• Tidak ada hasil yang ditemukan

EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF THE TREATMENT WITH A COMBINATION OF BETA BLOCKERS ON PATIENTS WITH CHRONIC HEART FAILURE REDUCED EJECTION FRACTION AT AN GIANG CARDIOVASCULAR HOSPITAL

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF THE TREATMENT WITH A COMBINATION OF BETA BLOCKERS ON PATIENTS WITH CHRONIC HEART FAILURE REDUCED EJECTION FRACTION AT AN GIANG CARDIOVASCULAR HOSPITAL"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SUY TIM MẠN BẰNG PHÁC ĐỒ CÓ PHỐI HỢP THUỐC CHẸN BETA TRÊN BỆNH NHÂN SUY TIM MẠN CÓ PHÂN

SUẤT TỐNG MÁU GIẢM TẠI BỆNH VIỆN TIM MẠCH AN GIANG

Huỳnh Đông Nhựt1*, Phạm Văn Lình2 1. Bệnh viện Tim mạch An Giang 2. Trường Đại học Y dược Cần Thơ

*Email: [email protected] TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của thuốc chẹn beta làm giảm tỉ lệ tử vong và nhập viện ở bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về hiệu quả của thuốc chẹn beta trên bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm nhìn chung chưa nhiều. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị suy tim mạn bằng phác đồ có phối hợp thuốc chẹn beta trên bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm tại Bệnh viện Tim mạch An Giang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân đã được chẩn đoán suy tim mạn trong giai đoạn ổn định, có phân suất tống máu dưới 40%, đang điều trị suy tim nội và ngoại trú tại Bệnh viện Tim mạch An Giang từ tháng 4/2018 đến tháng 4/2019. Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. Kết quả:

Phân suất tống máu tăng đáng kể (tăng thêm 8,7 ± 12,1%) và giảm đáng kể nồng độ NT-proBNP (giảm 3.010 ± 9.209 pg/l, p < 0,01). Tuy nhiên, mức độ suy tim theo NYHA thay đổi không có ý nghĩa thống kê với p > 0,10. Kết luận: Sử dụng phối hợp thuốc chẹn beta trên bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm giúp tăng đáng kể phân suất tống máu (8,7 ± 12,1%).

Từ khóa: suy tim mạn, phân suất tống máu giảm, thuốc chẹn beta.

ABSTRACT

EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF THE TREATMENT WITH A

COMBINATION OF BETA BLOCKERS ON PATIENTS WITH CHRONIC HEART FAILURE REDUCED EJECTION FRACTION AT AN GIANG

CARDIOVASCULAR HOSPITAL

Huynh Dong Nhut1, Pham Van Linh2 1. An Giang Cardiovascular Hospital 2. CanTho University of Medicine and Pharmacy Background: In the world, there are many studies on the effectiveness of beta blocker to reduce the rates of mortality and hospitalization in chronic heart failure patients with reduced ejection fraction (EF). In Vietnam, studies on the effectiveness of beta blocker on chronic heart failure patients with reduced EF are not much. Objectives: To evaluate the effectiveness of the treatment including a combination with beta blocker on patients with chronic heart failure reduced EF at An Giang Cardiovascular Hospital. Materials and methods: We conducted a cross-sectional descriptive study on patients diagnosed with chronic heart failure at a stable period, with an EF of less than 40%, and being treated for internal and external heart failure at An Giang Cardiovascular Hospital from April 2018 to April 2019. Results: The ejection fraction was significantly increased (an increase of 8.7 ± 12.1%) and significantly decreasedin NT-proBNP concentration (a reduction 3.010 ± 9.209 pg/l, p < 0.01). However, the level of heart failure according to NYHA changed not statistically significant with p > 0.10. Conclusion: By combination of beta blocker in treatment for chronic heart failure patients with reduced EF increased the EF and reduced the NT-proBNP significantly.

Key words: Chronic heart failure, reduced ejection fraction, beta blocker.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

(2)

Trong nhóm bệnh lý tim mạch thì suy tim là một bệnh lý thường gặp trên lâm sàng và cũng là giai đoạn cuối của hầu hết các bệnh tim mạch. Suy tim làm giảm hoặc mất sức lao động của bệnh nhân, ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sinh hoạt của người bệnh và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong [1].

Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của thuốc chẹn beta làm giảm tỉ lệ tử vong và nhập viện ở bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm đã được chứng minh trên thế giới [10]. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về hiệu quả của thuốc chẹn beta trên bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm nhìn chung chưa nhiều.

