phải mang đống xích líp xe đạp trên người: “khắp người cô toàn là sắt, nó không kêu lách cách lục cục như hai cái túi cô bỏ phía sau thùng xe, nó lạnh tanh nhưng bây giờ cứ

(5)

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

thử lấy gậy quật vào người cô mà xem. Sẽ như đánh vào cái áo giáp sắt”(7, tr.232). Vì giấu hàng hóa trong người nên hình dáng cô thật lạ lẫm:“Ngay bên dưới khuôn ngực, cô quấn mấy cái xích xe đạp, quấn tròn quanh người, vẫn còn trừ lại phần bụng để có thể gập người khi đứng ngồi đi lại. Bắt đầu từ cái gấu quần xilip, cô lại quấn đầy xích xe đạp cho xuống đến tận đầu gối. Thảo nào mà trong cái ống quần sợi phíp lùng nhùng vẫn thấy hằn lên hai bắp đùi như hai cái cột đình. Đang ngon đang lành, tưởng là trơn lông mượt da, nào ngờ toàn sắt thép lách ca lách cách”(7, tr.232). Cô xuất khẩu cũng xuất hiện với diện mạo tức cười:“Cô đang mặc trên người ba cái áo phông Lào, ba cái áo bò Thái.

Bên dưới thì chỉ được hai cái quần bò. Cô bảo định mặc ba cái nhưng nhồi mãi chưa được” (7, tr.246). Ra nước ngoài, số quần áo trên người cô sẽ trở thành tủ lạnh, phích đá, nồi áp suất, bàn là…một gia sản cả nhà cô suốt đời mơ không thấy. Cho nên, kế hoạch mang theo của cô sẽ là: năm cái áo phông bên trong, năm cái áo bò khoác ngoài, một cặp kính râm giọt lệ đeo trên mắt, hai cặp kính nữa giắt vào túi áo ngực bên trong, ba cái quần bò…Những chân dung khác người, quái lạ này một mặt đã khắc họa nỗi khốn khổ vì mưu sinh của người lao động trong những tháng năm đầy khó khăn của đất nước, mặt khác cũng mang lại tiếng cười hài hước.

Tóm lại, khuếch đại là yếu tố căn bản của thủ pháp nghịch dị và những nhân vật được xây dựng theo bút pháp này của tác giả về cơ bản nhằm phê phán sự lệch lạc, suy đồi, mất chuẩn mực đang có nguy cơ trở thành lối sống khá phổ biến. Mặt khác, đó còn là tiếng cười hài hước, tiếng cười chia tay vĩnh viễn với những gì bảo thủ, lạc hậu, tiêu cực đã từng xảy ra suốt một thời bao cấp đã qua.

2. Tình huống nghịch dị

Hạt nhân của tình huống nghịch dị là các mâu thuẫn. Đó là những mâu thuẫn đầy tính chất nghịch lý, oái oăm, khác thường, trớ

trêu, hài hước. Nhân vật được đặt vào các tình huống để“sinh sự”với nhau, thúc đẩy tiến trình phát triển của cốt truyện, bộc lộ bản chất của chúng và thể hiện thái độ, tư tưởng của tác giả.

Tình huống mở màn của tiểu thuyết Những đứa con rải rác trên đường là cậu con trai quý tử của ông Kễnh đứng trước khả năng bị đuổi học, phải đi gặp thầy hiệu trưởng. Trên đường đến văn phòng của thầy, anh ta vào nhà vệ sinh, nhờ thế tình cờ phát hiện ra một âm mưu nổ súng khủng bố tinh thần trong trường đại học.

Anh ta vốn là một công tử nhà giàu, đi du học là để thoải mái cờ bạc, gái gú, ăn chơi thác loạn.

