THỰC TIỀN - KINH NGHIỆM
VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỂ DÂN sự TRONG VỤ ÁN HÌNH sọ
LƯƠNG HỬU THẬT
Hiện nay, do chưa có văn bản hướng dẫn thi hành Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự nên thực tiễn xét xử còn gặp vướng mắc trong việc xác định vấn đề dân sự phải được giải quyết trong cùng vụ án hình sự, trường hợp nào được tách để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Thông qua vụ án cụ thể tác giả làm rõ hơn về vướng mắc, bất cập này.
Từ khóa: Giải quyết vẩn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Nhận bài: 13/8/2021; biên tập xong: 25/8/2021; duyệt bài: 07/9/2021.
N
ội dung vụ án: Công ty cổ phần BA (Công ty BA) ký hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ vớiCông ty cổ phần viễn thông VT (Công ty VT) tại quận B, thành phố H. Theo đó,
Công ty BA có quyết định phân công nhân viên Nguyễn Thanh N (Công ty BA có ký họp đồng lao động với N) có nhiệm vụ bảo vệ tại cửa hàng viễn thông V thuộc Công ty VT tại quận B, thành phố H. Nguyễn Thanh N có nhiệm vụ bảo vệ cửa hàng V trong giờ hành chính và tối được phép ngủ lại để trông coi đồ dùng, thiết bị, sản phẩm của cửa hàng V. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên N nảy sinh ý định trộm tiền của cửa hàng V. Do nắm được tất cả các hoạt động
của cửa hàng, N lợi dụng khi các nhân viên làm xong công việc ra về, N đã đóng cửa hàng, lục tìm chìa khoá két sắt và mở lấy trộm số tiền 180 triệu đồng rồi bỏ trốn. Sau khi tiêu xài hết số tiền lấy được, N đến Công an quận H đầu thú.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty BA đã chủ động bồi thường lại cho Công ty VT số tiền là 180 triệu đồng do nhân viên của mình trộm cắp và cùng thống nhất không thắc mắc, khiếu nại và yêu cầu gì thêm. Quá trình xét xử, về giải quyết phần dân sự, Tòa án nhân dân quận B,
*Thẩm phán Toà án quân sự Quân khu 2.
Tạp chí S020Z2021 KI E M SÁT
57
THỰC TIỀN- KINH NGHIỆM
thành phố H đã tuyên: Căn cứ khoản 2 Điều 3, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 589, Điều 597 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 ghi nhận bị đơn là Công ty BA đã tự nguyện thoả thuận bồi thường cho phía bị hại là Công ty VT số tiền là 180 triệu đồng do hành vi trộm cắp của N gây ra. số tiền này, căn cứ Điều 597 BLDS năm 2015 (bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra) thì Công ty BA có quyền yêu cầu bị cáo N hoàn trả, nếu có phát sinh tranh chấp có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.
Vấn đề đặt ra là, việc Toà án không giải quyết yêu cầu buộc bị cáo phải hoàn trả số tiền 180 triệu đồng mà Công ty BA đã bồi thường cho Công ty VT có vi phạm Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định về nguyên tắc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự không. Vấn đề này hiện còn có các ý kiến chưa thống nhất:
Ỷ kiến thứ nhất cho rằng, theo quy định tại Điều 30 BLTTHS năm 2015 thì: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành chung với việc giải vụ án hình sự”. Theo đó, việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án trên xuất phát từ hành vi trộm cắp của bị cáo N gây ra, nên bị cáo phải là người có trách nhiệm bồi thường, do bị cáo là nhân viên của Công ty BA nên Công ty BA đã ứng tiền ra bồi thường thiệt hại trước cho Công ty VT để khắc phục hậu quả. Vì vậy, Công ty BA yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại khoản tiền trên là hoàn toàn hợp lý. Việc giải quyết yêu cầu này trong vụ án hình sự là
Tạp chí
58
KIÊM SA I Sô 20/2021đúng theo quy định tại Điều 30 BLTTHS năm 2015, đảm bảo sự nhanh chóng, kịp thời trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty BA. Do đó, Tòa án không giải quyết yêu cầu này của Công ty BA là chưa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ mất thêm thời gian và phát sinh thêm vụ kiện đòi lại tài sản nếu như bị cáo không trả lại khoản tiền này cho Công ty BA.