Để góp phần trong công tác điều trị nhằm làm giảm tỉ lệ tử vong cho bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu Đánh giá hiệu quả điều trị suy tim mạn bằng phác đồ có phối hợp thuốc chẹn beta trên bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm tại Bệnh viện Tim mạch An Giang.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:

Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán suy tim mạn có phân suất tống máu giảm nhập viện điều trị tại khoa Tim mạch - Lão học của Bệnh viện Tim mạch An Giang từ tháng 4/2018 đến tháng 4/2019.

Tiêu chuẩn chọn mẫu:

Bệnh nhân đã được chẩn đoán suy tim mạn có phân suất tống máu dưới 40% và đang điều trị suy tim nội và ngoại trú.

Bệnh nhân suy tim giai đoạn ổn định (không còn tình trạng quá tải dịch, phù, gan to, không còn tình trạng sung huyết phổi, ngưng các thuốc tim mạch đường tĩnh mạch >24 giờ)

Bệnh nhân đã được điều trị đầy đủ với ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể, có thể dùng lợi tiểu trước.

Tiêu chuẩn loại trừ:

Bệnh nhân hen phế quản.

Bệnh nhân bloc nhĩ - thất II, III, hội chứng suy nút xoang, nhịp chậm xoang < 50 lần/phút.

Bệnh mạch máu ngoại biên.

Suy gan nặng.

Suy thận nặng.

Huyết áp tâm thu < 90mmHg.

Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.

Cỡ mẫu: Công thức tính cỡ mẫu: n = Z21-α/2 . 2

) 1 .(

d p p

n: cỡ mẫu tối thiểu; Z1-α/2: hệ số tin cậy. Chọn hệ số tin cậy là 95%, α = 0,05 nên Z1-α/2 = 1,96. d: sai số cho phép. p: xác suất xuất hiện của phần tử trong mẫu.

Chọn sai số cho phép là d = 5%. Nghiên cứu Pasternak và cộng sự (2014) tại Đan Mạch thì tỷ lệ điều trị thành công của thuốc chẹn beta trên bệnh nhân có phân suất tống máu từ 25% đến dưới 40% là 93,3%. Vì vậy chúng tôi chọn p = 93,3% [11]. Thay vào công thức trên tính ra được n = 96,1. Do đó, cỡ mẫu tối thiểu là 97. Trong nghiên cứu chúng tôi thu thập được 130 trường hợp.

Phương pháp chọn mẫu: Chúng tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Bệnh nhân

(3)

được chọn vào nghiên cứu theo đúng tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu, không phân biệt giới tính và độ tuổi.

2.3. Nội dung nghiên cứu Các biến số cần thu thập:

Lâm sàng: tuổi, giới, BMI, khó thở, ran phổi, phồng tĩnh mạch cổ, tim to, phù phổi, tiếng T3, phản hồi gan tĩnh mạch cảnh, phù cổ chân, ho về đêm, khó thở khi gắng sức, gan to, tràn dịch màng phổi, mạch, nhiệt độ, huyết áp…

Cận lâm sàng: rối loạn nhịp tim, chỉ số tim ngực, EF, áp lực động mạch phổi, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, ion đồ, ure, creatinnin, glucose, NT-ProBNP, mức lọc cầu thận…

Phân độ suy tim theo NYHA [5]: Độ I: Không hạn chế. Hoạt động thể lực thông thường không gây mệt, khó thở hoặc hồi hộp; Độ II: Hạn chế nhẹ hoạt động thể lực. Bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi. Vận động thể lực thông thường dẫn đến mệt, hồi hộp, khó thở hoặc đau ngực; Độ III:

Hạn chế nhiều vận động thể lực. Mặc dù bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi, chỉ vận động nhẹ đã có triệu chứng cơ năng; Độ IV: Không vận động thể lực nào mà không gây khó chịu. Triệu chứng cơ năng của suy tim xảy ra ngay khi nghỉ ngơi. Chỉ một vận động thể lực, triệu chứng cơ năng gia tăng.

Giá trị EF đo theo phương pháp Simpson.

Đánh giá EF trên siêu âm tim: Bình thường: EF ≥ 55%; Giảm nhẹ: 45% ≤ EF < 55%; Giảm vừa: 30 < EF < 45%; Giảm nặng: EF < 30%.

Liều khởi trị và liều đích khi dùng thuốc chẹn bêta Bisoprolol trên lâm sàng: 1,25mg x 1 lần/ngày đến 5 mg x 1 lần/ngày.

