CA DAO, DÂN CA LÀNG CHÀI VỊNH HẠ LONG - NÉT VĂN HÓA MANG ĐẬM YẾU TỐ BIỂN
Nguyễn Thị Minh Thu*, Bùi Thị Ngọc Anh Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long là những bài ca ngọt ngào, đằm thắm mà chủ nhân của chúng chính là những ngư dân làng chài đời nối đời sinh ra trên những con thuyền lênh đênh sóng nước, trưởng thành và lập nghiệp gắn liền với biển và nghề đi biển. Vì thế, có thể thấy đậm đà vị biển từ nội dung phản ánh đến các phương diện nghệ thuật trong các bài ca ấy. Đó là bức tranh đẹp, sinh động về cảnh biển, đời sống sinh hoạt của người dân làng chài, là tình yêu, niềm tự hào và cả nỗi nhọc nhằn chất chứa của những người làm nghề đi biển. Hình ảnh con thuyền và các loài sinh vật biển xuất hiện thường xuyên như một dấu ấn, một điểm nhấn. Thể thơ và kết cấu đa dạng, nhiều vẻ đã góp phần tạo ra nét riêng đặc sắc thể hiện phong vị của ca dao, dân ca vùng biển.
Khám phá vẻ đẹp lấp lánh của những lời ca ấy chính là góp phần vào việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống đương đại.
Từ khóa: Ca dao, dân ca, làng chài, vịnh Hạ Long, văn hóa biển
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh không chỉ là địa danh quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam mà còn là điểm đến hấp dẫn với rất nhiều du khách quốc tế. Nhưng có lẽ không phải ai đến vịnh Hạ Long cũng đã có cơ hội được thưởng thức các bài dân ca ngọt ngào, đằm thắm mà chủ nhân chính là những ngư dân sinh sống và làm việc gắn bó ngày đêm với sóng nước trên vịnh Hạ Long. Đó là những người dân chuyên sống trên những con thuyền nhỏ lênh đênh làm nghề đánh bắt hải sản như quăng chài, kéo nhã, giăng lưới, buông câu, thả bóng, đánh hà, cào ngao, cuốc ngán,... Họ đời nối đời sinh ra trên thuyền, giỗ tết, cưới xin tất cả ở trên thuyền, chỉ khi chết mới gửi xác ở một bờ đảo hoang. Với các ngư dân trên làng chài, chiếc thuyền chính là ngôi nhà, những ngôi nhà lênh đênh trôi dạt, nay nơi này mai nơi khác, tùy từng nghề, tùy từng vụ mùa. Hàng nghìn hòn đảo trập trùng che chắn cho con thuyền của họ tránh mọi bão giông và tránh luôn cả chiến trận trên bờ [1].
Điều kiện sinh tồn ấy khiến họ khao khát
*Tel: 0982.810.816; Email: [email protected]
được bày tỏ tình cảm, bày tỏ những niềm vui nỗi buồn qua những câu hát dân ca yêu thương ấy. Đó chính là nguồn gốc nảy sinh lời ca, tiếng hát mang âm hưởng mặn mòi của biển cả. Các nhà nghiên cứu và đặc biệt là những nhà quản lý, nhà giáo của tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây đã rất quan tâm đến vốn văn hóa, văn học này, coi đó là kho báu của những làng chài vịnh Hạ Long, điển hình phải kể đến tác giả Tống Khắc Hài, người đi tiên phong trong việc sưu tầm, tìm kiếm và phát hiện kho báu ấy. Ông đã khẳng định “Nó (ca dao, dân ca) trần trụi, bạo liệt, sống động, tình tứ và thênh thang như chính cuộc sống của những con người sinh ra trong trời nước” [2]. Tuy vậy, công việc của họ chủ yếu mới dừng lại ở việc tìm kiếm, thu thập và bước đầu giới thiệu, quảng bá mà chưa đi sâu vào vấn đề nghiên cứu hầu như chưa có. Trong bài viết này, xem xét từ góc độ mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, chúng tôi khám phá tình yêu biển, hương vị biển nồng nàn trong những lời dân ca mộc mạc giản dị mà đầy sức hấp dẫn ấy qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
TÌNH YÊU VÀ SỰ GẮN BÓ VỚI BIỂN TRONG NỘI DUNG PHẢN ÁNH CỦA CA DAO, DÂN CA LÀNG CHÀI VỊNH HẠ LONG Nội dung ca dao vùng biển của làng chài vịnh Hạ Long mang dấu ấn rõ nét của vùng đất cổ được thiên nhiên ưu đãi. Đó là một bức tranh sinh động về phong cảnh, về cuộc sống và tất cả nỗi niềm vui buồn chất chứa của những con người gắn bó sâu sắc với biển cả và nghề đi biển lâu đời. Tình yêu đôi lứa, tình yêu gia đình, tình yêu nghề và tình yêu quê hương lồng ghép vào nhau không tách rời trong mỗi bài ca.
