• Tidak ada hasil yang ditemukan

CHUYỂN ĐỔI QUYỀN SỬDỤNG ĐẤT VÀ SINH KẾCỦANGƯỜI CHURUỞLÂM ĐỒNGTRƯỚC ĐÂY VÀ HIỆN NAY

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "CHUYỂN ĐỔI QUYỀN SỬDỤNG ĐẤT VÀ SINH KẾCỦANGƯỜI CHURUỞLÂM ĐỒNGTRƯỚC ĐÂY VÀ HIỆN NAY"

Copied!
13
0
0

Teks penuh

(1)

CHUYỂN ĐỔI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ SINH KẾ CỦA NGƯỜI CHURU Ở LÂM ĐỒNG TRƯỚC ĐÂY VÀ HIỆN NAY

PHẠM THANH THÔI

Dân tộc Churu thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian, hiện có khoảng 20.000 người cư trú chủ yếu ở hai huyện Đức Trọng và Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng. Trong lịch sử, người Churu cũng đã từng chịu ảnh hưởng bởi quyền lực chính trị của các nhà nước “lân cận”. Tuy vậy, kể từ sau năm 1960, người Churu ở Lâm Đồng đã trải qua một quá trình biến đổi xã hội sâu rộng chưa từng có. Bài viết này trình bày một tổng quan về những biến cố chính trị, xã hội trong chiến tranh và sau chiến tranh có tác động đến quyền sử dụng đất và sinh kế của người Churu ở Lâm Đồng.

1. GIỚI THIỆU

Lâm Đồng thuộc vùng Tây Nguyên Việt Nam, nơi có nhiều tộc người thuộc các nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer và Malayo- Polenesian(1) sinh sống. Lịch sử phát triển của các dân tộc ở Lâm Đồng cũng chịu nhiều tác động từ các biến động chính trị của các nhà nước “lân cận”.

Theo giáo sư Đặng Nghiêm Vạn (1980, tr.

2), “mới thoạt nhìn, ai cũng có cảm giác ở một vùng có nhiều cách biệt với bên ngoài, các cư dân ở đây [Tây Nguyên]

dường như đã trải qua một cuộc sống yên ổn phẳng lặng. Ngược lại, Tây Nguyên luôn bị xáo động bởi những diễn biến nội tại và bởi những tranh chấp của các thế lực bên ngoài, bởi những tác động của các luồng văn hóa, của các lớp người qua lại” […] Đến giữa thế kỷ XIX,

“Pháp đặt chân lên Tây Nguyên và đã mở ra những cuộc xáo trộn mới. Đặt ách đô hộ lên Tây Nguyên, người Pháp

chiếm đất lập đồn điền […]. Có nhiều làng phải dời vào rừng sâu, nhiều nơi phải dỡ phá để làm thị trấn, làm đường giao thông. Người dân bị bóc lột bằng thuế khóa và lao dịch (làm đường giao thông)”.

Sau năm 1945, phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam lan đến Tây Nguyên, bắt đầu hình thành các khu căn cứ kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1961 đến năm 1975, tiếp tục diễn ra cuộc chiến tranh

“ác liệt” giữa lực lượng kháng chiến với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Hai cuộc chiến tranh này cùng với các chính sách của hai nhà nước trong và sau chiến tranh đã tác động rất lớn đến các tộc người thiểu số ở Lâm Đồng.

Trong hơn 10 năm, từ năm 1961 đến năm 1975, quá trình “leo thang” chiến tranh tại Việt Nam của Mỹ, với các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” đã làm thay đổi rất nhiều nơi định cư cũng như sinh kế của các tộc người thiểu số ở

Phạm Thanh Thôi. Thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

(2)

Tây Nguyên, trong đó có người Churu ở Lâm Đồng.

Từ sau ngày đất nước thống nhất (1975), sinh kế và sự biến đổi văn hóa, xã hội của người Churu tiếp tục thay đổi bởi hàng loạt các chính sách phát triển của Đảng và nhà nước qua từng thời kỳ. Cụ thể các chính sách, chương trình như Di dân có tổ chức để xây dựng các vùng Kinh tế mới; chương trình Định canh- định cư; tái định cư và kiểm soát dân cư trong thời kỳ chống Fulro (1976 - 1988);

thành lập các nông-lâm trường quốc doanh; mô hình tập đoàn sản xuất, các dự án trồng rừng và bảo vệ rừng, và hàng loạt các dự án phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói-giảm nghèo khác.

Nhìn chung, kể từ năm 1960 đến nay, dân tộc Churu đã chịu sự tác động đa dạng và sâu rộng hơn bao giờ hết từ các chính sách trong và sau chiến tranh. Việc nghiên cứu về những tác động này sẽ giúp hiểu rõ và lý giải những vấn đề hiện tại về xã hội và kinh tế của người Churu.

2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ XÃ HỘI VÀ SINH KẾ CỦA NGƯỜI CHURU Theo Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam (Quyết định 121 TCTK/PPCĐ ngày 2/3/1979 của Tổng cục Thống kê Việt Nam), người Churu thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian cư trú chủ yếu ở huyện Đức Trọng và Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng(2)và một số ít ở các khu vực khác(3).

Người Churu được biết đến qua một số nghiên cứu đã xuất bản: Trong công trình của Viện Dân tộc học (1984), tác giả Nguyễn Văn Diệu viết rằng: Người Churu là một dân tộc đã định canh định

cư và cư trú lâu đời. Xã hội cổ truyền Churu dựa trên cơ sở palei (làng).

Phạm vi của làng là một khoảng đất rộng vài km2 gồm: thổ cư, đất trồng trọt, các công trình thủy lợi cùng với rừng núi, sông suối có ranh giới tự nhiên […] do các chủ làng qui ước với nhau và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Rừng núi sông suối thuộc quyền sở hữu công cộng của làng, ai cũng có quyền săn bắn, đánh cá trong khu vực đó. Nhưng thổ cư, ruộng đất ở đây dần dần đã chuyển thành tài sản sở hữu của từng dòng họ, gia đình lớn hay gia đình nhỏ.