2.4. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu được xử lý bằng chương trình Stata 12.0. Phép kiểm χ2 để so sánh sự khác biệt giữa hai hay nhiều tỷ lệ; Test t-student để so sánh giá trị trung bình của hai nhóm độc lập; Kiểm định ANOVA để so sánh hai hay nhiều trung bình của các nhóm độc lập. Giá trị p < 0,05 được xem có ý nghĩa thống kê.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Giới tính Số lượng (n) Tỉ lệ (%) Tuổi

Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất

Nam 66 50,8 73,7 ± 12,8 47 97

Nữ 64 49,2 70,2 ± 11,3 45 92

Tổng cộng 130 100,0 72,0 ± 12,2 45 97

Tỷ lệ bệnh nhân nam và nữ là khá tương đồng. Tuổi trung bình là 72,0 ± 12,1 năm (Nhỏ nhất: 45 tuổi - Lớn nhất: 97 tuổi).

(4)

Biểu đồ 1: Tiền sử bệnh theo giới tính Nhận xét: Đa số bệnh nhân kèm theo suy thận mạn.

Biểu đồ 2: Phân độ suy tim theo NYHA 90% bệnh nhân thuộc suy tim độ III, 10% suy tim độ III.

Bảng 2. Giá trị một số cận lâm sàng và huyết học về sinh hóa máu

Thông số Trung bình ± SD Nhỏ nhất Lớn nhất

NT-proBNP (pg/ml) 10.467 ± 11.226 214 35.000

Creatinin (µmol/l) 128,7 ± 47,2 60 327

Na+ (mmol/l) 135,6 ± 4,6 118 146

K+ (mmol/l) 3,9 ± 0,7 2,3 5,7

EGFR (ml/phút/1.73 m2) 46,9 ± 18,5 15 102

AST (UI) 34,5 ± 23,1 6 120

ALT (UI) 31,0 ± 22,8 3 129

NT-proBNP máu cao hơn rất nhiều so với ngưỡng 2.000 pg/mL. EGFR dưới 60ml/phút/1.73 m2 da do có tình trạng bệnh lý suy thận kèm theo.

Bảng 3. Đặc điểm phân suất tống máu theo NYHA

EF (%) NYHA II NYHA III Chung p

x̅ ± SD 33,3 ± 2,7 33,8 ± 5,9 33,7 ± 5,7 > 0,10

Min - Max 28 - 39 17 - 55 17 - 55

Phân suất tống máu trung bình là 33,7 ± 5,7 (%).

(5)

Biểu đồ 3: Đặc điểm EF của đối tượng nghiên cứu

79,2% bệnh nhân có phân suất tống máu giảm ở mức độ “vừa”, còn lại 20,5% là giảm nặng.

3.2. Kết quả điều trị suy tim mạn bằng phác đồ có phối hợp thuốc chẹn beta

100% bệnh nhân sử dụng thuốc ức chế men chuyển kết hợp với thuốc chẹn beta. Có 60,8%

bệnh nhân sử dụng phối hợp thêm kháng thụ thể mineralocorticoid.

Bảng 4. Liều chẹn bêta sử dụng thực tế trên bệnh nhân Liều (mg x 1

lần/ngày) Chung Nam

(n = 66)

Nữ

(n = 64) p

1,25 50 (38,5%) 29 (43,9%) 21 (32,8%)

> 0,13

2,50 80 (61,5%) 37 (56,1%) 43 (56,1%)

x̅ ± SD 2,01 ± 0,61 1,95 ± 0,63 2,09 ± 0,59 > 0,09

61,5% bệnh nhân sử dụng liều 2,50 mg x 1 lần/ngày và 38,5% sử dụng liều 1,25 mg x 1 lần/ngày. Không có sự khác biệt về liều giữa nam và nữ ( p > 0,13).

Bảng 5. Thay đổi nồng độ NT-proBNP theo giới tính Giới tính Trước điều trị

(pg/ml)

Sau điều trị

(pg/ml) Chênh lệch (pg/ml) p Nam (n = 66) 8.047 ± 9.180 7.626 ± 9.540 -421 ± 7.012 < 0,05

Nữ (n = 64) 12.963 ± 12.595 7.282 ± 9.358 -5.681 ± 10.424 < 0,01 Chung (n = 130) 10.467 ± 11.226 7.457 ± 9.416 - 3.010 ± 9.209 < 0,01

Nồng độ NT - proBNP giảm rõ rệt ở cả nhóm nam và nữ với p < 0,05.