Đó trước hết là những bài ca dao đúc kết kinh nghiệm truyền đời rất quan trọng như nhận biết con nước, quan sát thủy triều mà chỉ ai sống với biển, làm nghề gắn với biển mới thấy hết được ý nghĩa của nó trong việc đánh bắt:
Đương cơn nước đục lờ đờ Cắm sào đợi nước bao giờ cho trong
Cắm sào mà đợi nước trong Nước nguồn chảy xuống còn mong nỗi gì?
[3, Tr.90]
Hay
Nước kém thì em đi ngòi Đi bắt cái phóc, đi mòi còng ra
Lơ lửng thì em bắt ốc, ghè, hà Đến cơ rặc sát em về chắn đăng.
[4, Tr.102]
Một số bài ca dao, dân ca phản ánh kinh nghiệm tính thời gian đi ăn của luồng tôm, cá của ngư dân, qua đó cũng bày tỏ mong ước công việc được thuận buồm xuôi gió:
Tháng chín nước rịn chân cơ Làm ăn chẳng được ngẩn ngơ đầu ghềnh
Phải chờ nước nổi thâu kênh...
[4, Tr.87]
Hay
Lạy giời cho chóng tháng ba
Cho đăng chắn lưới cho ta đào mồi.
[4, Tr.88]
Ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long còn thấm đượm nỗi thiếu thốn, nhọc nhằn, cơ cực của nghề khai thác thủy hải sản trên biển thể hiện trong từng câu, từng chữ:
Chồng chài khổ lắm em ơi Lấy anh dấm bống nghỉ ngơi thanh nhàn
Lấy anh thì được nghỉ ngơi Những ngày động biển treo nồi treo gang
[4, Tr.89]
Đâu chỉ có ra bể lớn đánh cá mới vất vả, những ngư dân sống ven làng chài cũng lao đao với nghề chắn lưới, chắn đăng:
Đang cơn sấm chớp mưa rào Thì anh vẫn cứ phải lao xuống bùn
Ngày đông gió bấc mưa phùn Văng mình xuống nước tay chân rụng rời
Cực lòng biết ngỏ cùng ai Cắm cọc chăng lưới cũng vài trống canh
Lên thuyền ngồi đợi nước lên Bụng đói cật rét tấm thân rã rời
Bao giờ nước cạn lưới phơi Anh xuống bắt cá người hôi theo cùng.
