• Tidak ada hasil yang ditemukan

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT yiỆT NAM

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT yiỆT NAM"

Copied!
13
0
0

Teks penuh

(1)

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT yiỆT NAM:

TÌM KIẾM Sự TƯƠNG TÁC HÀI HOÀ LAN NHAU CỦA CÁ NHÂN VÀ NHÀ NƯỚC

VÕ KHÁNH VINH0

Tóm tắt: Môĩ quan hệ của cá nhân và nhà nước là mối quan hệ cơ bản, cốt lõi trong cắc quan hệ xã hội. Chiến lược phát triển đất nước nói chung, chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam nói riêng, cần phải và có nhiệm vụ giải quyết môi quan hệ đó. Hiện nay Đảng và Nhà nước đã đưa ra chủ trương và đang tiến hành xây dựng chiến lược pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước là biểu hiện, nội dung quan trọng trong môĩ quan hệ của cá nhân và nhà nước. Bài viết này góp phần xây dựng chiến lược đó bằng việc luận giải: chiến lược phát triển pháp luật là phương thức giải quyết, tìm kiêm sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; nền tảng của sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; các nguyên tắc xác định sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; các lĩnh vực pháp luật thể hiện sựtương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; vai trò của tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật và khoa học pháp lý trong chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam; và giá trị của những hiểu biết đó đổi với xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam hiện nay.

Từ khoá: Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam; sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước; tuyên truyền phố biến, giáo dục; đào tạo pháp luật; khoa học pháp lý.

Abstract: The relationship between the individual and the state is a core social relation. National development strategy in general, and the strategy for legal development in particular, need to resolve this relationship. Until now, the Communist Party and State are working to develop a legal strategy for Vietnam in 2030, with a vision to 2045. The harmonious connection between individuals and the state is an important content in the relationship between the individual and the state. This article contributes to the development of such strategy by discussing these following issues: (i) the strategy for legal development is a method of solving and seeking for harmonious connection between individuals and the state; (ii) the foundation of the harmonious connection between the individual and the state; (iv) principles that define the harmonious connection between the individual and the state; (v) areas of law studies that represent the harmonious connection between the individual and the state; (vi) the role of public and professional legal education programs in Vietnam's strategy for legal development; and (vii) the value of such insights for the formulation and

'mplementation of the current strategy for legal development.

Keywords: Strategy for legal development in Vietnam; the harmonious interplay of the individual and the state; propaganda, popularization, education; legal training; legal science.

Ngày nhận bài: 27/5/2021; Ngày sửa bài: 15/6/2021; Ngày duyệt đăng bài: 25/7/2021.

(Tiếp 08(99)/2021)

3. Các nguyên tắc xác định sự ương tác hài hoà lẫn nhau của cá

hân và Nhà nước trong chiến lược hát triển pháp luật Việt Nam

Để bảo đảm sự hài hoà giữa cá nhân và

Nhà nưốc trong chiến lược phát triển pháp luậtViệt Nam thì việc xác định sựtươngtác lẫn nhau của cá nhân và Nhà nước cần

n GS.TS., Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam;

Email: [email protected]

só 9-2021 NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI □

(2)

CHIẾN LƯỢC PHÁTTRIÊN PHÁP LUẬT VIỆT NAM:TÌM KIÊM...

phải dựa vào các nguyên tắc nhất định.

Đó là:

Thứ nhất, bảo đảmcác tự do cá nhân các tự do chính trị của nhân.

Chiến lược phát triển pháp luật có tính cấp thiết và quan trọng trong một khoảng thời gian dài đốì với Việt Nam. Ớ đây có thể mạnh dạn nhớ đến các tư tưởng của Mongtexkio về cân bằng và phân chia các nhánh quyền lực và chức năng phục vụ của chúng, nơi mà điềucơ bảnlà bảo đảm tự do cá nhân và tự do chính trị. Sự cân bằng các quyền lực, sự cân bằng có thể được tuân thủ hoặc bị vi phạm, không có mục tiêu tự thân hoặc là nhiệm vụ chiến lược. Chiến lược đầu tiên chính là giành cho và bảo hộ, bảovệ tự do cá nhân và tự do chính trị một cách tự nhiên, đương nhiên trong tổng thể cân bằng các quyền và các nghĩa vụ của con người và công dân. Định hưống chiến lược đó là định hướng cơ bản trong nhận thức hiến định của Nhà nước. Nếu như định hưóng đó được khẳng định thì có thể khẳng định về sự hiện diện của nhà nưốc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về tính hiến định, tính ràng buộc của nó và sự hạn chếquyền lực bằng hệ thông các đạo luật đê bảo đảm sự phồn vinh, hạnh phúc, an ninh của con người và của nhà nưóc.

Chính định hướng đó đem đến cho xã hội vectơ phát triển xã hội và nhà nước, thúc đẩy sự chuyền động xã hội và nhà nưốc đến trạng thái pháp quyền.

Việc thực hiện các quyền và tự do của cá nhân đòi hỏi phải có sự vận hành của các cơ chế pháp lý bảo đảm cho quá trình đó. Đến lượt mình, các cơ chê pháp lý cần phải được luận chứng và phù hợp vối khả năng hiện thực trong áp dụng pháp luật:

vói các yếu tô kinhtế, xã hội, đạo đức, văn hoá và các yếu tố khác. Không cân nhắc

các yếu tố đó thì khó mà xác định được sự vận hành hiệu quả các cơ chế pháp lý để bảo đảm việc thựchiện các quyền và tự do của cá nhân. Ý chí của nhà làm luật đồng hành cùng với các điêu kiện thể hiện nó, hơn nữa, cácyếu tố thực hiện các quyền và các tự do có thể “phong toả”, cản trở việc đưa ý chí đó vào hiện thực. Dự định xây dựng luật, và chính tư tưởng làm luật không tồn tại ở bên ngoài sự cân nhắc các hiện thực xã hội. Chẳnghạn, nhiều quyền và tự do của công dân Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật vẫn ỏ trên văn bản quy phạm pháp luật, bởi vì, vẫn chưa có các điều kiện tương ứng để thực hiện, tức là các thủ tục, các cơ chế, các bảo đảm để thực hiện chúng. Trên thực tế, xuất hiện các tình huống, pháp luật thì có, nhưng lợi ích, phúc lợi thì không có, đạo luật thì có hiệu lực nhưng các mục tiêu của nó thì không đạt được.

Giữa lýluận và thực tiễn quyền con người, quyền công dân có một khoảng cách, một sự tách biệt không thể chấp nhận được.

Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hưống đến năm 2045 có nhiệm vụ khắc phục hạn chê đó.

Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam việc thực hiện các quyền và tự do của cá nhân cần phải được đặt ra trong sự thống nhất với các nghĩa vụ của Nhà nước. Điều đó có nghĩa rằng, củng cố, thực hiện các quyền, tự do cá nhân và các quyền, tự do chính trị của cá nhân phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Nhà nước.

Nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay của Nhà nưốc ta là bảo vệ trẻ em, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người chưa thành niên.

Bảo vệ các quyền và tự do của những ngưdi chưa thành niên là định hướng

Q

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 9-2021

(3)

quan trọng nhất của chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ó đây, đòi hỏi phải ban hành nhiều đạo luật rất quan trọng, trước hết, là các đạoluật bảo đảm sự bất khả xâm phạm cá nhân trẻ em. Nhưng vấn đề không phải là về số lượng các đạo luật (các đạo luật đã được ban hành rất nhiều), mà là thể hiện ở sự điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ cấp thiết với sự trợ giúp của cácquy phạm pháp luật có trong các đạo luật đó, các quan hệ không thể được bảo đảm ở bên ngoài sựtác động pháp lý.

Thứ hai, khẳng định trong xã hội tinh thẩn chủ nghĩa hiến định, sự tôn trọng pháp luật, sự thượng tônpháp luật.

Đó là các quá trình và các quan hệ xã hội không tách rời mà gắn liền chặt chẽ vối hiện thực. Và điều đó được hình thành bằng hàng chục thập kỷ và hàng thế kỷ.

Pháp luật dưối hình thức đạo luật cần phải và có thể có biểu tượng giá trị xã hội gắn liền với việc bảo đảm an ninh, tự do.

Ớ nghĩa đó, trước hết, cần phải khắc phục lối suy nghĩ đã hằn sâu trong ý thức của phần lốn mọi người rằng, pháp luật chỉ gắn liền với sự hạnchế, cưỡng chêvà hình phạt. Cần phải thay đổi hình ảnh pháp ỉluật chỉ vói tư cách là cái thực hiệnvai trò

(đe doạ, cưỡng chế mà về mặt xã hội đã trở thành thói quen, thành pháp luật vối tư

?ách là cái thực hiện vai trò xã hội tiện lợi

’ rà xác đáng, thành thói quen. Vôi tư cách lỊà hình thức cao nhất của xây dựng pháp l|uật, Hiến pháp là mô hình pháp luật được khách quan hoá trong ý thức của cac cá nhân. Nếu như trong ý thức pháp luật diễn ra sự thay đổi mô hình đó bằng bộ máy sức mạnh, ý chí của một nhóm người nào đó và bằng các điều khác, thì luc đó có thể nói về vấn đề của chủ nghĩa coi thường pháp luật (hư vô pháp luật)

và các biến dạng khác của nhận thức pháp luật cả trong ý thức pháp luật thông thường lẫn trong ý thức pháp luật nghề nghiệp. Phương thức lối sông của pháp luật được thể hiện trong Hiến pháp vói tư cách là cái tổng thể - lý tưởng. Bởi vì, các quy phạm hiến định ở đỉnh cao của thứ bậc các quy phạm pháp luật; do đó, thái độ đối với Hiến pháp đặc trưng cho thái độ đối với hệ thống pháp luật nói chung.

Tôn trọng pháp luật, bảo đảm sự thượng tôn pháp luật và khẳng định tinh thần của chủ nghĩa hiến định chỉ có thể thông qua công lý, công bằng và trật tự, thông qua sự hình thành thái độ tích cực và sự tin tưởng của công dân đối với quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật, đối với những người đại diện của các quá trình đó. Sự khẳng định trong xã hội chủ nghĩa hiến định vởi tư cách là một giá trị gắn liền với uy quyền của pháp luật công bằng, đạo đức cần phải được thể hiện về mặt thực tế.

Pháp luật là cần thiết, tất yếu, đối với con người, nếu như nó bảo vệ hàng ngày các quyền của con người và có hiệu quả.

Nhưng để làm được điều đó nhà làm luật cần phải tiếp cận đến tất cả các mặt của hiện thực pháp luật. Ý nghĩa giá trị của chủ nghĩa hiến định thể hiện cả ở sự luận chứng mang tính quan điểm thốhg nhất được lập luận về mặt khoa học đối vối xây dựngpháp luật và áp dụng pháp luật. Các quá trìnhhiện đại hoá và đổi mới sáng tạo cóthể có được sự bảo đảm hiệu quả về mặt pháp luật và sự đồng hành trong thực hiện nguyên tắc mang tính quan niệm.

Quan niệm trong lĩnh vực pháp luật dựa vào nền kinh tế, các khả năng của nền kinh tế, vào ý chí chính trị và được sản xuất bởi ý chí chính trị. Cần phải biết sử NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI □

SỐ 9-2021

(4)

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VIỆT NAM: TÌMKIÊM...

dụng các khả năng của pháp luật cho các quá trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá và đổi mới sáng tạo. Như vậy, sự tôn trọng đối với pháp luật, sự thượng tôn pháp luật được hình thành thông qua các quyết định và hành động được luận chứng và thực hiện mang tính chiến lược, có tính nghề nghiệpvà ý nghĩa pháp lý.

Thứ ba, xác định vai trò và vị trí của pháp luật trong mối liên hệ với sự hình thành nhà nước pháp quyền xã hội, xã hội pháp quyền ởViệt Nam.

Pháp luật được thể hiện với tư cách là các văn bản quy phạm pháp luật (luật pháp) không thề là cần thiết, ít cần thiết, rấtcần thiết. Vấn đề vềcác ưu tiên, thông thường, được đặt ra trong thực tiễn xây dựng pháp luật. Do đó, tính ưu tiên trong phát triển các văn bản pháp luật (ngành pháp luật), đương nhiên có quyền tồn tại.

Đồng thời, chúng tôi cho rằng, sự quan tâm quá lớn đến những vấn đề hiệu quả xây dựng pháp luật trong những lĩnh vực nhất định và sự thiếu sự quan tâm hoàn toàn đến hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật trongcác lĩnh vực khác với tư cách là đạo luật là không đúng. Tất nhiên, cần quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực xã hội, trong đó có dịch vụ xã hội do nhà nưóc hỗ trợ, mà ở đó có khái niệm “dịch vụ tốt” được các nhà khai hoá văn minh biết đến, nhưng đối vối người công dân đó vẫn là hiện tượng ít được hiểu biết trong cuộc sống của họ. Ớ đây cần lưu ý rằng, thực tiễn về các mối quan hệ lẫn nhau của con người và nhà nước Việt Nam trước đây và hiện nay có đặc thù của mình mà ở đó

“dịch vụ” được thể hiện. Nhà nước ở ý nghĩa yêu nưốc (ái quốc) - đó là liên minh bảo vệ, củng cố sự đoàn kết, sự thôngnhất dân tộc, sự tôn trọng lịch sử và hiện tại.