Trong lúc ngồi ở đó, anh ta lại vô cùng thích thú khi đọc được cả một kho kiến thức viết trên tường, từ triết lý bình dân, giai thoại kinh viện, cho đến ngụ ngôn. “Ngồi ở một chỗ không mùi không vị, khung cảnh rất phù hợp cho trầm tư suy ngẫm, không khác gì ngồi cabin trong các thư viện của trường hơn một triệu cuốn sách ngoài kia” (7, tr.18).

Tình huống nghịch dị thứ hai là chuyến xuất ngoại bất ngờ của anh họa sỹ. Chuyến đi châu Âu mười tám năm của anh “thực ra bắt đầu bằng một đêm ngủ với gái trên bãi biển Vũng Tàu”. Nửa đêm về sáng trên ghềnh đá, anh gặp một nhóm người đang lúi húi khuân vác đồ đạc lên một con tàu nhỏ, chuyện trò một lát họ túm lấy anh, lôi xềnh xệch lên tàu ra khơi và đến một đất nước hoàn toàn xa lạ.

“Một cú đi ra sau ghềnh đá mà đi tuốt một mạch mười tám năm đến giờ” (7, tr.78). Cuộc sống tha hương khốn khổ của anh họa sĩ cũng bắt đầu từ đó. Những tưởng lấy được một cô vợ nước ngoài là hết đời lang bạt, ngược lại, anh phải làm đủ thứ việc vặt vãnh để còng lưng nuôi một cô vợ lười và một đàn con gái.

Tình huống làm nên cuộc tình li kì của anh xe và cô đơn ca là một tình huống quái gở. Cô đơn ca yêu đơn phương anh xe kém mình chín tuổi, để thuyết phục, cô liền đến phòng anh, mang theo một quả lựu đạn, giật chốt kíp nổ

(6)

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

ném ra ngoài. Trước cái chết gang tấc, anh xe không dại từ chối lời tỏ tình. Éo le là họ không tìm thấy được cái chốt. Phải đem tiêu hủy quả lựu đạn, họ cùng dắt tay nhau như tình nhân

“vừa mới từ một khu nhà hạnh phúc của đơn vị nào đó đi ra dạo phố”. “Tay phải cô đơn ca vẫn đút trong túi quần bộ đội. Cái tay ấy đang bấm vào chỗ quả lựu đạn mất chốt”. Nhìn họ nắm chặt tay nhau đi trên phố, đờ người vì sợ hãi, không ai nghĩ đôi trai gái kia đang đi cùng thần chết. Qua khu chợ vải, qua quảng trường, cuối cùng họ quyết định ra bờ sông. Cô đơn ca vung tay ném quả lựu đạn và họ cùng nằm dán chặt xuống mặt đất chờ đợi một tiếng nổ.

Khoảnh khắc chờ đợi thót tim đó dâng lên trong máu họ sự hoang mang hồi hộp, nhưng không có một tiếng nổ đáng sợ nào, cho đến mãi mấy chục năm sau. Kiểu tỏ tình khác thường và quyết liệt của cô đơn ca diễn ra đúng như tính cách của cô trước đó cũng như sự tự trừng phạt khắc nghiệt của cô sau này:

khi quả lựu đạn năm xưa phát nổ cướp đi sinh mạng của hai em học sinh giỏi, cô đã tự kết liễu cuộc đời bằng một viên đạn vào thái dương mình.

Tình huống tiếp theo liên quan đến cái chết của bà Cốp. Biến cố này làm xoay chuyển vị trí mối quan hệ giữa các nhân vật. Ông Cốp vốn coi cô đá quý như con cháu trong nhà, nay bà Cốp vừa mới chết, lập tức ông tỏ tình với cô. Giữa ông và cô đã ngấm ngầm diễn ra một giao ước tình cảm mà con cái ông Cốp không thể ngờ. Tình huống sau khi “hai chú cháu ôm nhau khóc như hôm hai chú cháu đã ôm nhau khóc bên giường bệnh bà Cốp” đã nâng lên một nấc thang mới trong cuộc đời cô đá quý.