[4, Tr.92]
Vất vả với nghề quăng chài, kéo lưới, buông câu, thả bóng, chắn đăng, bắt cá, bắt cua, đánh hà, cào ngao, bắt ốc... song những người dân nơi đây một lòng tha thiết yêu biển cả, yêu làng chài nơi họ sinh sống. Họ tự hào khi nhắc đến các địa danh có phong cảnh đẹp của vùng làng chài:
Trông xa thấy cảnh đầu rồng Non xanh Hòn Trụi giữa dòng mênh mông
[4, Tr.66]
Hay
Ai về bể Lục mà coi
Thuyền soi bóng núi, núi soi bóng thuyền [4, Tr.66]
Trong các bài ca, không có nơi nào thơ mộng và đẹp đẽ bằng làng chài- làng nghề và cũng là quê hương của họ. Và cảm động biết bao khi họ quỳ xuống để vẽ nên những tấm họa đồ:
Thanh nhàn cầm bút chép tô Quỳ chân xuống họa địa đồ núi non
Họa từ cái vũng Khe Gon Ngòi Di, Cái Quýt sóng dồn Cồn Vui
Vừa chèo vừa họa ai ơi Núi Chà, Đá Bãi đất trời đẹp sao
Chèo sang Cái Cổng, Đầu Trâu Họa đến Soi Sặt ở đầu Làng Trên
Họa rồi họa dưới họa lên
Đầu Giếng, Khe Chẹo ở miền Cây Thai...
[4, Tr.70]
Với ngư dân làng chài, biển còn là người bạn lớn để họ chia sẻ, gửi gắm những nỗi niềm.
Biển chứng kiến tình yêu chân thành, thắm thiết của đôi lứa:
Buồm duyên chạy với thuyền tình Đi xuôi có mình đi ngược có ta
Động trời gió táp mưa sa Anh về bẻ lái em ra xuống buồm
Quản gì sóng cả bể sâu Yêu nhau sao nỡ để đau để phiền
[4, Tr.125]
Trai gái yêu nhau thường mượn hình ảnh các loài tôm, cá để ví von về tình cảm lứa đôi gắn bó:
Ví chương cho cá bén đăng Vì chàng thiếp phải đi trăng về mờ
Vì tôm cho cá bén chương Vì chàng em phải đi sương về mù
Vì tôm cho cá bén chài Vì tình em phải đi hai lần đò...
[4, Tr.119]
Có khi, hình ảnh con cá đối đi vào thơ ca của người dân nơi đây như một lời hẹn ước giản dị, chân chất của tình yêu đôi lứa:
Nước lên cá đối ăn tăm
Chín tháng cũng đợi một năm cũng chờ [4, Tr.106]
Tình yêu càng mặn nồng, càng đong đầy thì nỗi nhớ càng dâng tràn mỗi khi phải xa cách:
Thuyền xuôi neo nọc cũng xuôi Khúc sông bỏ vắng đôi người xa nhau
[4, Tr.132]
Những công cụ đánh bắt quen thuộc, dung dị như đó, đăng cũng trở thành những biểu tượng được sử dụng trong ngôn ngữ tình yêu:
Anh đừng ham đó bỏ đăng Ham lê quên lựu ham trăng quên đèn.
[4, Tr.151]
Có thể thấy, tình yêu và sự gắn bó máu thịt với biển, với nghề đi biển chính là điều kiện làm nảy nở những lời ca, câu hát âm vang mỗi ngày, mỗi giờ trên vùng làng chài vịnh Hạ Long nhọc nhằn mà nên thơ.
TÌNH YÊU BIỂN TRONG NGHỆ THUẬT PHẢN ÁNH CỦA CA DAO, DÂN CA LÀNG CHÀI VỊNH HẠ LONG
Trong ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long, hình ảnh “con thuyền” được sử dụng nhiều như một dấu ấn vô cùng sâu sắc. Với điều kiện sinh hoạt đặc trưng ngày đêm lênh đênh trên sóng nước của những người dân nơi đây thì chiếc thuyền chính là ngôi nhà của họ, chở che cho họ như người thân thiết:
Thuyền ai đi trước kia là Khoan khoan bắt lái đợi ta đi cùng
[3, Tr.23]
Hay:
Thuyền ai đi ngược về xuôi Có về Hòn Mái cho tôi về cùng
[3, Tr.24]
Chiếc thuyền không chỉ chở nặng cá tôm sau chuyến đi biển mà nó còn chở cả nhân duyên của đôi lứa:
Thuyền nghề chở những cá lên
Thuyền quyên chở lấy nhân duyên mang về.