Vai trò nhà nưốc ở đây là ổn định và là tư tưởng là hiện thực của sự thống nhất về mặt nhà nước, điều đó là cần thiết đối với cả nhà nước và cánhân.

Vai trò của nhà nước với tư cách là tổ chức có nhiệm vụ củng cô nền tảngxã hội, sự ủng hộ xã hội và bảo vệ các công dân của mình là rất to lốn, quan trọng. Trong trường hợp này, trước hết, đó là vai trò của cơ quan quyền lực, cưỡng chế, tổ chức thựchiện các quyết định đối vớitất cả mọi người. Nhà nưởc là công cụ. Ớ nghĩa này, chúng tôi muôn nói đến chức năng xã hội của nhà nước, nhưng sứ mệnh định hướng về mặt xã hội của điều chỉnh nhà nưốc không chỉ thể hiện ở sự hiện diệncủa chức năng đó. Chính đây pháp luật ở nghĩa rộng lớn của nó thê hiện một cách tổng thê bản chất quyphạm, tư tưởng của các quan hệ giữacon người và nhà nước, với tư cách là pháp luật hiện hành, là quá trình xây dựng pháp luật, là quá trình áp dụng pháp luật, là học thuyết pháp luật. Ớ đây các đặc điểm pháp luật quan trọng nhất của quan hệ đó là pháp luật khôngchỉ đơn giản hướng đến việc bảo đảmcác điều kiện cho sự hiện diện của nó mà còn đến sự tái sản xuất “mở rộng” chức năng xã hội của nhà nước. Vấnđề là rất rõ ràng. Tất nhiên đôi với quá trình hình thành nhà nước xã hội thì cách tiếp cận đóvẫn chưa đủ. Pháp luật xã hội hay pháp luật tronglĩnh vực xã hội phải được giám sát, theo dõi. Ó đây không chỉ cần phải tiếp tục xây dựng các dịch vụ xã hội và các dịch vụ văn hoá xã hội mà còn phải giải thích ý nghĩa, hiệu quả, tính hữu ích, có lợi của các dịch vụ đó đối với các công dân. Xã hội và nhà nước tương quan với nhau theo nhiều định hướng, nhưng lĩnh vực xã hội có ý nghĩa đặc biệt. Trong bộ phận bảo vệ công dân về mặt xã hội, sự bảo đảm xã hội được xem

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI SỐ 9-2021

(5)

xét trong các chiến lược, chương trình, kê hoạch pháttriển kinh tê - xã hội cóý nghĩa rấtquan trọng. Đương nhiên, theolôgic đó, pháp luật xã hội phải là một nội dung quan trọng của chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam.

Các chươngtrình xã hội được thực hiện trong các cơ cấu quản trị thành công về mặt kinh tế. Các chương trình xã hội quốc gia, đương nhiên, đòi hỏi phải có các nguồn lực kinh tế. Các nguyên nhân sâu xa của những khó khăn trong việc hình thành nhà nước xã hội không phải nằm ở mức độ phát triển của nền kinh tế, ở sự mâu thuẫn của phát triển kinh tế và phát triển xã hội mà ở sự đối lập vĩnhhằng của các nguyên tắc tự dovà bình đẳng. Không thể có sự hài hoà đầy đủ của các nguyên tắc đó về mặt thực tế. Điều kiện để thực hiện các nguyên tắc đó là sự hạn chế cân bằng tự do hoạt động kinh tế một cách nghiêm khắc (phần lớn phải là bằng các phương phápkinh tếchứ không phải bằng các phương pháp hành chính) và mong muốn thường xuyên nâng cao trình độ cuộc sống của mọi người vối nhận thức không thế đạt được sự bình đẳng thực tê tuyệt đối. Điêu đó được giải thích bằng các phẩm chất cá nhân của mọi người - các khả năng, tài năng, tính sáng tạo, tình yêu lao động, trạng thái sức khoẻ và tâm lý củahọ. Do đó, mục tiêu của nhà nước xã Ĩi không phải là khắc phục, loại bỏ mà là in bằng” sự bất bình đẳng, khắc phục sự lác biệt rất lớn về tài sản, đề cao quy chê hội của cá nhân để bảo đảm phẩm giá cọn người(1). Để thực hiện được các mục tiêu như vậy của nhà nưóc các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, các tơ chức xã hội cần phải thẩm định các văn bận pháp luật về các hậu quả xã hội của c

(1> Lukasheva E. A. (2013), Quyển con người và nhà nước xã hội pháp quyển// Quyền con người và nhà nước xã hội pháp quyển ỏ Nga. Mátxcơva, tr.22 (bản tiếng Nga).

.ng đốì với con người. Sự thẩm định đó

có thể hỗ trợ cho việc san bằng các chênh lệch vật chất rất lớn hay ngược lại sáng tạo ra sự tiếp tục phân hoá vật chất. Cùng với thẩm định các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, điều đó trở thành điều bình thường đối với xây dựng pháp luật, có thể chuẩn đoán về các hậu quả xã hội của việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ tư, sự ràng buộc lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau của xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật trên nền tảng các giá trị thông nhất, các phương châm các định hướng mục tiêu; sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ các giá trị và các phương châm và các địnhhướng mụctiêu đó.

Đạo luật không thể chỉ là sự thể hiện lợi ích nhất thời, tạm thời, sự phản ứng trực tiếp đối với tình huống đã được hình thành. Bên cạnh và cùng với các đạo luật còn có cả các vănbản quy phạm pháp luật dưới luật. Về mặt lý tưởng, đạo luật cần phảihưóng đến để phát triểncác quyền và các tự do, giao cho các nghĩa vụ, hỗ trợ sự phát triển phồn vinh của nhà nước và phục vụ lợi ích xã hội. Ó một nghĩa nhất định, đạo luật là phương tiện được lập luận về mặt khoa học và là phương tiện dự báo của việc đạt được tự do cá nhân và tự do chính trị dựa trên nền tảng cân bằng cácquyền và các nghĩa vụ.

Tiếp đến, cần phải nói về các nguyên tắc của xây dựng pháp luật và của áp dụng pháp luật. Điều cơ bản, quan trọng nhất trong những vấn đề xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật là duy trì định hướng nhân đạo, tính khả thi về *

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI g

2021

(6)

CHIẾNLƯỢC PHÁTTRIỂNPHÁPLUẬTVIỆT NAM: TÌMKIÊM...

mặt hiện thực, tính hợp lý, tính được bảo đảm về tài chính, tổ chức, tính khoa học, tính không thể tách rời với các quan niệm đạo đức đã bám sâu trong các nguyên tắc, nền tảng xã hội. Các nền tảng giá trị của xây dựng pháp luật thể hiện các thành tựu tổng hợp của xã hội loài người trong việc mỗi người tìm được sự tôn trọng, phẩm giá, nhân phẩm, danh dự.