Bảng 6. Thay đổi nồng độ NT-proBNP theo mức lọc cầu thận

EGFR Trước điều trị

(pg/ml)

Sau điều trị

(pg/ml) Chênh lệch (pg/ml) p

< 60ml/phút/1.73 m2 11.679 ± 11.450 7.877 ± 9.678 -3.801 ± 9.784 < 0,01

≥ 60ml/phút/1.73 m2 5.691 ± 8.166 5.378 ± 8.711 -312 ± 5.167 > 0,38 Nồng độ NT - proBNP giảm ở nhóm có EGFR < 60ml/phút/1.73 m2 (p < 0,01). Nhóm có EGFR ≥ 60ml/phút/1.73 m2 thay đổi không có ý nghĩa (p > 0,38).

Bảng 7. Thay đổi EF theo giới tính

Giới tính Trước điều trị (%) Sau điều trị (%) Chênh lệch

(%) p

Nam (n = 66) 33,8 ± 5,0 39,8 ± 10,4 6,0 ± 10,1 Nữ (n = 64) 33,6 ± 6,4 45,0 ± 33,6 11,4 ± 13,5 Chung (n = 130) 33,7 ± 5,7 42,4 ± 13,2 8,7 ± 12,1

Sau can thiệp, EF tăng 8,7 ± 12,1%. Cả nam và nữ đều tăng EF nhưng ở nữ thì tăng nhiều hơn so với ở nam.

(6)

Bảng 8. Thay đổi EF theo liều thuốc chẹn bêta Liều (mg x 1

lần/ngày) Trước điều trị (%) Sau điều trị (%) Chênh lệch

(%) p

1,25 (n = 50) 32,3 ± 5,8 37,3 ± 11,1 5,0 ± 11,0

2,50 (n = 80) 34,6 ± 5,5 45,6 ± 13,4 11,0 ± 5,5

Cộng ( n = 130) 33,7 ± 5,7 42,4 ± 13,2 8,7 ± 12,1

Sau can thiệp, EF tăng 8,7 ± 12,1%. Bệnh nhân sử dụng liều 2,50mg x 1 lần/ngày có EF tăng nhiều hơn so với bệnh nhân sử dụng liều 1,25mg x 1 lần/ngày.

Bảng 9. Thay đổi mức độ suy tim sau điều trị

NYHA Trước điều trị Sau điều trị

n % n % p

II 13 9,2 20 15,4

> 0,10

III 117 90,8 110 84,6

Sau điều trị, mức độ suy tim theo NYHA thay đổi không có ý nghĩa thống kê với p > 0,10.

IV. BÀN LUẬN

4.1. Về đặc điểm mẫu nghiên cứu

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của bệnh nhân là 72,0 ± 12,1 tuổi; phù hợp với các nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Liên và cộng sự (75,1 ± 10,5 tuổi) [4] nhưng cao hơn so với của các tác giả Hà Thị Anh và Nguyễn Thị Thu Trà (60,6 ± 18,9 tuổi) [1], Karabacak và cộng sự (61 ± 11 tuổi) [7], của Colucci cộng sự (55 ± 11 tuổi) [6].

Tỷ lệ nam giới trong nghiên cứu của chúng tôi 50,8%, phù hợp với của các tác giả Karabacak và cộng sự (tỷ lệ nam giới là 56,6%) [7], nhưng thấp hơn so với của Trần Thị Mỹ Liên và cộng sự (tỷ lệ nam giới là 82,9%) [4].

Giá trị EF trung bình trước can thiệp trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với nghiên cứu của Karabacak và nhưng thấp hơn với nghiên cứu của cộng sự Hà Thị Anh và Nguyễn Thị Thu Trà (của chúng tôi: là 33,7 ± 5,7%; của Karabacak và cộng sự: 33 ± 4%; của Hà Thị Anh và Nguyễn Thị Thu Trà: 40,79 ± 10,58%) [1], [7]. Giá trị trung bình của natri, Kali, AST, ALT, triglycerid đều trong ngưỡng bình thường và tương đương với nghiên cứu của Karabacak và cộng sự [7].

Tỷ lệ suy tim độ III, độ II theo NYHA trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là 90% và 10%, không có bệnh nhân suy tim độ I hoặc độ IV. Mức độ suy tim độ III trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn với nghiên cứu của Colucci cộng sự, Karabacak và cộng sự [6], [7].