[3, Tr.52]
Hay
Thuyền nào có lửa xanh xanh Có trầu xin miếng hỡi anh lái thuyền
Thuyền nào có lửa vàng vàng Có trầu xin miếng hỡi nàng trong mui
[4, Tr.143]
Là sản phẩm tinh thần của ngư dân vùng biển nên trong ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long còn xuất hiện hình ảnh các loài cá với ý nghĩa tả thực và cả ý nghĩa tượng trưng trong các phép nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, ngoa dụ... để kín đáo diễn đạt tâm tư tình cảm của mình..
Muốn ăn cá tráp, cá hồng Em về em kén thằng chồng đi câu
[4, Tr.83]
Ba đồng một bát sò lông
Các tiền cũng chẳng lấy chồng nhà quan Những phường mặt sứa gan sam Đã lười thối xác lại tham của trời.
[4, Tr.99]
Thể thơ, kết cấu trong ca dao, dân ca làng chài vịnh Hạ Long nhiều dạng, nhiều vẻ như những con sóng có khi yên ả, nhẹ nhàng mà cũng có khi ồn ào, dữ dội. Nhịp sóng trong ca dao, dân ca làng chài đa phần là dịu êm, du dương bởi nhịp thơ lục bát thường được sử dụng tạo ra một âm hưởng đều đặn, hài hòa, sâu lắng vừa dễ ca hát, bày tỏ, vừa dễ nghe, dễ nhớ:
- Chèo cho gió mạnh em ơi Có đàn cá chích buông trôi giữa dòng
[4, Tr.74]
Nhưng cũng có khi con sóng ấy cuộn lên mạnh mẽ bởi những nhịp, vần, âm tiết biến thể trong thể thơ lục bát của lời ca:
- Em là con gái Cửa Ông
Lạ lùng em chẳng biết đàn cá, lòng sông chỗ nào
Đến đây biển rộng gió cao Anh ơi đàn cá chỗ nào bảo em?
[4, Tr.263]
Có câu hát, lời ca kết cấu theo kiểu một vế thường được gọi là câu ví vặt tựa như một lời chuyện trò với biển:
Hòn Gai có núi Bài Thơ Có Hang Đầu Gỗ Có chùa Long Tiên.
[4, Tr.65]
Phong phú hơn, đa dạng hơn, có đời sống sôi nổi hơn, đó là những bài ca có kết cấu 2 vế đối đáp. Đây là những bài ca thường được sử dụng để giao duyên, kết bạn, làm quen... của những người dân chài mặn mòi vị biển và chất chứa những khao khát:
- Thuyền ai mà đỗ bến sông
Có lòng đón khách hay không hỡi thuyền?
- Thuyền tình đậu bến ra khơi
Không dưng thuyền có đậu nơi bến này.
- Chiếc đũa sao sánh với cầu
Mủng em bé nhỏ sánh đâu bằng thuyền.
[3, Tr.112]
Về giai điệu của lời hát, dân ca dân chài có tiết tấu chậm, đều, âm vực thấp, ai cũng có thể hát. Đó là một giai điệu đơn giản, mộc mạc về thang âm, điệu thức, tiết tấu, về kết cấu giai điệu xong không hề nhàm chán.
Người nghệ sĩ không chuyên đã khéo léo nhấn và nhả câu trong khi hát khiến cho lời ca ngân nga, mượt mà, trữ tình, sâu lắng.
KẾT LUẬN
Ca dao, dân ca vùng làng chài vịnh Hạ Long là một kho tàng lớn, có giá trị. Nội dung thể hiện nhiều nhất trong ca dao, dân ca nơi đây là tình yêu đằm thắm đối với vùng biển đảo kỳ quan và một tình yêu sâu nặng với con thuyền, nghề biển, là những tâm sự khi nhọc nhằn, sầu buồn khi tự hào, lạc quan, sôi nổi.