Cô gái lỡ thì 32 tuổi từ thân phận của một thư ký, một người giúp việc tận tụy trở thành phu nhân của ông Cốp. Cách xưng hô của họ cũng dễ dàng thay đổi, từ chú - cháu kính trọng sang anh - em dịu dàng. Mối quan hệ giữa con cái của ông Cốp với cô đá quý cũng xoay chiều chóng mặt, từ yêu mến, tỏ tình sang căm giận,

thù địch. Cô đá quý vốn là bạn cùng lớp với anh công đoàn, từng có lúc hoạn nạn giúp nhau, giờ thành bồ bịch trai gái vụng trộm. Những chuẩn mực đạo đức thông thường trong các mối quan hệ giữa chồng - vợ, cha - con, nam - nữ, bạn bè, đồng nghiệp…ở đây đã bị đảo lộn, lệch lạc, suy thoái.

3. Ngôn ngữ nghịch dị

Để diễn tả sự lố bịch, quái đản, Hồ Anh Thái sử dụng một ngôn ngữ pha trộn giữa ngôn ngữ văn chương với ngôn ngữ hàng ngày tạo nên ấn tượng về một thế giới bất ổn, lộn xộn và vô lý.

Trước hết là ngôn ngữ thị dân hiện đại với những khẩu ngữ, từ ngữ thô tục xuất hiện dày đặc trong tác phẩm mang hơi thở của cuộc sống đời thường xô bồ, hỗn tạp: “đừng có mơ”,

“còn gì là người, còn gì là đời”, “hơi bị sẵn, hơi bị ế hàng”, “có mà điên”, “điên cả người”, “có mà lạ”, “coi như về mo”, “ăn chơi thì phải tốn kém”,

“chẳng là cái đinh gì”, “nát một đời hoa, chột ba đời chuối”…Thành ngữ mới, chế thành ngữ, tục ngữ là một cách nhà văn bày tỏ kín đáo thái độ của mình:“bán mặt cho nước, bán lưng cho trời”, “giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội”, “dốt chuyên tu, ngu tại chức”…Thơ chế hòa quyện với lời ăn tiếng nói hàng ngày:“Con gì ăn lắm nói nhiều, mau già lâu chết miệng kêu tiền tiền”, “, “đường vô xứ ấy quanh quanh, non xanh nước biếc như tranh họa đồ, ai vô xứ ấy thì vô, riêng tôi cứ ở thủ đô đàng hoàng”,

“không có việc gì khó, chỉ sợ đầu ta nhỏ”; “lũ chúng ta ngủ trên giường chiếu hẹp, cái gối con đè nát cái đầu con”…Âm nhạc cũng trở thành phản cảm, méo mó: “và mùa xuân hiếp em hiếp em, và chờ anh giết em giết em”. Cách trình bày ca khúc thì đơn điệu, nhàm chán:“Hỡi cô gái Trường Sơn, bao đêm em đi mở đường, cho từng chuyến xe anh qua, vang giọng hát em bay xa. Bè nam vung tay mà hát. Bè nữ tựa vào nhau đung đưa như cây rừng mà hát…Bà múa mặc bộ quần áo thanh niên xung phong.

(7)

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

Ông kia mặc trang phục chiến sĩ lái xe. Họ ở hai bên sân khấu như hai đầu xa thẳm” (7, tr.388).