Áp dụng pháp luật cũng cần phải được dựa trên các quan điểm như vậy. Trong trường hợp ngược lại, đôi khi điều đó đã xảy ra, chúng ta có được đạo luật vì đạo luật, còn thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ đi theo con đường của mình khi tuân theo các khuôn mẫu đã được hình thành.

Trong những năm gần đây các nghiên cứu khoa họcở nước ta đã đạtđược những thành tựu nhất định nhờ có việc sử dụng phương pháp luận, cách tiếp cận dựa trên quyền, coi con người là giá trị tự đầy đủ, là trung tâm của phát triển. Hoàn toàn hiểu được rằng, xây dựng pháp luật, ý chí của người xây dựng pháp luật không thể thờ ơ đốì với các giá trị đang tồn tại trong xã hội, trong ý thức, lưu chuyển các vùng bảo vệ giá trị ra khỏi sự bất công, hỗn loạn, mọi thứ đều được phép làm. Các hàng giá trị mà vối sự trợ giúp của chúng định hưởng cho người xây dựng pháp luật, được lấy ra từ các truyền thống văn hoá tinh thần của xã hội. Trong quan hệ đó, “trường phái lịch sử về pháp luật” đã thực hiện một bưốc nhảy quan trọng trong nhận thức, tư duy về pháp luật vối tư cách là một bộ phận của văn hoá, tồn tại mang tính thuộc tính trong các cội nguồn văn hoá xã hội của xã hội. Tuy vậy, hiện nay các quyền tự nhiên được nhận thức một cách rộng lớn, ít nhất, ỏ mức độ lý luận, không tự động chuyển

đến các quy phạm pháp luật và các điều luật của vãn bản quy phạm phápluật.

Ý chí của người xây dựngpháp luật cần phải thểhiện ý chí của phần lớn xã hội, và về mặt lý tưởng, thể hiện được ý chí của toàn xã hội. Ý chí đó phản ánh các giá trị tồn tại trong xã hội. Theo thực chất, các giá trị cơ bản, đã có được sự thể hiện về mặt pháp lý, đều có trong Hiến pháp của quốc gia nàyhay quốc gia khác, được phản ánh trong hệ tư tưởng pháp luật của nó, ngay cả không được ghi nhận đúng nguyên văn, nhưng tồn tại một cách thầm kín trong tinh thần của các đạo luật và xây dựng pháp luật.

Trong chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam các giá trị pháp luật cần phải được ghi nhận rõ ràng, thể hiện tối ưu trong xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Thứ nhất, các giá trị đó phải được tích hợp và được củng cố, được thể hiện rõ ràng và ai cũng hiểu được. Thứ hai, các giá trị đó phải được toàn bộ xã hội thừa nhận (đó là vấn đề phức tạp nhất), bởi vì rõ ràng rằng, không phải tất cả công dân, khi tác động đến các thủ tục thành lập, đều hiểu biết tốt các mệnh lệnh của pháp luật tự nhiên và có thể ngay cả mọi công dân không tán thành vổi chúng, bởi vì, cân nhắc các khác biệt có thể có, ví dụ, với các giá trị tôn giáo.

Thứ ba, các giá trị đó hiện diện ở tất cả các trình độ xây dựng pháp luật, nhưng được thể hiện theo trật tự ưu tiên bắt buộc ở mức độ Hiến pháp, các luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác, có các cơ chế bảo vệ để duy trì và tái sản xuất trong trường hợp có sự tác động vận động hành lang loại trừ định hướng giá trị đã được thừa nhận về mặt xã hội đốì với việc thông qua các đạo luật và các văn bản quy phạmpháp luật dưới luật.

□ NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 9-2021

(7)

4. Các lĩnh vực pháp luật thế hiện sự tương tác hài hoà lẫn nhau của nhân nhà nước trong chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam

Pháp luật là một lĩnh vực của đời sống xã hội. Đến lượt mình, pháp luật vối tư cách là một hiện thực có các lĩnh vực tồn tại, các hoạt động, trong các lĩnh vực và hoạt động đó luôn luôn có sự hiện diện của nhà nưóc. Mặt khác, cá nhân tồn tại trong xã hội, có mốĩ liên hệ, tương tác với nhà nước thông qua các lĩnh vực, cáchoạt động nhất định liên quan đến cả cá nhân lẫn nhà nước. Trưốc hết, đó là các lĩnh vực xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật. Chiến lược phát triển pháp luật không thể không baoquát các lĩnhvực, các hoạt động pháp luật đó.Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thếnào để các lĩnh vực đó tạo ra, thể hiện sựtươngtác lẫn nhautốt nhất của cá nhân và nhànưốc.

Trong điều kiện hiện nay pháp luật cần phải đáp ứng ba luận điểm cơ bản chất đầy nội dung nhân đạo sau đây đế bảo đảm sự tương táctốtnhất của cá nhân và nhà nước.

Thứ nhất, tiến hành xây dựngpháp luật

\sáng suốt và dựa trên cơ sở khoa học, các nhu cầu phát triểncủa thực tiễn, xuất phát từcác nhu cẩu, lợi ích hiện thực của những người sống bằng sựhyvọng được bảo hộ và bảo vệ bằng pháp luật có khả năng tự bảo vệ bằngpháp luật khi dựa vào cấc đạo luật hiện hành.

Xây dựng pháp luật là một lĩnh vực, một hoạt động pháp luật, ở phương diện đang nói ở đây, thiết lập nên nền tảng pịháp luật cho sự tương tác hài hoà lẫn

rau của cá nhân và nhà nước. Hơn nữa, xây dựng pháp luật là một giá trị pháp luật, là một giá trị xã hội, bởi lẽ, nó phản ánh và đáp ứngcác nhu cầu phát triển xã hội, nhu cầu, lợi ích của nhà nước, của

SÔ 9-2021

n

cộng đồng, của cá nhân. Xây dựng pháp luật ghi nhận, thể hiện các giá trị xã hội, các nhu cầu, lợi ích hiện thực, làm gia tăng các giá trị xã hội, các nhu cầu, lợi ích hiện thực, tái sản xuất ra các giá trị xã hội, các nhu cầu, lợi ích hiện thực, trong đó có sự tương tác lẫn nhau của cá nhân và nhà nưóc. Muôn vậy xây dựng pháp luật phải sáng suốt và dựa trên cơ sở khoa học.

Xây dựng pháp luật sáng suốt và dựa trên cơ sở khoa học là xây dựng pháp luật không chỉ được tiến hành theo đúng các trình tự, thủ tục, giai đoạn do luật định, mà còn cân nhắc được tất cả các nhân tố xã hội có liên quan, sự biến đôi và các xu hướng biến đổi của các nhân tố đó, trong đó có các nhân tố phản ánh sự tương tác lẫn nhau của cá nhân và nhà nước. Các nhân tố xã hội không thể không thay đổi mà thường xuyên biến đổi, tác động và không thể không tác động đến tính chất và ở một chừng mực rất lón tác động đến nội dung, quá trình xây dựng pháp luật.

