• Tidak ada hasil yang ditemukan

"DÂN LÀ GỐC" - ĐẾN ĐẠI HỘI XIIICỦÃ ĐẢNG

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan ""DÂN LÀ GỐC" - ĐẾN ĐẠI HỘI XIIICỦÃ ĐẢNG"

Copied!
4
0
0

Teks penuh

(1)

"DÂN GỐC" -

BÀI HỌC Từ LỊCH sử DựNG Nước ĐẾN ĐẠI HỘI XIIICỦÃ ĐẢNG

* ThS KHÚC THỊ HOÀN

7 rường Đại học Kỹ thuật - Hậu cần, Bộ Công an

Tóm tắt: “Dân là gốc” có nghĩa dân là sức mạnh, nguồn sống của đất nước, dân được sống yên ổn thì C fất nước mới ổn định, dân có được ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới mạnh, mới phồn vinh. “Dân là gốc

mạc

’ - bài học lịch sử vô giá từ thời dựng nước đã được bao thế hệ anh hùng, hào kiệt sử dụng trở thành

•h nguồn bồi đắp làm nên thắng lợi huy hoàng, rực rỡ của dân tộc. Trước yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân nhằm tăng cường sức mạnh nội sinh của dân tộc, thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, việc quán triệt tư tưởng “dân là gốc ” từ lịch sử ông cha dựng nước đến nay là rất thiết thực

Từ khóa:dân là gốc, lịch sử dựng nước, Đại hội XIII

E

ịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã chứng minh rằng: Thời kỳ nào, giai đoạn nào các vương triều quan tâm, chăm lo, được

ìing, hào kiệt sử dụng ưở thành mạch nguồn p làm nên thắng lợi huy hoàng, rực rỡ của dân lòng dân thì cách mạng thuận lợi, giành được nhiều thắng lợi; ngược lại thời kỳ nào, giai đoạn nào, vương triều nào không quan tâm đến cuộc sống của bách tính, muôn dân thì nội bộ lục đục, cách mạng sẽ gặp khó khăn. Theo đó, “dân là gốc” - bài học lịch sứ vô giá từ thời dựng nước đã được bao thế hệ anh h

bồi đi ]

tộc. Đến Đại hội XIII của Đảng, một lần nữa bài học này được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong diễn văn khai mạc Đại hội:

“Tron mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn ừọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dần bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(1)-

1. Quan điểm “dân gốc” trong lịch sử đấtnước

“Dân là gốc” tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tiến trình phát triển cách mạng Việt Nam, đặc biệt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đúng đắn, kịp thời, phù hợp, hiệu quả vđi mỗi giai cấp, tầng lớp nhân dân để khơi dậy, phát huy các nguồn lực trong nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của nước nhà. “Dân là gốc” có nghĩa dân là sức mạnh, nguồn sống của đất nước, dân được sống yên ổn thì đất nước mới ổn định, dân có được ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới mạnh, mới phồn vinh sánh vai với cường quốc năm châu thế giới như niềm mong ước của Bác Hồ. Dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc và nhiều cuộc chiến tranh xâm lược khác nhau, với nhiều loại kẻ thù lớn nhỏ, vũ khí trang bị kỹ thuật rất tối tân hiện đại nhưng đều bị thất bại, thua cuộc trước sức mạnh như triều dâng của nhân dân.

TẠP CHÍ THÔNGTIN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ-Số 04 (251-2021 «( 5

(2)

ĐƯA NGHỊQUYẾTĐẠI HỘIXIII CỦA ĐẢNG VÀO cuộc SỐNG

Tư tưởng “trọng dân”, “thân dân”, “khoan thư sức dân” là một trong những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Xuất phát từ đặc trưng riêng biệt trong lịch sử của dân tộc là dựng nước đi đôi với giữ nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và truyền thống nông nghiệp trồng lúa nước đồi hỏi phải phát huy tinh thần cộng đồng, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Cho nên, tư tưởng

“nước lấy dân làm gốc” được hình thành từ rất sớm và phát triển trở thành một hệ thống tư tưởng, một trong những đặc trưng của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử dân tộc cho thấy, tư tưởng “trọng dân”, “khoan thư sức dân” được thể hiện rõ nét qua những câu chuyện truyền thuyết.