[…] Chủ làng, thầy cúng, trưởng thủy, bà đỡ và các già làng là những người có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, tín ngưỡng của cộng đồng làng. Họ họp thành tổ chức tự quản, một tổ chức chính trị, xã hội cao nhất mà người Churu đã đạt đến. Làng hầu như là một đơn vị kinh tế tự túc, tự cấp tương đối độc lập. […] Dưới chế độ thực dân, nhất là chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, đã tạo điều kiện cho tư hữu phát triển […] Gia đình lớn mang nhiều tàn dư mẫu hệ, mà biểu hiện tập trung ở vai trò người vợ, người cậu và quyền thừa kế tài sản thuộc về những người con gái […]. Do sự phát triển kinh tế nội tại của người Churu bên cạnh những tác động của các xã hội có giai cấp như xã hội phong kiến Chăm, Việt và nhất là các chính sách kinh tế-xã hội của chủ nghĩa thực dân mới dưới thời Mỹ-ngụy đã làm cho hình thức gia đình lớn của người Churu tan rã nhanh chóng (Nguyễn Văn Diệu, 1984, tr. 279-280). Có thể nói, bài viết trên đã cho thấy một số đặc điểm cụ thể nhất về kinh tế, xã hội của người

(3)

Churu ở Lâm Đồng trước và sau cách mạng (1975), mà nhiều công trình sau này đã trích dẫn.

Trong công trình Dân tộc, dân cư Lâm Đồng, tác giả Trần Sỹ Thứ và cộng sự (1999, tr. 35-44) đã trình bày sơ lược về xã hội cổ truyền của người Churu nhưng nội dung đã tham khảo và sao chép chủ yếu từ bài viết của Nguyễn Văn Diệu (1984) và không đề cập đến những biến cố chính trị và sự biến đổi xã hội của người Churu ở Lâm Đồng trong hơn 50 năm qua.

Năm 2009, công trình Người Chu-ru ở Lâm Đồng do Hoàng Sơn (chủ biên) viết rằng: “sự biến động về địa bàn cư trú của người Churu diễn ra hai lần lớn: lần thứ nhất vào những thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX. Đây là thời điểm Mỹ-ngụy dồn dân lập ấp; chúng buộc người Chu-ru di chuyển đến một số vùng cư trú mới hoặc [?] dồn người Cơ-ho, người Mạ đến sống cận kề, xen kẽ với người Chu-ru (ở Pré, xã Tân Hội [?], Đức Trọng; Ka Đô, Đơn Dương; Tu Tra, Đơn Dương;…); lần biến động thứ hai từ sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước: một số làng Chu-ru quay về nơi cư trú cũ hoặc được tập hợp lại theo địa bàn hành chính mới” (Hoàng Sơn, 2009, tr. 16).

Tuy nhiên, những biến cố ấy diễn ra cụ thể như thế nào, tác động đến xã hội người Churu ra sao thì tác giả chưa làm rõ trong công trình này.

Ngoài ra, một số tác giả như Vũ Đình Lợi (1994), Võ Tấn Tú (Luận án tiến sĩ, 2010), Ngọc Lý Hiển (2002), Phạm Thị Mùi (2003), v.v đã có những bài viết về người Churu. Các nội dung đã tập trung về các đặc trưng văn hóa, gia đình, hôn

nhân, lễ hội nhưng lại chưa trình bày một cách thỏa đáng các nhân tố, động thái và sự biến đổi kinh tế, xã hội của người Churu ở Lâm Đồng.

Trong bài viết này, nhằm bổ túc những hiểu biết về người Churu, chúng tôi muốn làm rõ hơn mối quan hệ giữa các biến cố chính trị với quyền sử dụng đất và thay đổi sinh kế xã hội của người Churu từ sau năm 1960 đến nay. Dữ liệu được thu thập chủ yếu bằng phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và quan sát-tham dự các sự kiện tại cộng đồng qua 4 đợt điền dã (mỗi đợt 20 ngày): đợt tháng 8 và tháng 12 năm 2010; đợt tháng 3 và tháng 8 năm 2012 tại các palei của người Churu ở các xã vùng Loan của huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Vùng Loan (hay Noang;

người Churu thường dùng từ Lơwak: có nghĩa là vùng đất mênh mông rộng lớn)(4), theo đơn vị hành chính hiện nay gồm 5 xã (Tà In, Ninh Loan, Đà Loan, Tà Năng và Đạ Quyn).

3. CHIẾN TRANH VÀ NHÀ NƯỚC: QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ SINH KẾ CỦA NGƯỜI CHURU

Trước năm 1960, theo ranh giới của người Churu, vùng Loan được chia làm 3 khu vực: Loan, Tahine và Tà Năng với nhiều palei cụ thể. Mỗi palei là một không gian sinh tồn và cũng là một không gian xã hội có lịch sử và diện mạo xã hội riêng. Mỗi palei có diện tích đất đai lớn, bao gồm đất ruộng lúa, đất đồi trọc, đất núi rừng và sông suối. Mỗi palei có 3 - 4 căn nhà ở thuộc 1 - 2 dòng họ.

Các thành viên thuộc 3 - 4 thế hệ sống chung nhà theo dòng mẹ. Mỗi dòng họ trong palei thường có khu mộ gần đất

(4)

ruộng lúa để chôn chung những người đã chết.

Sinh kế của cư dân trong palei chủ yếu trồng lúa nước và nuôi trâu. Cư dân vùng Loan thường nói, xưa kia trâu nhiều quá thường đem đổi lấy cái ché, cái chiêng với người Chăm. Lúc này, có nhiều gia đình Churu (thuộc 1 số dòng họ) ở vùng Loan được coi là người giàu có vì có nhiều ruộng (đã canh tác), trâu, chiêng, chóe, tô chén cổ. Những công việc săn bắt, hái lượm, đan, rèn(5) thủ công… tuy không giúp người Churu giàu có, nhưng đảm bảo sinh tồn cho họ.