Nồng độ NT-proBNP trong nghiên cứu của chúng tôi trước can thiệp là 10.467 ± 11.226 pg/ml. Nghiên cứu của Karabacak và cộng sự có nồng độ NT-proBNP trung bình là 666 pg/ml [7].

Nghiên cứu của Hà Thị Anh và Nguyễn Thị Thu Trà nồng độ NT-proBNP theo phân độ NYHA II: là 1.127,24 ± 625,34 pg/ml; phân độ NYHA III: 4.901,46 ± 1.436,72 pg/ml; phân độ NYHA IV: 14.357,04 ± 4.039,08 pg/ml (tương quan thuận với r = 0,9; p < 0,001) [1].

Như vậy, nồng độ NT-proBNP trong nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn so với các nghiên cứu của Karabacak và cộng sự, Hà Thị Anh và Nguyễn Thị Thu Trà. Sự khác biệt này là do đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên bệnh nhân mức độ suy tim nặng hơn, lớn tuổi hơn so với nghiên cứu của Colucci cộng sự, Karabacak và cộng sự và tuổi cao hơn so với của Hà Thị Anh và Nguyễn Thị Thu Trà [1], [6], [7].

4.2. Kết quả điều trị suy tim mạn bằng phác đồ có phối hợp thuốc chẹn beta

Chúng tôi chỉ sử dụng Bisoprolol với liều trung bình là 2,01 ± 0,61 mg x 1 lần/ngày. Trong

(7)

đó, 80/130 (61,5%) sử dụng liều 2,50 mg x 1 lần/ngày và 50/130 (38,5%) sử dụng liều 1,25 mg x 1 lần/ngày. Không có bệnh nhân nào sử dụng liều đích 5 mg x 1 lần/ngày. Liều chẹn bê ta trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương của Choi và cộng sự (2018): trung bình 2,3 ± 1,6 mg x 1 lần/ngày [6].

Về mặt lâm sàng, chúng tôi ghi nhận sự thành công trong điều trị suy tim mạn bằng phác đồ có phối hợp thuốc chẹn beta với. Sau 8 tuần điều trị, chúng tôi ghi nhận sự cải thiện đáng kể của EF với giá trị trung bình của EF tăng thêm 8,7 ± 12,1% so với trước khi can thiệp (p < 0,01).

Trong nghiên cứu của Karabacak và cộng sự, sau 6 tháng điều trị, thuốc chẹn beta giúp cải thiện EF tăng thêm trung bình 3% (từ 33 ± 4% lên 36 ± 5%, p <0,01)[7]. Trong nghiên cứu của Groote và cộng sự trên 46 bệnh nhân sử dụng thuốc chẹn beta trong khoảng thời gian 7 năm thì phân suất tống máu thất trái đã tăng thêm 21%, từ 33 ± 8% lên 54 ± 6% (p <0,01) [8]. Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi có EF tăng cao hơn so với của Karabacak và cộng sự nhưng lại thấp hơn so với của Groote và cộng sự [7], [8]. Sự khác biệt này là do đặc điểm của bệnh nhân trong các nghiên cứu, thời gian nghiên cứu cũng có sự khác nhau đáng kể.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, sử dụng liều chẹn bêta cao hơn sẽ giúp tăng EF nhiều hơn (nhóm sử dụng liều 2,50mg x 1 lần/ngày: mức tăng EF là 11,0 ± 5,5%; nhóm sử dụng liều 1,25mg x 1 lần/ngày: mức tăng EF là 5,0 ± 11,0%). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Hiroyuki Tsutsui và cộng sự [10].

Nồng độ NT - proBNP giảm trung bình là 3.010 ± 9.209 pg/ml, giảm ở cả nam và nữ (p <

0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Colucci cộng sự, Karabacak và cộng sự [6], [7].

Cũng cần lưu ý rằng nồng độ NT - proBNP sau can thiệp trên bệnh nhân của chúng tôi vẫn còn ở mức cao, lên đến 7.457 ± 9.416 pg/ml. Nguyên nhân có thể là do bệnh nhân bị suy tim trong nghiên cứu của chúng tôi đa số có kèm theo bệnh thận mạn. Sự giảm đào thải peptid này qua thận là một trong những yếu tố dẫn đến nồng độ nồng độ NT - proBNP luôn được duy trì ở mức cao trong thời gian dài.

Thuốc chẹn beta trong nghiên cứu của chúng tôi ảnh hưởng không có ý nghĩa đến việc cải thiện tình trạng suy tim theo phân độ NYHA (p > 0,19). Kết quả này có sự khác biệt so với nghiên cứu của Colucci cộng sự, Karabacak và cộng sự [6], [7].