Câu chuyện mang tính huyền thoại về Thánh Gióng đánh tan giặc Ân đã minh chứng cho chúng ta thấy rõ tư tưởng trọng dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, khởi nguồn của tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của vua, quan triều đình phong đến trong lịch sử dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của những thủ lĩnh, vương triều đã quy tụ, tập hợp, đoàn kết được đông đảo các tầng lớp nhân dân. không phân biệt thành phần, lứa tuổi, ai có tình yêu quê hương đất nước, lòng căm thù giặc sâu sắc đều có thể gia nhập vào các đội quân đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, bảo vệ giang sơn đất nước. Vị vua đầu tiên của triều đại nhà Lý (Lý Công uẩn) đã có một quyết định đúng đắn, sáng suốt, vì nước, vì dân, thể hiện tư duy và tầm nhìn của bậc thánh nhân khi quyết định xuống Chiếu dời đô về thành Đại La. Song dù quyền lực có trong tay nhưng vua Lý Công Uẩn đã không một mình quyết định. Trước khi dời đô về thành Đại La, năm 1010, Thái Tổ Hoàng đế đã viết thủ chiếu rằng: “Trên kính mệnh trời, dưới theo lòng dân để thấy được những quyết sách đều thuận theo lòng dân. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã từng căn dặn vua Trần Anh Tông rằng: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữa nước”, nhờ đó, mà nhà Trần đã ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông. Hồ Nguyên Trừng nhà chính trị, quân sự kiệt suất cho vương triều nhà Hồ đã nói: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi”.

Nguyễn Trãi nhà quân sự lỗi lạc, người anh hùng của dân tộc có những đúc kết rất sâu sắc thấm thìa:

“Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sông, nghịch lòng dân thì chết”.

Đến thời đại Hồ Chí Minh quan niệm về vai trò của nhân dân được phát triển lên một trình độ mới khác về chất. Người khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng trước hết thể hiện ở chỗ, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng nhân dân thể hiện rõ vai trò lịch sử của mình thông qua những hành động cụ thể để làm nên thắng lợi của cách mạng. Cách mạng muốn thành công tất yếu phải thực hiện công tác phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, phải nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn, rộng rãi của quần chúng nhân dân, phải nhận thức rõ vai trò lịch sử của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.

Khi luận giải vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh đánh giá nhân dân là lực lượng có sức mạnh vô địch, vô tận. Theo Hồ Chí Minh: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”. Đánh giá đúng vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là nhân tố then chốt bảo đảm cho mọi thắng lợi. Người khẳng định: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”. “Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”. Tin dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của Người. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến lược cách mạng của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của Người, dân là gốc của nước, là cội nguồn của mọi sức mạnh của Đảng và của sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình phát triển của cách mạng, Người thường xuyên nhắc nhở: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”; “nước lấy dân làm gốc”; “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

Những dặn dò, chỉ bảo của những bậc tiền nhân trong lịch sử đến nay vẫn còn nguyên giá trị, mang tính thời sự nóng hổi, đặt ra cho người đứng đầu các địa phương phải tích cực, chủ động cụ thể hóa, thể chế hóa đưa nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống. Có như vậy, tư tưởng

“dân là gốc” mới thực sự phát huy hiệu quả, có tác dụng mạnh mẽ, to lớn động viên, khuyến khích

6 TẠP CHÍ THÒNG TIN KHOAHỌC CHÍNH TRỊ-Sô'04 (25)-2021

(3)

202:

hu'(ì thế,

nhân dân tham gia vào mọi hoạt động chung của đất nước, góp phần thực hiện có hiệu quả những mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra đến năm '5 là nước đang phát triển có công nghiệp theo ìng hiện đại, vượt qua mức trung bình thấp. Vì tư tưởng “dân là gốc” đã được Đảng ta quán triệ:, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi giai đoạn, thời kỳ cách mạng, tạo thành sức mạnh vật chất, tinh thần to lón của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ựng xây đất nước hiện nay. Nhiều nghị quyết, chị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về quan điểm, tư tưởng “dân là gốc” được ban hành, như: Nghị quyốt Trung ương 3 khóa VIII về “Phát huy quyền chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước và qi

chỉ

làm

hiện Quy chế dân chủ ở cở sở” (18/2/1998);