Từ xưa, người Churu đã có đi lại để trao đổi sản vật và gia súc (bán mua) bằng đường bộ với người Chăm ở vùng Phan Thiết (Bình Thuận). Họ xuống vùng đồng bằng ven biển để đổi mua muối, cá, vải dệt, tô, chén, v.v. bằng các con gia súc, gia cầm của họ được mang theo. Ở thời Pháp thuộc, thanh niên Churu cũng bị gọi (ép buộc) phải đi làm (phu) cho các công trình giao thông, đồn điền của Pháp. Tuy nhiên người Churu cơ bản vẫn sống theo truyền thống tại các vùng đất của tổ tiên giữa rừng núi.

Nhưng cuộc sống của họ bắt đầu đảo lộn kể từ năm 1961 khi chiến tranh bùng phát trở lại.

+1963 - 1975: bị ly hương, mất quyền sử dụng đất

Năm 1964, quân đội Việt Nam Cộng hòa xây trại lính gác tại đồi Bu liang (thuộc Tà In) để kiểm soát cư dân vùng Loan. Vùng Loan trở thành nơi diễn ra xung đột và tranh chấp giữa quân Việt Nam Cộng hòa với lực lượng vũ trang cách mạng.

Năm 1966, một số cư dân trong các palei như Bơ yoat, Chơ pơdi, Chơ thap, Tô briang phải bỏ nhà di chuyển (đi bộ) đến ấp chiến lược Đạ Gough (Phú Hội, Quốc lộ 20). Đáng kể, năm 1968 (sau Tết Mậu Thân), lực lượng vũ trang cách mạng hoạt động mạnh ở đồi Bu liang (thuộc xã Tà In hiện nay) và khu vực Loan (thuộc xã Ninh Loan hiện nay). Quân Việt Nam Cộng hòa cho rằng khu vực này đã mất an ninh, mất quyền kiểm soát, vì vậy tất cả cư dân ở các palei Bơ yoat, M’koat, Tahine, Bu liang, Jrot, Chơ pơdi, Da kră, Chơ thap, Chơ buh, M’tôl, Tô o briang, Chơ rup, Sre boh, Sre đăng, Sre đàng (bon [làng] người Cơho)… bị ép phải di chuyển (đi bộ) đến khu tập trung (ấp chiến lược) Đạ Gough ở Phú Hội(6). Khi dân vừa chuyển đi, quân Việt Nam Cộng hòa đã dùng trực thăng bắn phá các palei, giết chết trâu, bò, đốt vườn tược, nhà ở và kho lúa, nhằm làm cho lực lượng vũ trang cách mạng ở các khu căn cứ (trong rừng) không còn lương thực sử dụng.

Tại khu vực Soop (gồm các palei thuộc xã Đà Loan hiện nay), từ năm 1964 người dân cũng phải sống trong một khu tập trung kiểu “ấp chiến lược”(7). Tết Mậu Thân (1968), khu vực Soop trở thành điểm giao tranh giữa lực lượng vũ trang cách mạng và quân Việt Nam Cộng hòa, kéo dài 1 tháng. Khi quân Việt Nam Cộng hòa mất quyền kiểm soát, cư dân các palei khu vực Soop và lân cận như Mah am, Sre tup, Kal lung, D’riah, Hanah rbei, Triah, Sre lat, Sre kop, Sre boh, Hamah rup, v.v. đã bị quân Việt Nam Cộng hòa buộc rời bỏ palei về khu tập trung ở gần thác Liên Khương (thuộc xã

(5)

Ntolha, quốc lộ 20). Cư dân được cấp các tấm vải nilon để làm lều trại ở, cấp gạo và muối để sống tạm. Khoảng giữa năm 1968, quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục chuyển cư dân ở Ntolha đến ấp chiến lược Đạ Gough (nay thuộc xã Phú Hội, Đức Trọng, gần cầu Đại Ninh trên quốc lộ 20) ở cùng với cư dân từ Tahine và Loan đã bị chuyển đến trước để dễ kiểm soát.

Tại khu vực Tà Năng (bao gồm xã Tà Năng và Đạ Quyn ngày nay), sau tết Mậu Thân quân Việt Nam Cộng hòa dùng máy bay chở cư dân Churu (như palei Chơ krơm) đến đổ xuống ấp chiến lược Mah lon (M’lon) ở Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương, nơi gần tuyến đường quốc lộ 21 (nay là quốc lộ 27)(8). Trước sự ép buộc phải rời bỏ palei, một số người Churu ở Tà Năng đã vào rừng đi theo lực lượng cách mạng.

Như vậy, từ năm 1961 đến 1968, cộng đồng người Churu ở Lâm Đồng thuộc các palei đã chịu nhiều tác động khi chiến tranh leo thang giữa hai bên. Một số ít người Churu vào khu căn cứ, phần lớn bị dồn vào các khu tập trung - ấp chiến lược. Tuy vậy thời gian đầu người Churu vẫn ở tại các palei gần với đất canh tác của mình, sinh kế và xã hội chưa biến đổi lớn. Nhiều người cho rằng lúc ấy họ chỉ bị o ép về tinh thần và khó khăn trong cuộc sống hằng ngày do sự kiểm soát của quân lính Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, từ sau tết Mậu Thân (1968), tất cả các palei của vùng Loan (Đạ Quyn, Tà Năng, Đà Loan, Tà In, Ninh Loan) đều phải rời bỏ không gian sinh tồn, tài sản gia truyền(9) và không gian xã hội của mình để sống

trong sự “kìm kẹp” của quân đội và nhà nước.

+Những biến đổi về kinh tế-xã hội

Tại Đạ Gough, quân Việt Nam Cộng hòa đã chặt đốt cây rừng và dùng xe ủi san bằng một khu đất đồi chừng vài km2để làm khu tập trung (sau năm 1965, chế độ Việt Nam Cộng hòa đã đổi tên các Ấp chiến lược thành Ấp dân sinh, nhưng thực chất vẫn là các khu tập trung).