Ý kiến thứ hai cho rằng, Tòa án nhân dân quận H giải quyết như vậy là đúng quy định của pháp luật, có căn cứ và hợp lý, bởi những lý do sau:
Thứ nhất, Toà án nhân dân quận H xác định Công ty BA là bị đơn dân sự trong vụ án, mà theo quy định tại Điều 64 BLTTHS năm 2015 thì: Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Có thể nhận thấy, bị đơn dân sự không phải là người gây ra thiệt hại. Họ có thể là cha mẹ của bị can, bị cáo chưa thành niên; pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do bị can, bị cáo gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; cơ quan, tổ chức phải bồi
thường những thiệt hại do hành vi phạm tội của bị can, bị cáo là cán bộ nhân viên của cơ quan, tổ chức mình gây ra... Trong vụ án này, Công ty BA là pháp nhân thương mại, Tòa án nhân dân quận H căn cứ vào hợp đồng lao động ký kết giữa Công ty BA và bị cáo N để xác định Công ty BA là bị đơn dân sự là đúng quy định của pháp luật. Toà án nhân dân quận H đã áp dụng Điều 597 BLDS năm 2015: Pháp
THỰC TIẾN -KINH NGHIỆM
nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao là hoàn toàn hợp lý.
Th ứ hai, trong vụ án trên có thể nhận thấy có hai hợp đồng cùng tồn tại đó là hợp đồng lao động giữa Công ty BA với bị cáo Nguyễn Thanh N và hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ giữa Công ty BA với Công ty VT. Theo đó, Nguyễn Thanh N là nhân viên của Công ty BA được phân công bảo vệ cửa hàng V thuộc Công ty VT. Khi xảy ra thiệt hại, về nguyên tắc, do bị cáo N là nhân viên của Công ty BA nên Công ty đã đứng ra bồi thường cho Công ty VT theo đúng hợp đồng đã ký kết, Toà án đã ghi nhận sự thoả thuận về việc bồi thường giữa hai Công ty là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Việc Công ty BA yêu cầu bị cáo hoàn trả khoản tiền đã bồi thường cho Công ty VT thì Toà án không giải quyết mối quan hệ này là đúng, bởi lẽ, bị cáo và bị đơn dân sự là những đối tượng phải có trách nhiệm bồi thường, quyền và lợi ích của họ chỉ đối lập với bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không đối lập với nhau. Do đó, việc giải quyết yêu cầu này của Công ty BA cần phải căn cứ vào hợp đồng lao động mà hai bên ký kết, nếu như Toà án nhân dân quận H buộc bị cáo N phải bồi hoàn lại khoản tiền 180 triệu đồng cho Công ty BA và tuyên lãi suất chậm trả đối với khoản tiền này sẽ không phù hợp với nguyên tắc áp dụng Bộ luật lao động trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh giữa người lao động và
người sử dụng lao động.
Tác giả đồng tình với ý kiến thứ hai, Điều 30 BLTTHS năm 2015 về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cần được hiểu theo hướng là quy định về việc giải quyết vấn đề dân sự ngoài hợp đồng. Bởi lẽ, theo hướng dẫn tại Mục 2 Phần I Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự thì vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm: Đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường giá trị tài sản do tài sản bị chiếm đoạt, những tài sản đã bị mất hoặc bị hủy hoại; buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Như vậy, hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về xét xử phần dân sự trong vụ án hình sự được giới hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại Chương XXI BLDS năm 2015. Do vậy, theo tác giả, để tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, Điều 30 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi theo hướng: Việc xác định các vấn đề dân sự được giải quyết chung với vụ án hình sự là các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.n
l ạp chí SỐ20/2021 KIIM SÁ I