Tiết tấu chậm rãi, mộc mạc khiến lời hát mỗi ngày thêm gần gũi, ngấm vào máu vào tim của các ngư dân làng chài. Lời hát của dân ca làng chài Hạ Long là ngôn ngữ dân gian phong phú, uyển chuyển được vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sắc sảo, tinh tế với hệ thống hình ảnh mang dấu ấn biển đậm nét. Ca dao, dân ca của cộng đồng ngư dân thủy cư trên vịnh Hạ Long rất cần được sưu tầm, bảo tồn và phát triển để có vị trí xứng đáng trong nền văn hóa Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hát Giao Duyên- Nét đẹp văn hoá làng chài Hạ Long, https://www.facebook. com/ GiaoDuyen HaLong/.
2. Ngô Mai Phong (2013), Kho báu của những làng chài vùng vịnh Hạ Long, http://tamlongvang.
laodong.com.vn/phong-su/kho-bau-cua-nhung- lang-chai-vung-vinh-ha-long-170126.bld.
3. Vũ Thị Gái (2007), Ca dao dân ca vùng biển Quảng Ninh, Sở văn hóa thông tin tỉnh Quảng Ninh.
4. Tống Khắc Hài (2016), Ca dao dân ca của dân chài trên Vịnh Hạ Long, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
SUMMARY
FOLK SONGS IN FISHING VILLAGE OF HA LONG BAY -CHARACTERRISTICS OF SEA CULTURE
Nguyen Thi Minh Thu*, Bui Thi Ngoc Anh University of Education - TNU
Folk songs in fishing village of Ha Long Bay are sweet and loving songs whose owners are the fishermen of the fishing village, who live on the boats floating in the water, grow and prosper with the sea and seafaring. Therefore, it is possible to see the sea depth from the content to the artistic of the songs. This is a lively picture of the sea and the life of the villagers, the love and pride of the beauty of the sea, also contained in the hardship of Seafaring career. The image of Boat, fish often appear as a mark, a highlight in folk songs here. Formand structure of poetry also contributes to the culture of the sea. Images of boats and marine species appear frequently as a hallmark, a highlight. Form of poetry and structer also contributes to the unique character of the sea folk songs. Discovering the beauty of these folk songs is also contributing to the preservation and promotion of traditional cultural values in contemporary life.
Keywords: folk songs, fishing village, Ha Long Bay, sea culture
Ngày nhận bài: 01/9/2017; Ngày phản biện: 16/9/2017; Ngày duyệt đăng: 28/9/2017
*Tel: 0982.810.816; Email: [email protected]
oµ
soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Luu Binh Duong, Nguyen Van Tien - "Sacred" fundamental structure of customary law 3 Nguyen Thi Mai Chanh, Bui Thuy Linh - The characters of mythology in “The Republic of Wine” by
Guan Moye 9
Pham Van Cuong - Studying adaptation to the training menthod of the credit for northern mountainous ethnic
minority students 15
Bui Linh Phuong, Mai Thi Ngoc Ha - Analysis and comparison of mathematical content in the forestry
agricultural sector training program of a number of universities in the world 19 Trinh Thi Kim Thoa - The situation and the solutions to improve the quality of teaching and learning Ho Chi
Minh ideology at University of Information and Communication Technology – TNU 25 Than Thi Thu Ngan - The 90th anniversary of the publication of "Duong Kach menh" book (1927 – 2017)
Theoretical and practical meaning of the work “Duong Kach menh” of the leader Nguyen Ai Quoc - Ho Chi Minh 31 Ma Thi Ngan - Some features should be regarded when building a physical education program to increase the
learning result of students 35
Duong Thi Huong Lan, Nguyen Vu Phong Van, Nguyen Hien Luong - Applied experiential learning activities in an English speaking lesson of University of Economics and Business Administration - Thai
Nguyen University 41
Le Ngoc Nuong, Nguyen Thi Ha, Nguyen Hai Khanh - Building the theory of integrity of satisfaction in the
work of laborers at Thai Nguyen Traffic Trading and Management Joint Stock Company 47 Doan Quang Thieu - Establishing the standard sample system of occurred economic operations and accounting