Người Churu bị buộc phải đào đường hào (sâu 1m, rộng 1m) xung quanh khu đất. Dưới hàng rào, quân Việt Nam Cộng hòa cho cắm chông và rào dây kẽm để ngăn cấm người ra vào. Khu tập trung có quân lính canh gác và người dân chỉ được ra vào theo đúng giờ qui định (từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều).

Trong khu tập trung Đạ Gough quân Việt Nam Cộng hòa chia ra thành 5 khu vực có ranh giới là những con đường đất đỏ (phân lô) rộng chừng 5 mét. Mỗi khu vực là không gian định cư (nhà ở) của một số palei cụ thể:

Khu 1: gồm các palei Soop 1, Soop 2, Soop 3.

Khu 2: gồm các palei Hanah Rbei, Triah.

Khu 3: gồm các palei Mah am, Sre tup.

Khu 4: gồm các palei Bơ yoat, Sre đăng, Sre đàng, M’tôl, Chơ pơdi, Jrot, M’koat, Tô o briang.

Khu 5: gồm các palei Tahine, Bu liang, Da kră, Chơ thap, Chơ rup, Kal lung, D’riah, Sre boh, Sre lat, Sre kop, Hamah rup, Chơ buh(10).

Tại ấp chiến lược M’lon, người Churu ở khu vực Tà Năng (và xã Đạ Quyn hiện nay) cũng được bố trí tại một khu vực

(6)

tập trung và cư trú xen kẽ.

Trong từng khu, mỗi gia đình lớn mẫu hệ tự do chia tách hộ, mỗi hộ sẽ nhận được 5 tấm tôn nhôm, đinh đóng để làm nhà riêng và vải làm mền đắp chống lạnh.

Mỗi gia đình tự tìm kiếm cây, tre, cưa ván để làm nhà ở cho mình. Ấp chiến lược Đạ Gough có 2 nhà thờ: nhà thờ Công giáo (dòng Vinh Sơn) tại khu 3 được làm bằng tre, cây-ván gỗ và lợp tôn nhôm. Nhà thờ Tin Lành tại khu 5 cũng được làm bằng các loại vật liệu tương tự. Trong cộng đồng palei của người Churu lúc này, những người có ảnh hưởng đến đời sống của các thành viên đã tăng lên khá nhiều, gồm: các già làng, trưởng/phó ấp quản lý, lính canh gác/theo dõi, cha xứ/linh mục (Công giáo) hoặc mục sư/chấp sự/truyền đạo (Tin Lành) giảng đạo/giúp đỡ, các giáo viên dạy chữ viết và y tá khám bệnh, đỡ đẻ...

Trong ấp chiến lược, người Churu vẫn cư trú theo từng palei và dòng họ.

Nhưng các palei và dòng họ ở sát nhau trong một khu vực đất đai chật hẹp, chỉ dùng để ở. Cư dân chịu sự “kìm kẹp” của hệ thống hành chính ấp/xã/quận và quân đội rất cụ thể. Cuộc sống hằng ngày và sinh kế ngày càng chịu tác động nhiều hơn bởi những người đến từ bên ngoài dòng họ và palei, những người chính thức và phi chính thức trực thuộc hoặc có liên quan đến chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Không giống như các palei cổ truyền, các palei trong ấp chiến lược chỉ là nơi để ở. Cư dân Churu phải tự đi tìm đất ruộng phân tán ở nhiều nơi, ngoài ấp chiến lược để trồng trọt, trong đó có đất

quanh lòng hồ Đại Ninh. Một số người trong làng phải đi làm thuê (nữ làm cỏ;

nam khai thác gỗ) cho người Kinh, người Tày, Nùng (ở Liên Nghĩa, Đức Trọng).

Từ năm 1968 đến năm 1970, việc thu hoạch lúa và bắp không được nhiều do làm trên vùng đất lạ và bị thú rừng phá.

Nhiều người già và trẻ em đã chết vì bệnh và đói. Năm 1970, người Kơho (Srê) đã cho người Churu mượn một số khu đất ruộng còn để hoang. Khoảng 10% số hộ người Churu ở Đạ Gough đã mượn ruộng để canh tác lúa nước. Cuộc sống của một số gia đình đã đỡ đói hơn do kết hợp làm nhiều nghề(11). Tuy vậy, nhiều gia đình Churu không có đủ gạo để ăn trong ngày. Thường chỉ có một bữa cơm, một bữa cháo, một bữa bắp hoặc khoai mì. Thiếu rau để ăn, người Churu khi đó phải ăn cả cây lục bình trôi dạt trên sông Đa Nhim. Họ không dám vào rừng lấy măng, củ, quả và rau vì sợ trúng bom đạn, sợ bị truy xét là tiếp tế lương thực cho cộng sản(12).

Ở ấp chiến lược, các lễ cưới hỏi, ma chay đều phải tiết giảm về nghi lễ và qui mô tổ chức. Nhà trai không còn khắt khe đòi thách cưới bằng chiêng, ché hay trâu, bò nữa. Đám tang, theo phong tục cổ truyền phải có giết trâu, nhưng lúc này ít có hộ gia đình nào thực hiện được, vì không có trâu. Các nghi lễ cúng tế và ăn uống thường chỉ gồm gà, vịt và heo. Họ cũng không có dê để trao đổi hay cúng tế.

Việc chữa bệnh bằng cách hiến tế động vật cho thần linh, ma quỷ (như lời của thầy cúng yêu cầu) và tiệc ăn uống (rượu) của người Churu đã giảm rõ rệt. Nhiều người vì cúng tế, ăn uống phải vay mượn trâu, bò, mua rượu… có thể làm

(7)

cho họ thêm đói khổ(13). Nhiều người Churu đã đặt niềm tin và cuộc sống của mình vào Chúa. Họ đến nhà thờ, nghe giảng đạo và thực hành đức tin qua sự giảng giải của linh mục/mục sư. Người Churu cho rằng mình đã có một cuộc sống mới, Chúa sẽ cứu khổ cho họ, từ nay họ không phải cúng tế cho thần linh các con vật như trâu, bò, dê, heo, gà nữa.