Nếu như xã hội và nhà nưốc mà đại diện là các cơ quan làm luật coi thườngcác nền tảng giá trị, nền tảng đạo đức của đạo luật, thì có thể nói rằng, đó là sự sụp đổ văn hoá, và trưốc hết, của văn hoá pháp luật hoặc sự không phát triển, không hoàn thiện của nó. Do đó, mọi nhà làm luật cần phải cân nhắc một cách đầy đủ nhất các nền tảng giá trị, các nhu cầu, lợi ích hiện thực của cá nhân, nhà nước và xã hội, các nguyên tắc đạo đức khi xây dựng mọi đạo luật. Các đạo luật, vối tư cách là kết quả của hoạt động pháp luật như vậy, là chỗ dựa pháp luật vững chắc đế mọi người cậy nhờ được bảo hộ, bảo vệ và bảo vệ mình trong mốì quanhệ với nhà nưóc.

Thứ hai, áp dụng pháp luật một cách hiệu quả, phản ánh được sự thông nhất

NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI Q

(8)

CHIẾN LƯỢC PHÁTTRIẾN PHÁP LUẬT VIỆT NAM: TÌMKIẾM...

các giả trị, nhu cầu, lợi ích, nguyên tắc được thể hiện trong cácđạo luật, hiện thực hoá cụ thểsự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước.

Áp dụng pháp luật là một lĩnh vực, một hoạt động pháp luật, ở phương diện đang nói ở đây, hiện thựchoá cụ thể sựtươngtác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nưởc trong các quan hệ xã hội cụ thể. Nếu như xây dựng pháp luật phản ánh và đáp ứng các nhu cầu phát triển xã hội, nhu cầu, lợi ích của nhà nước, của cộng đồng, của cá nhân,ghi nhận, thể hiện các giá trịxã hội, các nhu cầu, lợi ích hiện thực, làm gia tăng các giá trị xã hội, các nhu cầu, lợi ích hiện thực, tái sản xuất ra các giá trị xã hội, các nhu cầu, lợi ích hiện thực, thì áp dụng pháp luật là hiện thực hoá trong trường hợp cụ thể các nhu cầu, lợi ích, giá trị hiện thực của các chủ thể cụ thể, do vậy, cũng tham gia vào quá trình làm gia tăng, tái sản xuất racácnhu cầu, lợiích, giá trị hiện thực đó, trongđó có sự tương tác lẫn nhau - sự tương tác cụ thể lẫn nhau của cá nhân cụ thể và nhà nưốc. Do vậy, áp dụng pháp luật cũng như xây dựng pháp luật là một giá trị pháp luật, là một giá trị xã hội.

Áp dụng pháp luật một cách hiệu quả, phản ánh được sự thông nhất các giá trị, nhu cầu, lợi ích, nguyên tắc được thể hiện trong các đạo luật là hoạt động áp dụng pháp luật không chỉ biết tuân theo đúng các trình tự, thủ tục, giai đoạn nhất định mà còn là áp dụng pháp luật hiểu được một cách sâu sắc các tư tưởng, quan điểm, giá trị, nhu cầu, lợi ích làm nền tảng và ẩn sâu trong các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác đã được ban hành được áp dụng trong thực tiễn, hiếu được một cách nhânvăncác giá trị, lợi ích của đối tượng áp dụng pháp luật. Chính áp dụng pháp luật là cụ thể

hoá sựtương tác lẫn nhau của cá nhân cụ thể và nhà nước mà đại diện là cơ quan nhà nước nhất định.

Thứ ba, bảo đảm trình độ ý thức pháp luật cao, liên kết các nỗ lực của những nhà làm luật và những người áp dụng pháp luật vào một dầy chuyền chỉnh thê

thông nhất.

Rõ ràng là ở mỗi cá nhân có các quyền của mình phù hợp vối quy chếvà các đòi hỏi pháp lý của nó trong lĩnh vực pháp luật. Các quyền của một cá nhân có thể mâu thuẫn, mâu thuẫn với các quyền của người khác, để giải quyết mâu thuẫn đó có đạo luật, hệ thông các văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là các bảo đảm và chỉ ra các phương thức giải quyết các xung đột, các tranh chấp pháp luật.

Và điều khác cũng hoàn toàn rõ ràng là các quyền của cá nhân và các quyền của các cộng đồng cá nhân, các tập thể cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Để giải quyết các tranh chấp về các quyền cần phải có hiểu biết pháp luật. Không thể giải quyết các vấn đề phức tạp đó ở bên ngoài ý thức pháp luật cao, ở bên ngoài hệ thống giáo dục pháp luật được thừa nhận về mặt xã hội.

Các chủ thê của pháp luật - đó không chỉ là những người đại diện của tổng thể các quyền và nghĩa vụ. Chủ thể của pháp luật dưới dạng các thể nhân là những người đại diện của loại hành vi pháp luật nhất định. Chính cáccông dân với tư cách là những người tham gia các quan hệ pháp luật có tiềm năng văn hoá xã hội, trình độ văn hoá nói chung, điều đó đòi hỏi phải có các hình thức thể hiện khác nhau các quy phạm pháp luật trong đời sông. Các quy phạm pháp luật được trung chuyển bằng hành vi, hành động và hoạt động của những người đại diện nó thích ứng càng

m NHÂN LỌC KHOA HỌC XÃ HỘI SÔ 9-2021

(9)

cao và càng chặt chẽ với môi trường thể hiện của nó bao nhiêu thì nó sẽ được thực hiệntươngứng và hiệu quả bấynhiêu.

Do đó, xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và ý thức pháp luật quyết định lẫn nhau. Những người đại diện cho trình độ và nội dung văn hoá và ýthức pháp luật nhất định tiến hành xây dựng và áp dụng đạo luật (pháp luật), trong trường hợp thứ nhất, đó là những người xây dựng pháp luật, trong trườnghợp thứ hai, đó là những người áp dụng pháp luật. Đó là nhóm những người phát triển pháp luật chiến lược. Nhưng những người tiến hành xây dựng và áp dụng pháp luật phải dựa trên nền kinh tế, các bảo đảm tài chính - vật chất, cán bộ, không được mâu thuẫn mà phải cân nhắc, hoà hợp với các nền tảng đạo đức của chính pháp luật. Trong khía cạnh như vậy, phápluật là hiệntượng được quyết định vê' kinh tế và đạo đức. Nó cũng phụ thuộc vào cả chính trị, ý chí và các quyết định chínhtrị. Như hiện thực lịch sử và hiện thực đương đại Việt Nam cho thấy, chính trị thốhg trị đốivới phápluật.