Bên cạnh đó, sự phức hợp của các hệ lời tạo nên giọng đa thanh, giễu cợt: “Người đi xa có nhớ là nhớ ai người trông cánh chim trời, sao chẳng thấy em. Đang ngồi đây, em ở bên cạnh đây, sao lại nhớ người đi xa. Xin anh hãy về mấy ngỏ ý với mẹ cha, đến mùa lúa chín đón em về cho thỏa nỗi nhớ mong. Thỏa rồi, bây giờ thì đã thỏa, không còn ước mong gì hơn nữa” (7, tr.276). Ở một đoạn khác, lời của tác giả và lời của nhân vật tiếp tục được viết tràn dòng: “Nhà văn phải giải thích cho hai thanh

Tóm lại, thông qua hệ thống nhân vật nghịch dị, tình huống nghịch dị và ngôn ngữ nghịch dị, nhà văn Hồ Anh Thái đã thiết lập một phong cách trào phúng độc đáo nhằm vào mảng hiện thực chứa chất những cái vô lý, nực cười, quái lạ. Bằng thái độ lật tẩy, cái nhìn tỉnh táo, sắc sảo, những trang viết của Hồ Anh Thái không chỉ đem đến tiếng cười giễu nhại mà còn ẩn chứa những thông điệp có ý nghĩa thức tỉnh con người.

V.T.T.H (Ths, Khoa LLCT & KHCB, Trường ĐHVHHN)

niên rằng răng rện thực ra là phát âm của giăng giện, hay là giăng nhện, con nhện chăng tơ để bắt mồi như giai giăng bẫy bắt gái. Giăng giện là một từ khá là cổ, khá là địa phương của xứ Bắc. Nhưng phát âm theo kiểu ông Rinh thì phải là răng rện. Phải là rrrăng rrrện nhé. Nào uốn cái lưỡi lên, các vị phát âm như thế không ra giọng Hà Nội” (7, tr.106). Tần suất những từ láy dày đặc trong tác phẩm nhằm cực tả những cảnh oái oăm, lố bịch: “Mấy tiếng cười ré lên. Mấy tiếng cười khành khạch. Ré lên là mấy bà già. Khành khạch là mấy ông già. Tiếng vợt cầu lông quật vùn vụt. Tiếng nhảy nhót giậm chân lạch bạch. Tiếng đếm thể dục một hai ba bốn, hai hai ba bốn. Tiếng đối đáp tán tỉnh ỡm ờ”(7, tr.124). Trang phục của họ cũng rất tức cười:“Bên góc sân là một nhóm chục bà tay cầm quạt, mặc đồng phục bà ba xa tanh bóng lộn đủ mấy màu quang phổ, đỏ da cam vàng lục lam chàm tím. Quạt cũng là loại quạt tàu lòe loẹt choe choét. Đang múa may một thứ chẳng biết là thể dục hay vĩnh xuân hay thái cực, một thứ thể dục thời thượng phe phẩy phò phạch gì đó” (7, tr.124). Các ông bà già cỡ trên dưới bảy mươi nhưng lời nói, hành động của họ có phần mất chuẩn mực. Hết mở nhạc, tập thể dục thì họ chuyển sang tán tỉnh nhau, các bà già “cười khúc khích như gái tơ”,

“cười đúng kiểu thiếu nữ bị chọc ngón tay vào bụng vào nách”…

Tài liệu tham khảo

1. Henri Benac (2008), Dẫn giải ý tưởng văn chương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

3. M. M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hoá dân gian Trung cổ và Phục hưng, (Từ Thị Loan dịch), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Hồ Anh Thái (tái bản 2013), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb.Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Hồ Anh Thái (tái bản 2013), Mười lẻ một đêm, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

6. Hồ Anh Thái (2011), SBC là săn bắt chuột, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

7. Hồ Anh Thái (2011), Những đứa con rải rác trên đường, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

Ngày nhận bài: 5 - 8 - 2015

Ngày phản biện, đánh giá: 11 - 6 - 2016 Ngày chấp nhận đăng: 28 - 6 - 2016

(8)

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT

Referensi

Dokumen terkait

Triết học Mác- Lênin đã cung cấp cho con người hệ thống những khái niệm, nguyên lí, cặp phạm trù, quy luật: vật chất, ý thức, mối quan hệ vật chất - ý thức; nguyên lí về sự phát triển;