+ Từ sau 1975: hồi hương để tìm lại quyền sử dụng đất của tổ tiên

Năm 1975, khi kết thúc chiến tranh, tại ấp chiến lược Đạ Gough và M’lon dân số người Churu đã tăng lên đông hơn nhưng không đủ đất và không có phương tiện sản xuất, thiếu cây cối làm nhà ở. Các gia đình đều muốn về palei cổ truyền của mình. Người Churu ở Đạ Gough và M’lon xin chính quyền địa phương cho họ được hồi hương.

Khoảng 1 tháng sau khi kiến nghị, chính quyền chấp nhận và cho xe tải chở dân Churu ở Đạ Gough cùng đồ đạc của họ về tập trung tại xã Tà In (palei Chơ Răng Hao-Tahine). Chính quyền không cho họ về lại palei cũ nhằm kiểm soát cư dân và chống lực lượng FULRO đang hoạt động tại Tây Nguyên(14).

Năm 1976, chính quyền đã chia trung tâm xã Tà In thành 5 khu định cư, ranh giới cũng có đường đất và có hàng rào bằng cây xung quanh, có du kích bảo vệ.

- Khu 1: palei soop (1, 2, 3) có 45 hộ(15). - Khu 2: palei Hanah Rbei, Triah có hơn 25 hộ.

- Khu 3: palei Mah Am, Sre tup có hơn 40 hộ.

- Khu 4: Các palei khu vực Loan (Bơ yoat, Sre đăng, Sre đàng,M’tôl, Chơ pơdi, Jrot, M’koat, Tô o briang) có hơn 70 hộ.

- Khu 5: Các palei Tahine (gồm có Bu liang, Da kră, Chơ thap, Chơ rup, Kal lung, D’riah, Sre boh, Sre Lat, Sre kop, Hamah rup, Chơ buh) có khoảng 50 hộ.

Trong khu định cư ở Tà In, mỗi hộ gia đình cất nhà cách nhau 2m, như thời kỳ ở ấp chiến lược Đạ Gough. Năm 1977, lực lượng FULRO đã đánh phá vào khu vực Tà In làm chết 6 người dân và 3 dân quân/du kích(16).

Từ năm 1976-1983, chính quyền tổ chức cho người dân sản xuất theo mô hình tập thể, thành lập các “tập đoàn sản xuất”. 5 khu dân cư được chia thành 5 tập đoàn sản xuất, mỗi tập đoàn khoảng 60 hộ.

Đàn ông, chồng và con trai trên 18 tuổi trong mỗi hộ là lao động chính, vợ và con gái hay cha mẹ già trên 60 tuổi là lao động phụ. Lao động chính bắt buộc phải đi làm trong tập đoàn. Năm 1981, các tập đoàn cùng nhau xây dựng đập thủy lợi dẫn nước về đồng ruộng Tahine, nên sản xuất được 2 vụ lúa/năm. Lúc này, một ngày công của lao động chính được quy đổi bằng 5kg lúa; 1 ngày công của trâu kéo (cày, bừa) qui đổi bằng 10kg lúa (nhưng ít gia đình có trâu); 1 ngày công của lao động phụ qui đổi bằng 3kg lúa.

Tuy nhiên, làm ăn theo mô hình tập thể có năng suất thấp. Năm 1988, chính quyền thực hiện Khoán 10, chia ruộng cho mỗi hộ (theo nhà ở) 5 sào (5000m2), hộ ít người nhận được 3 sào. Nhà nước hỗ trợ giống, phân bón để người dân sản xuất, tổ chức phát hoang đất đồi chia cho

(8)

cư dân mỗi hộ thêm 2000m2 đất. Vẫn thiếu đất canh tác, người Churu chủ động tự đi tìm đất rừng cách xa nơi ở, cải tạo đất đồi trọc để tăng thêm diện tích trồng trọt. Một số ít hộ dân trở về khai phá làm ăn trên các palei cũ của tổ tiên.

Đến lúc này, mỗi hộ gia đình vừa có đất ruộng do tập đoàn chia; có đất rẫy tự khai phá; đất vườn và thổ cư để ở (chính quyền phân lô 1-2,5 sào/hộ).

Đáng chú ý, từ năm 1978, khu vực xã Đà Loan và Ninh Loan (hiện nay) trở thành hai khu kinh tế mới. Các hộ gia đình người Kinh từ thành phố Đà Lạt đến(17), định cư tại palei Sre Boh thuộc xã Đà Loan. Các hộ gia đình người Kinh từ các tỉnh các tỉnh Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình)(18)đến định cư tại xã Ninh Loan. Họ đã khai phá và canh tác đất ruộng tại các palei cũ của người Churu. Đến những năm 1990, người Kinh ở vùng Loan đã khai phá hàng ngàn hecta rừng, đồi trọc để trồng cà phê, bắp và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhiều hộ gia đình làm nghề mua bán nông sản. Do giá cà phê, bắp tăng cao (năm 1994), người Kinh đã làm cho vùng Loan, nhất là trung tâm xã Ninh Loan và xã Đà Loan, trở thành những “thị trấn” mua bán và dịch vụ nhộn nhịp. Vùng Loan đã trở thành nơi sản xuất kinh tế hàng hóa, nông - thương nghiệp phát triển(19), không còn sản xuất tự cung tự cấp như trước đây nữa.

Đến đầu năm 1990, do lực lượng FULRO không còn hoạt động mạnh và chính quyền nới lỏng kiểm soát, người Churu đã “tự phát” tìm về các khu đất cũ của dòng họ để trồng lúa và bắp. Chẳng hạn, người Churu tại M’lon (Thạnh Mỹ) di

chuyển về đất tổ tiên của mình ở xã Tà Năng, Đạ Quyn hiện nay(20).

Nhưng sau hơn 20 năm rời khỏi palei, khi quay lại palei cũ, nhiều thứ đã thay đổi, đất đai hoặc đã thành rừng, hoặc đã có cư dân Kinh tế mới đến sinh sống, canh tác, v.v. Trường hợp người Churu thuộc các palei ở xã Ninh Loan là một ví dụ, họ không có cơ hội để hồi hương nữa, vì đất tổ tiên (palei) của họ đã được chính quyền qui hoạch và phân chia cho người Kinh đến theo chương trình Kinh tế mới từ năm 1978(21).