' Như vậy, chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam có thể và cần phải phản ánh toànbộ cácphương diện pháp lý riêng có, văn hoá, xã hội, đạo đức gắn liền với sự nhận thức, sự phát triển và sự tái sản xuất pháp luật.

5. Vai trò của tuyên truyền, phổ hiến, giáo dục, đào tạo pháp luật và khoa học pháp lý trong chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, tuyên truyền, phô biến, giáo dục pháp luật, khắc phục chủ nghĩa coi thường (hư vô) pháp luật.

Trạng thái tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong xã hội, trước hết đó là thai độ của con người và xã hội đôì với phláp luật. Điều đó nóilênrằng, con người,

SÚ 9-2021

về mặt cá nhân và được tổ chức thành các cộng đồng, sử dụngpháp luật như thếnào, dựa vào pháp luật như thế nào để luận chứng các hành vi, hoạt động có ý nghĩa pháp lý của mình. Sựtái sảnxuất ra hệ tư tưởng pháp luật được ủng hộ, khẳng định và phản ánh các quan niệm về pháp luật công bằng, đạo đức ở nước ta hiện nay không thể được tiến hành ở bên ngoài tuyên truyền, phố biến, giáo dục pháp luật, thường xuyên và tái sản xuất ra sự nâng cao vai trò của pháp luật trong đòi sông cá nhân và các cộngđồng của nó.

ơ đây chúng tôi muốn nói đến việc tiến hành chính sách pháp lý - nhà nước tương ứng trong lĩnh vực này. Hành vi và ý thức pháp luật không tách rời nhau mà gắn liền chặt chẽ vối nhau. Khi tác động đếný thức, pháp luật không chỉ thông qua các kênh được tổ chức mang tính chính thức, nhưng trưóc hết, bằng các biểu hiện của hiện thực pháp luật, bằng cách đó chúng ta có được hành vi nhất định - hành vi đó có thể là hợp pháp hoặc không hợp pháp.

Khi tập trung và thực hiện các nỗ lực cần thiết trong lĩnh vực tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, bằng cách đó chúng ta có được điều cơ bản nhất: tái sản xuất ra hành vi hợp pháp, giảm thiểu các rủi ro pháp luật, tình hình tội phạm, giảm thiểu được xu hướng trái pháp luật trong hệ thống và trong khối lượng quan hệ xã hội cá nhân - xã hội - nhà nước nói chung. Ó đây, đương nhiên, có rất nhiều điều phức tạp, bởi vì, văn hoá chủ thể hình thành nên các định hướng hành vi của mình.

Cuối cùng, tất cả vấn đề phát triển cá nhân, pháttriểncác cộng đồng của họ được quyết định bởi mộttrong các điều kiện của sự tồn tại và phát triển nền văn minh là văn hoá. Chính văn hóa tạo ranền tảngcho NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI Q

(10)

CHIẾN LƯỢC PHÁTTRIỂNPHÁPLUẬT VIỆT NAM: TÌMKIÊM...

sự phát triển văn minh, chính nội dung và các hìnhthức biểu hiện của nó sản xuất ra văn hoá xây dựng pháp luật, văn hoá áp dụng pháp luật, văn hoá ứng xử, giao tiếp dựa vào pháp luật và văn hóa pháp luật nói chung. Toàn bộ kinh nghiệm của các nưởc, của toàn bộ xã hội loài ngưdi chỉ ra một cách rõ ràng và thuyết phục rằng, các hệ thống pháp luật quốc gia - dân tộc thành công, có hiệu lực, có hiệu quả cho đến ngày nay chỉ khi trong thực tại, trong hiện thực, toàn bộ xã hội và mỗi thành viên cụ thể của nó có trìnhđộ vănhoá cao (đặcbiệtvănhoá chính trịvà văn hoá pháp luật). Nền văn hoá như vậy sẽ được thiết lập (có thể có được) nếu như trong xã hội, trong nhà nước xác lập, khẳng định được và chiến thắng, chẳng hạn, trật tự, kỷ cương, tínhtổ chức, tính kỷ luật. Trậttự, kỷ cương, tính tổ chức, tính kỷ luật được thiết lập thông qua hệ thống áp dụngpháp luật, việc thường xuyêntuânthủ pháp luật, trong đó nhờ có trình độ văn hoá pháp luật và ý thức pháp luật cao. Ý thức pháp luật là kết quả và đồng thời là quá trình tái sản xuất thường xuyên quan hệ, thái độ của con người đối với pháp luật và các giátrịcủa nó.

Chúngtôi cho rằng, sự hình thành thái độ đối với pháp luật được dựa trên các xuất phát điểm công bằng, đạo đức và văn minh cần phải được tiến hành từ trong các trường phổ thông. Giáo dục pháp luật được tiếp tục thực hiện không ngừng và lúc đó sẽ hiệu quả. Nhưng giáo dục pháp luật với tư cách là một giá trị, tất nhiên, không cần phải thông qua các cấu trúc lý luận - phương pháp luận mà bắt đầu từ những năm đầu của trẻ em bằng cách giải thích các khả năng mà pháp luật đem lại. Không có sự tổ chức giáo dục pháp luật trong trường phổ thông, sau khi tốt nghiệp phổ thông,

trong các trường đại học không chuyên luật thì không thể khắc phục được chủ nghĩa coi thường (hư vô) pháp luật. Đó là quá trình rất lâu dài, phức tạp, vất vả, nhưng cần thiết. Ó đâykhông nói đến các bài giảng về pháp luật mà nói về sự chiếm lĩnh pháp luật với tư cách là một bộ phận cần thiết, không thể thiếu của tồntạixã hội.

Tất nhiên, đó chỉ là một bộ phận trong các giải pháp mà nhà nước cần phải thực hiện, ơ đây điều có ý nghĩa quan trọng là cần phải nhậnthức và đánh giá vai trò và ý nghĩa của toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (luật pháp), hệ thốhg pháp luật nói chung đã được hình thành và đang ở giai đoạn được hình thành.

Trong mọi trường hợp, hệ tư tưởng pháp luật không thể được hình thành ở bên ngoài hệ tư tưởng nhà nưốc - quốc gia mà chỉ được hình thành trong tổng thể với hệ tư tưởng nhà nước - quốc gia. Trong điều kiện hiện nay với việc cân nhắc các luận điểm của Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam và các nỗ lựcto lốn mà xã hội chi phí để khắc phục chủ nghĩa coi thường pháp luật, lối tư duy cũ về pháp luật với tư cách là công cụ đàn áp, cưỡng chế, hạn chế, trừng phạt, hệ tư tưởng quốc gia như vậy chỉ có thể là thếgiới quan hiến pháp, chủ nghĩa hiến pháp mà bản chất của nó thể hiện ở việc thừa nhận các quyền và tự do không thể bị tước đoạt của con người với tư cách là giá trị cao nhất và là nền tảng củanhà nước pháp quyền xãhội chủnghĩa Việt Nam.