Cộn Ị hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh” (6/1997); Chỉ thị 30 về “Xây dựng và thực

Kết luận 120 về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” (7/1/2016); Kết luận số 120-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục dẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”

(16/7/2018); một trong năm bài học rút ra từ thực tiễn công cuộc đổi mới, nhất là sau 5 năm thực hiện nghị

thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu ra trong diễn văn khai mạc Đại hội XIII của Đảng là “trong mọi công việc của Đảng, Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”. Điều đó cho thấy,

đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

2.

học của Đảng

Tn. dc yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của sụ

nước, chống

lược “diễn biến hoà bình” chia rẽ mối quan hệ gắn bó máù thịt giữa Đảng vđi nhân dân. Do vậy, để tăng cường sức mạnh nội sinh trong nhân dân, thực hiện th íng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, V iệc quán triệt tư tưởng “dân là gốc” của ông cha từ

quyết Đại hội XII của Đảng, được Tổng Bí

quan điểm, tư tưởng “dân là gốc” có vị trí xã hội ở nước ta.

Một số biện pháp tiếp tục phát huy bài dân gốc” theo tinh thần Đại hội XIII

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất ihất là xu thế mở cửa hội nhập quốc tế, sự phá của các thế lực phản động bằng chiến

ịch sử dựng nước đến Đại hội lần thứ XIII

của Đảng là rất thiết thực, cụ thể, theo đó cần tập trung vào một số biện pháp:

Một là, quán triệt và cụ thể hóa, thể chế hóa những quan điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước “dân là gốc” vào từng cấp, từng ngành, từng địa phương

Phát biểu bế mạc Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nưóc Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: Ngay sau Đại hội tất cả các cấp ủy, tổ chức đảng cần nghiên cứu, quán triệt sâu sắc Nghị quyết và các văn kiện Đại hội... vượt qua mọi khó khăn, thách thức để sóm đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống, biến những quyết định của Đại hội thành hiện thực sinh động trong thực tế. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phối kết hợp lực lượng có liên quan xây dựng chương trình, kế hoạch hành động phù hợp với đặc điểm, tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra; tổ chức phát động phong trào thi đua yêu nước ở mỗi ngành, mỗi cấp, dấy lên niềm tự hào, tinh thần phấn chấn, hồ hởi trong các tầng lớp nhân dân, trước hết đoàn kết chiến thắng dịch bệnh Covid - 19, tập trung phát triển sản xuất, đẩy lùi đói nghèo, lạc hậu, các tệ nạn xã hội, xây dựng tinh thần tương thân, tương ái trong nhân dân; nâng cao chất lượng cuộc sống; khơi dậy trong các tầng Iđp nhân dân phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của dân tộc để thực hiện có hiệu quả những chỉ tiêu, nội dung mà đại hội các cấp đã xác định; người đứng đầu chính quyền cơ sở phải nghiên cứu kỹ địa phương mình mạnh cái gì, nơi nào có thể đầu tư, hỗ trợ để nhân dân phát huy thế mạnh của mình thì phải tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt, nhất là kinh phí, cơ sở vật chất, đầu ra cho sản phẩm.

Hai là, quan tâm, chăm lo đến đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn

Đây là nội dung rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống. Chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước là đúng, trúng, hợp lòng dân, nếu đội ngũ cán bộ cơ sở không tổ chức triển khai thực hiện, không nâng cao được đời sống của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đói kém, lạc hậu thì những chủ trương, đường lối đó mãi chỉ ở trên giấy tờ. Theo đó, quan tâm, chăm lo đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân không có nghĩa là nhân dân nói gì thì làm, bảo gì

TẠP CHÍ THÔNGTINKHOA HỌC CHÍNH TRỊ-Số 04 (25)-2021 «( 7

(4)