Hoàn cảnh của người Churu ở các palei thuộc khu vực Đà Loan như Soop (1, 2, 3), Hanah Rbei, Mah Am, Sre Tup, thì có khác. Vào thời gian trước khi hồi hương họ vẫn đưa người chết về chôn ở mộ tổ tiên, nằm giữa các khu đất ruộng nước.

Các palei này cách xa khu dân cư Kinh tế mới Đà Loan, nên người Kinh còn ít đến khai hoang tại đây. Khi người Churu đề nghị chính quyền được trở về sinh sống trên đất palei tổ tiên, họ đã lấy ngôi mộ tổ tiên và những đền cúng tế thần linh tại các palei để làm minh chứng với chính quyền và người Kinh (dân đi kinh tế mới) về nguồn gốc đất đai và quyền sử dụng của họ(22).

Hơn một năm sau (1991), 42 hộ gia đình Churu thuộc palei Soop đã tự liên hệ với Ủy ban Nhân dân xã Đà Loan để xin nhập khẩu về palei cũ và được chính quyền cho phép. Những hộ gia đình này đã cắt khẩu, giao đất cho chính quyền xã Tà In để chia thêm cho người Churu còn ở lại đây.

Khi về palei Soop, người Churu đã có lời xin lại những khu đất mà người Kinh đã

(9)

khai phá. Người Kinh yêu cầu trả công khai hoang: 25.000đồng/1.000m2 đất đồi/vườn, 50.000đồng/1.000m2 đất ruộng.

Đến năm 2005, người ở palei Soop, Mah am đã trả hết tiền công khai hoang cho người Kinh tại nhiều khu đất. Tuy vậy, tại khu vực Soop đến nay vẫn còn 15 hộ người Kinh đang canh tác cà phê, chanh dây, nuôi cá, nuôi bò, heo. Người Churu palei Soop, Mah Am về đây làm lúa (1-2 vụ/năm), năng suất 6 tấn/vụ/1ha (năm 2011). Một số hộ chăn nuôi gà, heo và trâu bò, nhưng số lượng hạn chế do đất chăn nuôi không có nhiều. Phần lớn đất rừng quanh các khu ruộng nước của người Churu đã thành vườn cà phê của người Kinh.

Từ năm 1991, palei Soop, Mah am trở thành thôn (đơn vị hành chính) với nhiều thay đổi về tổ chức xã hội. Năm 2001, thôn Soop đã có điện lưới quốc gia kéo đến, có đường giao thông đi lại đến trung tâm xã, có các điểm trường (từ lớp 1 đến lớp 3) được mở tại thôn để dạy chữ cho con em Churu. Vị thế xã hội của già làng, thầy cúng, bà mụ, v.v. (như trong xã hội trước 1968) không còn như trước. Tín ngưỡng cổ truyền đã được người Churu coi là “mê tín dị đoan”. Hoạt động cúng tế và ăn uống cộng đồng trong các nghi lễ cúng tế như xã hội cổ truyền không còn, bởi trong tâm thức đã phai nhạt và lễ vật để cúng tế như trâu, heo, gà, dê cũng trở thành tài sản mà mỗi hộ gia đình nay khó nuôi được. Khi hỏi về phong tục tập quán, nhiều người Churu đã nói rằng: ở đây sống như người Kinh rồi!

Như vậy, sau 1975, dù một bộ phận người Churu đã được hồi hương trở về với palei tổ tiên, nhưng người Churu

không còn được sinh sống trong không gian tự nhiên và xã hội như trước 1960 nữa. Hoạt động kinh tế của các palei không còn tự cung tự cấp. Việc sản xuất nông sản (cà phê, bắp, củ, quả và lúa,) là để bán cho thị trường và người Kinh đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động mua bán nông sản trong vùng(23). Sau những biến cố của chiến tranh và các chính sách phát triển của nhà nước(24), mỗi palei khi hồi hương trở về đã có quyền sử dụng đất đai và hoạt động sinh kế theo những cách khác nhau.

Với người Churu ở palei Soop: năm 2004, chính quyền xây dựng đập hồ Soop và hệ thống thủy lợi để dẫn nước về đồng ruộng ở xã Đà Loan. Công trình đã lấy đi 27ha đất ruộng của palei Soop.

Nhà nước đền bù cho người Churu hơn 2 triệu đồng/1 sào. Những cư dân không còn đất sản xuất phải đi làm thuê cho người Kinh (trồng, hái cà phê), một số lấy tiền đền bù mua đất của cư dân ở palei Mah Am (theo quan hệ hôn nhân) để trồng lúa.

Khi người Churu từ M’lon trở về palei của mình ở Tà Năng và Đạ Quyn, thì nơi này cũng đang có nhiều dự án khai thác khoáng sản (vàng), lâm sản, định canh- định cư của chính quyền. Năm 1987, các công ty nhà nước đã khoanh vùng khai thác vàng dọc theo suối Đạ Quyn (thuộc K.65, K. 66, K.67 và K.70), họ có quyền mua bán đất ruộng đang trồng lúa của người Churu ở đây. Nhiều hộ buộc phải bán ruộng cho công ty khai thác vàng và đi làm thuê. Trong khi đó các khu đất đồi, rừng bao quanh Đạ Quyn, trở thành làng mới của hàng trăm hộ người Cil (Cơho- Chil) từ xã Phú Hội, N’Thôn Hạ do thiếu

(10)

đất sản xuất được chính quyền chuyển đến. Những khu rừng có độ dốc cao thì do lâm trường nhà nước quản lý. Vì vậy, diện tích đất trồng lúa của người Churu bị thu hẹp, nuôi trâu cũng không được vì hết chỗ chăn.