Thứ hai, đào tạo pháp luật và khoa học pháp lý

Đào tạo pháp luật, khoa học pháp lý, giáo dục, tuyên truyền pháp luật gắn liền chặt chẽ với nhau. Điều quan trọng là phải có truyền thống văn hoá pháp luật

13

NHÃN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI SỐ 9-2021

(11)

dựa trên tính không thể thiếu được các quyền và tự do của cá nhân. Sự sản xuất ra hệ tư tưởng pháp luật, trước hết, diễn ra ở trình độ nghề nghiệp, do đó, hệ tư tưởng nhưvậy không thể được thựchiện ở bên ngoài hệ thống giáo dục, đào tạo.

Cùng với nhà nước, xét về tất cả các phương diện, là chủ thể có nghĩa vụ hình thành nên hệ tư tưởng nhất định trong lĩnh vực pháp luật, cáccơ sở đào tạo pháp luật và các trung tâm nghiên cứu pháp lý lớn cần phải và có thể trở thành chủ thể như vậy.

Chính việc đào tạo các nhà luật học có trình độ caolà một trong cácđiềukiện bảo đảm cho xây dựng và áp dụng pháp luật có hiệu quả. Các cơ sở đào tạo pháp luật và các trung tâm nghiên cứu pháp lý lớn, có uy tín ở nước ta phải là nơi tạo ra môi trường đặc biệt để hình thành nên thái độ tôn trọng pháp luật, sự thượng tôn pháp luật sản sinh ra tư duy pháp lý theo bản chất của nó - thái độ tôn trọng pháp luật, sự thượng tôn pháp luật và tư duypháp lý đó được những người tốt nghiệp tái sản xuất ra trong hoạt động nghề nghiệp pháp lý của mình.

Lĩnh vực đào tạo pháp lý cần phải được hiện đại hoá, phù hợp với các tiêu chuẩn và các đòi hỏi quốc tế, đặcbiệt phù hợp với các tiêu chuẩn và các đòi hỏi chung của châu Âu. Đồngthời, cần phải duy trì, phát huy kinh nghiệm tích cực đã tích luỹ được cua chúng ta trong lĩnh vực này. cần phải ung hộ việc áp dụng các hệ phương pháp dpi mới sáng tạo trong giảng dạy, mở rộng cảc khả năng đào tạo vối việc sử dụng các công nghệ máy vi tính, đánh giá một cách khách quan tốì đa các hiểu biết cả ở bộ phận lý luận lẫn ở bộphận thực tiễn.

Cần hình dung một cách rõ ràng về các phẩm chất, các hiểu biết sâu sắc như thế

nào của nhà luật học. cần phải xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn đào tạo quốc gia theo hướng đề cao chất lượng đối với đào tạo luậthọc và quy địnhtiêuchuẩn đó. Đặc biệt quan trọng là tiêu chuẩnđó phải được quy định làm sao để người tốt nghiệp đại học pháp lý duy trì và phát triển được các phẩm chấtcá nhân để tự phát triển. Muốh vậy cần phải tăng cường đào tạo cách tư duy nhận thức, tư duy giải quyết vấn đề cùng với đào tạo kiến thức, kỹ năng. Như thực tiễn cho thấy, các văn bản pháp luật có khả năng được sửa đổi, bố sung rất nhanh, do vậy, cần phải có khả năng làm việcvới nội dung được thay đổi của các đạo luật, với các tình tiết áp dụng chúng, với các điêu kiện của cuộc sống nói chung. Đào tạocoi trọng năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề sẽ đem đến cho nhà luật học tươnglaikhả năng đó.

Các cơ sở khoa học của đào tạo pháp luật là nền tảng và đồng thời là điều kiện phát triển pháp luật có triển vọng. Ó đây có một sô khía cạnh trong tổng thể tạo thành đặc điểm của khoa học pháp lý đương đại có ý nghĩa rất quan trọng, về vấn đề này, chúng tôi muốn lưu ý rằng, vấn đề quan trọng nhất là đối tượng, chủ đề của các công bố cụ thể, của các tài liệu phân tích, các tranh luận. Chúng tôi đề cập đến vấn đềnày, bởi vì,triển vọng phát triển pháp luật không thể được thực hiện ở bên ngoài khoa học pháp lý. Các quá trình biến đổi toàn cầu không thê không tác độngđếntư tưởng pháp lý ởViệtNam.

Về mặt thực tế, trong một khoảng thời gian ngắn cácthông sốkinh tế về sự phát triển xã hội và cá nhân đã được thay đổi.

Sở hữu tư nhân sáng tạo ra sự phát triển và có lẽ cần đề cao, ưu tiên pháp luật tư.

Điểu đó không làm giảm các nỗ lực của những người đại diện các ngành pháp luật

NHÂN Lực KHOA HỌC XÃ HỘI Q

SỖ 2021

(12)

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VIỆTNAM:TÌM KIÊM...

công. Tuy vậy, không gian khoa học là thống nhất, dường như, nó được toàn cầu hoá, và trong các lĩnh vực khoa học các nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật tư cần được đẩy mạnh và đó là đòi hỏi cấp bách. Trước đây, khoa học pháp lý Việt Nam chúng ta không công nhận bất kỳ điều gì trong lĩnh vực pháp luật tư, các công bô' khoa học hầu như chỉ về các lĩnh vực pháp luật công. Hiện nay cần phải tư duy lại các nghiên cứu khoa học pháp lý theo hưống quan tâm ngày càng nhiều hơn đến lĩnh vực pháp luật tư để phục vụ sự phát triểnđấtnước.

Các cải cách chính trị - pháp lý lớn đã diễn ra ở nước ta và đã được ghi nhận về mặt pháp lý, các mục tiêu và nhiệm vụ của pháp luật đã được thay đổi, các đối mởi thế chê quan trọng, cơ bản mang tính chất nhà nước đã và đang diễn ra. Tương ứng, vị trí của khoa học pháp lý trong hệ thống pháp luật, mức độ tác động của nó đến các quá trình xã hội cũng được thay đôi. Các nhà khoa học pháp lý tham gia ngày càng nhiều hơn vào quá trình xây dựng pháp luật. Các tư duy mang tính quan niệm từng bưốc được đưa vào các dự án văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật đượcban hành.