ĐƯA NGHỊ QUYẾTĐẠI HỘĨ XIII CỦA ĐẢNG VÀO cuộc SỐNG

phải nghe, mà phải quan tâm, chăm lo đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân một cách đúng đắn, kịp thời, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn, sinh sống phát triển trong khuân khổ của Hiến pháp, pháp luật, truyền thống, phong tục của địa phương; công khai, minh bạch trong xử lý những khiếu kiện, thắc mắc của nhân dân, không gây khó dễ cho nhân dân trong quá trình giải quyết công việc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trong điều kiện ngày nay, nếu không chăm lo một cách cụ thể, thiết thực đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thì dù có nói bao nhiêu về quan điểm quần chúng, về quyền làm chủ của nhân dân cũng đều là vô nghĩa và không có sức thuyết phục”(I) (2). Cán bộ các cấp, nhất là cấp cơ sở phải lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, giải quyết những khó khăn của nhân dân trong phạm vi, quyền hạn của mình; muốn vậy, phải thường xuyên xuống cơ sở, bám sát cơ sở để thấy được thực tế đời sống lao động sản xuất, chất lượng cuộc sống của nhân dân có đúng với báo cáo mà hàng tháng cấp dưới vẫn báo cáo không; chỉ đạo cấp dưới tiến hành rà soát các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn, mắc bệnh hiểm nghèo để hỗ trợ, giúp đỡ... Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì Nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”(3).

(I)ĐảngCộng sản ViệtNam (2021), Văn kiện Đại hộiđại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chínhtri quốc gia -Sự thật,Nội, tập 1, tr.27

(2) http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Toan-van-phat-bieu-cua- Tong-Bi-thu-ve-cong-tac-dan-van/255067.vgp

(3)Nguyễn Phú Trọng(2019): Quyết tâmngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, NxbChínhtrịquốc gia - Sự thật,Nội, tr.l 16-117 (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chínhtrị quốc gia - Sựthật, Nội, 2011, tập7, tr.27O

<5) Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâmngăn chặn đẩy lùitham nhũng, Sđd?tr.8O.

Ba là, phát huy vai trò giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là Mặt trận Tổ quốc

Các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, như:

Đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, nhất là Mặt trận Tổ quốc phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình đối với các hoạt động chính trị - xã hội ở địa phương; những tổ chức chính trị - xã hội này được thành lập không phải để cho hay, cốt cho có mà phải có tiếng nói của mình, bày tỏ thái độ đồng tình hay chưa đồng tình, ủng hộ hay chưa ủng hộ, tất cả phải đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên hết, không được mạnh tồ chức nào thì tổ chức ấy phát biểu, mỗi người một

kiểu, phải có sự bàn bạc, phối kết hợp vói nhau giữa các tổ chức chính trị - xã hội tìm ra tiếng nói chung. Các tổ chức chính trị - xã hội chính là nơi tiếp xúc nhiều với nhân dân, hàng ngày, hàng giờ ở trong nhân dân, họ rất hiểu những băn khoăn, lo lắng và mong muốn, khát vọng của nhân dân.

Phát huy được vai trò giám sát, phản biện của các tổ chức này là rất quan trọng, tăng thêm độ tin cậy của nhân dân vào đội ngũ cán bộ các cấp, góp phần đưa nghị quyết của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Theo đó, những người đứng đầu của các tổ chức chính trị - xã hội phải làm tốt công tác dân vận; năng nổ, nhiệt tình, trách nhiệm đối với lĩnh vực mình đảm nhiệm; làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với cấp ủy chính quyền địa phương về những khó khăn, băn khoăn với nhân dân trong quá trình tiếp xúc, tuyên truyền, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; phải thông cảm, chia sẻ và biết chờ đợi nhân dân, không gò ép áp đặt một cách thô bạo với nhân dân; đồng thời, kiên quyết xử lý theo đúng quy định của pháp luật đối với cán bộ, đảng viên tư lợi cá nhân, cục bộ địa phương, làm việc không có lợi cho dân, chỉ lo vun vén, làm giàu cho gia đình, trịch thượng, hách dịch, tham nhũng, nhũng nhiễu nhân dân.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”(4), tư tưởng đó đã trở thành chân lý bất hủ đúng với mọi giai đoạn, thời kỳ cách mạng. Thấm nhuần bài học lịch sử “Dân là gốc” từ thời dựng nước đến Đại hội XIII của Đảng, chúng ta thực hiện tốt, có chất lượng, hiệu quả những nội dung, biện pháp nêu trên theo phương trâm “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”(5) ■

8 ») TẠP CHÍ THÔNG TINKHOA HỌC CHÍNH TRỊ-Số 04 (251-2021

Referensi

Dokumen terkait