Người Churu còn sống bằng nghề trồng lúa và cần sức kéo, nên khi không còn chỗ chăn trâu thì họ đã trao đổi (hoặc bán) trâu để lấy máy cày. Năm 1998, những hộ người Churu còn nuôi được trâu đã đổi khoảng 6 con trâu để lấy 1 máy cày của người Kinh. Máy cày đã thay thế con trâu trên đồng ruộng của người Churu ở vùng Loan. Không còn con trâu, người Churu phải mua phân hóa học, thuốc cỏ và cả lúa giống để đảm bảo năng suất.

Trước năm 1960, người Churu đã dùng trâu, heo, bò và các sản vật ở rừng là những tài sản trao đổi, thách cưới, cúng tế thần và tiệc ăn lúc tang ma. Sau năm 1990, mọi thứ trao đổi và chi tiêu đã được qui ra bằng tiền. Đến sau năm 2000, nhu cầu cần có số tiền lớn ngày càng gia tăng trong các hộ gia đình do họ phải giải quyết các vấn đề về nhà ở, ăn uống, chữa bệnh, học hành, cưới hỏi, tang ma, v.v. Nhưng, khi không còn nuôi trâu hay các gia súc khác, cũng như không được khai thác các lâm sản từ rừng, đất đai trở thành tài sản đắt giá nhất có thể đem bán để có tiền. Vì vậy, từ những năm 1990, mặc dù thiếu đất sản xuất nhưng việc mua bán, sang nhượng đất đai giữa người Churu với người Kinh đã diễn ra phổ biến. Đến nay, người Churu ở vùng Loan vẫn là những hộ nông dân nhưng quyền sử dụng đất và sinh kế đã biến đổi sâu rộng. Hộ gia

đình thiếu đất để trồng trọt và chăn nuôi ngày càng tăng. Vì vậy, thay đổi sinh kế với nhiều người Churu là cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Thế nhưng, không ít người Churu vẫn chưa tìm được sinh kế có tính ổn định lâu dài trước sự phát triển mới ở vùng Tây Nguyên.

3. KẾT LUẬN

Từ những năm 1960 đến nay, lịch sử xã hội của các tộc người ở Tây Nguyên đã trải qua những thay đổi. “Không gian sinh tồn” của các tộc người đã chuyển đổi từ sau những tác động của chiến tranh và chính sách từ 1954 đến nay. Biến đổi xã hội của người Churu ở Lâm Đồng do quá trình ly hương, mất gốc, mất quyền sử dụng đất trong hơn 50 năm qua là thời kỳ mạnh mẽ và triệt để nhất. Người Churu không còn cư trú độc lập trong các palei cổ truyền theo kiểu “vô chính phủ”. Những guồng máy về hành chánh, quân sự, các đoàn thể, tôn giáo, đơn vị kinh tế hay các hiệp hội, v.v. có tính chất quan phương hay phi quan phương, phần nhiều đều đến từ bên ngoài, đã tác động và định hướng đời sống xã hội và sinh kế của người Churu ở Lâm Đồng.

Sau chiến tranh (1975), các nhân tố và động thái của những biến đổi xã hội của người Churu ở Lâm Đồng cũng đa dạng và mạnh mẽ. Đáng chú ý, hiện tượng

“hồi sinh quá khứ”, tái thiết lập lại các giá trị văn hóa, tâm linh và tổ chức xã hội cổ truyền đã không diễn ra. Thực tế, nhiều palei ở vùng Loan hồi hương nhưng không được về “không gian sinh tồn”, không được sử dụng đất đai theo kiểu xã hội cổ truyền nữa. Thêm vào đó, biến đổi xã hội và sinh kế càng mạnh mẽ hơn khi người Churu sống xen kẽ với mật độ cao

(11)

cùng các cộng đồng tộc người khác và trong bối cảnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa và kinh tế thị trường. Đến nay, mỗi palei, mỗi dòng họ hay mỗi gia đình người Churu ở Lâm Đồng đều đã trải qua những hoàn cảnh sống đa dạng.

Riêng trong quyền sử dụng đất và sinh kế, mỗi palei, mỗi hộ gia đình có những phương thức đảm bảo sự sinh tồn tùy theo hoàn cảnh. Bức tranh đa màu sắc về quá trình biến đổi xã hội và sinh kế của người Churu ở Lâm Đồng đã và đang hiển thị rõ nét. Nhưng gần đây, khi điểm luận các công trình nghiên cứu về người Churu, tôi cho rằng nhiều tác giả đã bỏ qua các biến cố lịch sử xã hội đã

và đang tác động mạnh mẽ đến xã hội và sinh kế của người Churu.

Trong phạm vi bài viết này, nghiên cứu được giới hạn trong trình bày những biến cố chính trị - xã hội liên quan đến quyền sử dụng đất và sinh kế của “người Churu ở vùng Loan”. Nhưng nhìn rộng ra lịch sử xã hội của người Churu ở Lâm Đồng đều đã có những xáo trộn to lớn trên nhiều phương diện xã hội, chính trị và kinh tế, nên muốn có những tri thức mới và có giá trị thực tiễn về người Churu các nhà nhân học/dân tộc học cần phải có quá trình nghiên cứu thực địa “đủ lâu”

để hiểu và trải nghiệm các tình huống xã hội từ mỗi cộng đồng dân cư cụ thể.

CHÚ THÍCH

(1) Nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer có các nhóm địa phương của dân tộc Cơho, Mạ, M’nông;

nhóm ngôn ngữ Malayo-Polenesian có các dân tộc Churu, Raglai.

(2)Trong hệ thống hành chính của Việt Nam Cộng hòa (ở miền Nam), từ tháng 5/1958 đến tháng 4/1975, địa bàn hành chính (quận) Đơn Dương và Đức Trọng thuộc tỉnh Tuyên Đức.

(3)Trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa có dữ liệu kiểm chứng về qui mô cộng đồng người Churu đang sinh sống tại các khu vực khác như ở Di Linh (Lâm Đồng), Ninh Thuận và Bình Thuận.

(4)Theo người Churu, chữ Lơwak được hiểu là khu vực đất đai rộng lớn với bao nhiêu dân cũng không lấp đầy.