Có thể lý giải nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt là do thời gian điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu Colucci cộng sự, Karabacak và cộng sự (chúng tôi: 2 tháng; Colucci cộng sự: 15 tháng; Karabacak và cộng sự: 26 tháng) [6], [7]. Ngoài ra, cũng cần lưu ý thêm là bệnh nhân của chúng tôi đa số là cao tuổi (tuổi trung bình là 72,0 ± 12,2), suy tim nặng, mạn đã ổn định còn nghiên cứu của Colucci cộng sự, Karabacak và cộng sự tiến hành trên bệnh nhân có tuổi nhỏ hơn, mức độ suy tim nhẹ hơn.

V. KẾT LUẬN

Sau 2 tháng sử dụng phối hợp thuốc chẹn beta trên bệnh nhân suy tim mạn có phân suất tống máu giảm, kết quả làm tăng đáng kể phân suất tống máu (tăng thêm 8,7 ± 12,1%) và giảm đáng kể nồng độ NT-proBNP (giảm 3.010 ± 9.209 pg/l, p < 0,01). Tuy nhiên, mức độ suy tim theo NYHA thay đổi không có ý nghĩa thống kê với p > 0,10. Do thời gian điều trị khá ngắn, nên có thể chưa phản ánh chính xác kết quả điều trị, cần tiếp tục nghiên cứu trong thời gian dài hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hà Thị Anh, Nguyễn Thị Thu Trà (2010), “Khảo sát mối liên quan giữa nông độ NT-proBNP máu với mức độ suy tim”, Tạp chí Y học TP. HCM, số 14 (2), 212 – 219.

2. Nguyễn Thanh Hiền (2016), “Cập nhật khuyến cáo 2016 về chẩn đoán và xử trí suy tim”.

3. Châu Ngọc Hoa (1999), “Dịch tễ học suy tim”, Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 3, tr.6-11.

(8)

4. Trần Thị Mỹ Liên (2011) “Một số đặc điểm suy tim mạn tính tại khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Thống Nhất từ tháng 01/2010 đến tháng 09/2011”. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 16, tr.70-75.

5. Heart Failure Society of America (2011), “NYHA Classificiation- The Stages of Heart Failure”, http://about.org/question-stages.htm.

6. Choi K.H et al (2018), The mortality benefit of carvedilol versus bisoprolol in patients with heart failure with reduced ejection fraction, The Korean Journal of Internal Medicine, eISSN 2005 - 6648.

7. Colucci W. S., et al (1996), Carvedilol Inhibits Clinical Progression in Patients With Mild Symptoms of Heart Failure, Circulation. 1996;94:2800-2806.

8. Karabacak M., Dogan A., Tayyar S., Ozaydin M., (2015), “Carvedilol and nebivolol improve left ventricular systolic functions in patients with non-ischemic heart failure”, Anatol J Cardiol 2015;

15: 271-6.

9. Groote P., Fertin M., Pentiah A. D., Goéminne C., Lamblin N., Bauters C., (2014), Long-Term Functional and Clinical Follow-Up of Patients With Heart Failure With Recovered Left Ventricular Ejection Fraction After β-Blocker Therapy, Circ Heart Fail (7) :434-439.

10. Hiroyuki Tsutsui et al (2019), Tolerability, Efficacy, and Safety of Bisoprolol vs. Carvedilol in Japanese Patients With Heart Failure and Reduced Ejection Fraction, Circ J 2019; 83: 1269 -1277.

11. Kawashiro N., Kasanuki H., Ogawa H., Matsuda N., Hagiwara N. (2015), “Clinical characteristics and outcome of hospitalized patients with congestive heart failure: Results of the HIJC-HF registry”, Circ J 2008; 72: 2015 – 2020.

12. Packer M, et al (1996). “The effect of carvedilol on morbidity and mortality in patients with chronic heart failure: U.S. Carvedilol Heart Failure Study Group”, N Engl J Med 1996; 334: 1349 – 1355.

13. Pasternak B., Svanstrom H., Melbye M., Hviid A., (2014), “Association of Treatment With Carvedilol vs Metoprolol Succinate and Mortality in Patients With Heart Failure”, JAMA Intern Med. 014;174(10):1597-1604.

(Ngày nhận bài: 8/8/2019 - Ngày duyệt đăng bài: 28/8/2019)

Referensi

Dokumen terkait