vouchers for students' practice 53 Do Thi Ha Phuong, Doan Thi Mai, Chu Thi Ha, Nguyen Thi Giang - Factors influencing willingness to pay
for safety food in Thai Nguyen city, Thai Nguyen province 59
Nguyen Thi Thanh Thuy - Analysis of FPT Joint Stock Company 's financial situation 65 Vu Hong Van, Luong Thi Mai Uyen - Strengthen competitive capability of mechanical industry in the process
of international economic integration 71
Nguyen Thi Linh Trang, Bui Thi Ngan - The development of non - cash payment service at military JSC Bank
– Thai Nguyen branch 77
Nguyen Thi Lan Anh, Nong Thi Van Thao - Building the system of management support in scoring staffs at
Vietcombank transaction deparment 85
Nguyen Thu Nga, Kieu Thi Khanh, Hoang Van Du - Investigation of commercial bank’s efficiency with
credit risk incorporated 91
Nguyen Thi Van, Nguyen Bich Hong - Solutions to promote the economic structural transformation in Bac
Giang province towards industrialization and modernization to 2020 with a vision to 2030 97 Dam Thi Phuong Thao, Nguyen Tien Manh - Estimating the effect of some factors on operational efficiency
of real estate companies posted up in Viet Nam stock market 103
Pham Thi Huyen - Precedent and the application of precedent in Vietnam law system 109 Duong Thi Huyen - The relationship of the English's factory in Hirado (1613- 1623) with Japan government 115 Tran Nguyen Si Nguyen - Subtle mass mobilization is core of political activism art of Ho Chi Minh 121
Journal of Science and Technology
N¨m
2017
Tran Bao Ngoc, Le Thi Luu, Bui Thanh Thuy et al - The pharmaceutical students’ perception of educational
environment at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy by DREEM questionnare 131 Luong Ngoc Huyen - A current issue of applying mathemarics into teaching practice and assessing,
evaluating the result of learning mathemarics of 10th grade students in high schools in Tuyen Quang city,
causes and solutions 137 Nguyen Thi Hong, Nguyen Xuan Truong, Hoang Thi Giang - Geographical approaches in research of the
relationship between economic development and ensuring national defense and security for border communes,
Ha Giang province 143
Do Thi Quyen, Nguyen Thi Kim Tuyen - Study psychological factors which affect to the buy online behavior of
consumers in Thai Nguyen province 149
Phuong Huu Khiem, Nguyen Dac Dung, Nguyen Ngoc Ly - Developing the output product market for forest
plantations followed sustainable trend in Dong Hy district, Thai Nguyen province 155 Phan Thi Thanh Huyen, Ha Xuan Linh - Study on residental land price in Soc Son district, Ha Noi city 161 Nguyen Thi Van Anh - Attracting investment – motivation and foundation to develop sustainable economic in
Thai Nguyen province 167
Van Thi Quynh Hoa, Nguyen Lan Huong - The effects of information technology in teaching English to first
year students at University of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University 173 Mai Van Can - Using the character of Thach Sanh in teaching English practice at secondary school 179 Do Thi Huong Lien - Discussion on revolution of Hoang Dinh Kinh (Cai Kinh) and relationship with
contemporary revolutions 185
Pham Van Quang, Nguyen Huy Anh - Solutions to enhance the activeness of study of students physical
education and sport faculty at Thai Nguyen University of Education 191
Nguyen Thi Minh Thu, Bui Thi Ngoc Anh - Folk songs in fishing village of Ha Long Bay - characterristics of
sea culture 197
Dang Anh Tuan, Ngo Thi Minh Hang, Pham Thi Trung Ha - Recovering of real estate market and business
risk of real estate companies 203
Le Van Tho, Vu Anh Tuan - Assessment land use in urban areas in Viet Tri city – Phu Tho province from
2011 to 2016 209