(5)Theo người Churu, người Raglai ở gần vùng Loan có nghề rèn tinh xảo hơn nên thường đổi sản phẩm rèn của họ với người Churu để lấy trâu, heo, dê, gà.

(6)Một người Churu ở Tà In kể lại, hồi đó lính Việt Nam Cộng hòa đổ bộ xuống bất ngờ và nói

“ai không đi thì bắn bỏ!, phải bỏ palei mà đi để được sống”.

(7)Năm 1963-1968, cư dân palei Soop 1, Soop 2, Soop 3 bị dồn lại cư trú chung tại ấp chiến lược ở Soop 2. Các hộ gia đình thuộc dòng họ Kơtor, Tơ Pur, Hal Wal (Soop 1) và các hộ thuộc họ D’wang, Tor Pur (Soop 3) đã đến định cư chung tại soop 2 có họ Bnahria, D’Wang, Tơ Pur, nhưng vẫn canh tác đất tại làng của mình (Soop 1 và 3).

(8) Trong quản lý hành chính của Việt Nam Cộng hòa (1958-1975), người Churu cư trú tại quận Đơn Dương và quận Đức Trọng thuộc địa phận tỉnh Tuyên Đức.

(9)Chủ yếu như đất đai, gia súc (chủ yếu là trâu), chiêng, ché và công cụ sản xuất, v.v.

(10)Khi hỏi về các biến cố chính trị, các thông tín viên chủ yếu là những người đã cao tuổi nên việc nhớ lại vị trí định cư của các palei ở từng khu (1, 2, 3, 4, 5) trong ấp chiến lược không giống nhau.

(12)

(11) Cuối năm 1969, chính quyền không còn trợ cấp gạo muối, người dân chỉ nhận được những khoản cứu trợ không thường xuyên từ các đoàn từ thiện.

(12)Ý kiến của nhiều thông tín viên cao tuổi người Churu tại các palei mà tôi đã hỏi chuyện.

(13)Năm 1968, tại ấp chiến lược Đạ Gough, các palei chỉ còn khoảng 20 hộ giữ tín ngưỡng truyền thống, chưa theo đạo Công giáo hay Tin Lành.

(14)“Cuối 1981, lực lượng FULRO ở Lâm Đồng có 450 người […], riêng ở Đức Trọng, FULRO đã xây dựng được các khung xã, ấp với hàng ngàn tên nằm vùng và có hơn 200 tên ngoài rừng” dẫn theo sáchLịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Đức Trọng, 1945-2010.Nxb.

Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2012, tr. 192-194.

(15)Năm 1976, palei Soop còn 5 hộ vẫn theo tín ngưỡng truyền thống, chưa theo đạo Kitô giáo.

(16)Theo một số thông tín viên, sau sự kiện này, người Churu đã kết hợp với chính quyền địa phương để truy lùng tàn quân FULRO, đến năm 1988 thì không còn dấu vết lực lượng này ở trong vùng.

(17)Người Kinh theo Chương trình Kinh tế Mới đã đến xã Đà Loan đợt 1 từ tháng 11/1977 và đợt 2 từ tháng 10/1979.

(18)Xã Ninh Loan có hơn 32.000km2, cư dân Kinh tế mới ở đây phần lớn là giáo dân Công giáo. Đến năm 2014, giáo xứ Ninh Loan (gồm 5 xã vùng Loan) đã có hơn 10.000 giáo dân (bao gồm giáo dân là người Kinh đi Kinh tế mới từ Hà Nam Ninh và từ thành phố Đà Lạt đến;

và người Churu ở vùng Loan).

(19)Trong những năm 1990, dân di cư tự do cũng đã đến mua lại đất đai và khai phá (tự phát) đất đai để định cư ở vùng này, có cả người các dân tộc ở miền núi phía bắc như Sán Dìu, Tày, Nùng, Thái, Mường, Cao Lan, v.v.

(20)Người Churu ở vùng Tà Năng chủ yếu thuộc các dòng họ B’Nahria, Touh Neh, Chơ Ranghao.

(21)So với Đà Loan, từ năm 1975 đến 1988, xã Ninh Loan được xem là khu vực rừng núi có lực lượng FULRO hoạt động chống phá mạnh hơn.

(22)Có một thực tế, nhiều người Kinh đến thời điểm này vẫn sợ người Churu có bùa yểm trên đất tổ tiên của họ nên cũng không muốn tranh chấp.

(23)Năm 2011, xã Đà Loan đã có 1170 hộ với dân số có hơn 10.000 dân, chủ yếu là người Kinh, Churu và Cơho-Cil, di cư từ xã Phú Hội đến. (Nguồn: số liệu thống kê của Ủy ban Nhân dân xã Đà Loan, 2012).

(24)Trong bài viết này, chúng tôi chưa có dịp trình bày đầy đủ và cụ thể hơn các chính sách của nhà nước kể từ sau 1960 đến nay.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

1. Ban Chỉ huy quân sự huyện Đức Trọng. 2012.Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Đức Trọng (1945-2010). Hà Nội: Nxb. Quân đội Nhân dân.

2. Đặng Nghiêm Vạn. 1980.Bàn về lịch sử tộc người và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa cư dân Tây Nguyên.Tạp chí Dân tộc học, số 3.

3. Hoàng Sơn (chủ biên). 2009.Người Chu-ru ở Lâm Đồng. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc.

4. Nguyễn Văn Diệu. 1984.Dân tộc Chu Ru trong Các dân tộc ít người ở Việt Nam (ở phía Nam).Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.

(13)

5. Trần Sỹ Thứ. 1999.Dân tộc, dân cư Lâm Đồng.Hà Nội: Nxb. Thống kê.

6. Viện Dân tộc học. 1984.Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam). Hà Nội: Nxb.

Khoa học Xã hội.

7. Võ Tấn Tú. 2010.Hôn nhân và gia đình của người Chu Ru ở tỉnh Lâm Đồng,Luận án Tiến sĩ khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM.

Referensi

Dokumen terkait