6. Kết luận

6.1. Có đầy đủ các cơ sở để cho rằng, vấn đề về chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam hiện nay là rất cấp thiết, nhưng ít được nghiên cứu ở nước ta. Trong sách báo khoa học ở nước ta thời gianqua phần lớn nói về đổi mới, cải cách pháp luật, hệ thông pháp luật, sửa đổi, bổ sung luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Hiện nay, chúng tôi cho rằng, một trong những nhiệm vụ cấp bách của khoa học pháp lý Việt Nam là nghiên cứu, luận

chứng các thông sô' cơ bản của chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược đó. Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam được thể hiện trong xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật với/trong vai trò to lớn và ngày càng gia tăng của ý thức pháp luật trong đời sông pháp luật đương đại. Việc thể hiện, thực hiện trong chiến lược phát triểnpháp luật Việt Nam các nền tảng, các quan điểm, tính chất, các đặc điểm của sự tương tác hài hoàlẫnnhau của cá nhân và nhà nước có ý nghĩa đặcbiệt quantrọng.

6.2. Mổì quan hệ giữa cá nhân và nhà nưởc là mối quan hệ trụ cột, cơ bản trong xã hội nói chung, thể hiện sự tương tác lẫn nhau giữa cá nhân và nhà nước. Sự tương tác lẫn nhau giữa cá nhân và nhà nước cần phải được thiết lập bằngphương thức pháp quyển, tức là bằng pháp luật, dựa vào pháp luật vớitất cả những gì pháp luật có. Chiến lược phát triển pháp luật là phương thức pháp quyền, hiến định với tư cách là phương thức văn minh nhất để thể hiện, thiết lập sự tương tác hài hoà của cá nhân và nhà nước trong xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền.

6.3. Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam hiện nay cần phải đồng hành cùng với sự hình thành và tái sản xuất tương ứng các quanhệ tối ưu, được trật tự hoá, vững chắc, cần thiết lẫn nhau đốĩ với cá nhân và nhà nước. Nhà nước pháp quyền dân chủ ván minh đương đại không thể vận động trên thực tế ở bên ngoài các nhu cầu và lợi ích của cá nhân, của việc thựchiện các quyềnvà các nghĩa vụ. Đồng thời, địa vị pháp lý của cá nhân, việc thực hiện các quyền của cá nhân trongsựthông nhất với các nghĩa vụ là không vững chắc nếu thiếu sứ mệnh tương ứng của nhà

n NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI SỔ 9-2021

(13)

nước trong việc bảo đảm từ phía mình sự tương tác đồng bộ lẫn nhau trong cặp đôi cần thiết lẫn nhau.

6.4. Sự tương táchài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước cần phải dựa trên các nền tảng nhất định. Đó là các nền tảng: học thuyết pháp luật quốc gia, hệ tư tưởng quốc gia, hệ tư tưởng pháp luật quốc gia, sự thống nhất về mặt chính trị của cá nhân và nhà nước (sự thông nhất của đất nưốc, quốc gia, dân tộc, cộng đồng xã hội), sự thống nhất về mặt xã hội (sự đoàn kết, sự đồng thuận), trình độ văn hoá pháp luật và ý thức pháp luật cao, được đặc trưng bởi hệ thống trách nhiệm lẫn nhau của cá nhân, xã hội và nhà nước.

6.5. Sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nưốc được thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng trong đó, trước hết và trên hết, trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật. Trong các lĩnh vực đó, sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nưóc có các đặc điểm, nội dung cụ thể của mình, nói về mức độ của sự tương tác đó.

6.6. Sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nưốc cần phải tuân theo các nguyên tắc nhất định. Đó là các nguyên tắc: bảo đảm các tự do cá nhân và các tự do chính trị của cá nhân, khẳng định trong xã hội tinh thần chủ nghĩa hiến định, sự tôn trọng pháp luật, sự ẵượng tôn pháp luật, xác định vai trò và

trí của pháp luật trong mốì liên hệ với hình thành nhà nước pháp quyền xã i, xã hội pháp quyền ỏ Việt Nam, sự ràng buộc lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau của xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật trên nền tảng các giá trị thông nhát, các phương châm và các định hướng mục tiêu; sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ các

giá trị và các phương châm và các định hướng mục tiêu đó.

6.7. Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam, theo nguyên tắc phát triển toàn diện, bao trùm, ngoài các lĩnhvực đã nói trên, cần phải bao gồm cả hai bộ phận cấu thành quan trọng khác là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật và khoa học pháp lý. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật và khoa học pháp lý đóng vai trò quan trọng trong nhận thức, xác lập, thực hiện sự tương tác hài hoà lẫn nhau của cá nhân và nhà nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Võ Khánh Vinh (2020), Chính sách pháp luật: Những vấn đềlýluận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

2. Võ Khánh Vinh (2003), Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

3. Võ Khánh Vinh “Về giá trị học pháp luật”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số7/2014.

4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

5. Lukasheva E. A., Quyền con người và nhà nước xã hội pháp quyền// Quyền con người và nhà nước xã hội pháp quyền ở Nga. Mátxcơva, 2013 (bản tiếng Nga).

6. Từ điển Triết học đương đại/ chủ biên Giáo sư V.E. Kemerov, Mátxcơva, 2004 (bản tiếng Nga).

7. Chirkin V.G. “Quan niệm về quyền lực công của nhân dân trong thếkỷ XXI”, Tạp chí Những vấn đề của luật học, 2010, Sô' 1 (5) (bản tiếngNga).

SỐ 9-2021 NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI

[3

Referensi

Dokumen terkait

Trong tương lai gần, nằm trong “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020” và nhu cầu phát triển trong nước, sự hội nhập quốc tế thì Việt Nam sẽ có thêm các trạm

Một số tài liệu như: niên giám thống kê qua các năm của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa; Quyết định của Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam, về việc điều

Ngày nay, qua những tài liệu hiện còn lưu trữ, những nội dung của quốc sách “Ấp chiến lược” ngày càng được làm rõ hơn và là minh chứng sinh động cho một thời kỳ lịch sử đấu tranh nhiều

Trên cơ sở chiến lược, kế hoạch của từng địa phương, cần quy hoạch rõ các khu vực, địa bàn được tập trung phát triển kinh tế ban đêm, các khu vực trung tâm và các khu vực vệ tinh, các

Trong thời kỳ Yushin, chính quyền khắc phục những hạn chế trong giai đoạn phát triển kinh tế 1961-1971, chủ trương thực hiện chiến lược hiện đại hóa một cách đồng bộ, hệ thống, nhanh

Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, có nhiệm vụ, quyền hạn sau ñây: a Xây dựng và trình Chính phủ quyết ñịnh chiến

Trọng tâm của chuyển đổi phương thức kinh tế trong nước gắn với điều chỉnh chiến lược ngoại giao thể hiện trên một số điểm như: i đẩy mạnh triển khai Chiến lược “Một vành đai, một con

Đối với SV Để giải quyết tốt các vấn đề trong hoạt động học tập đối với học phần Pháp luật đại cương, SV cần thực hiện tốt các việc sau: Thứ nhất, SV cần nhận thức được tầm quan trọng