Giảm ảnh hưởng của nợ công đến an toàn ngân sách tại Việt Nam
Chính sách & thị trường tài chính - tiền tệ
TS. LÊ THỊ DIỆU HUYỀN
Việt Nam là một nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp nên cần nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Trong thập niên 90, chi tiêu của Chính phủ liên tục tăng dẫn tới các khoản nợ Chính phủ gia tăng mạnh, nhưng do nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao khiến các khoản nợ có xu hướng được bù đắp bởi chính sự tăng trưởng này. Cụ thể, nợ Chính phủ liên tục giảm từ mức 45,6% GDP năm 1990 xuống 39,9% GDP năm 2001. Tuy nhiên, hơn 10 năm trở lại đây, liên tục bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng khiến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại, trong khi đó, áp lực đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng và khôi phục tốc độ tăng trưởng kinh tế đẩy nợ công tăng lên nhanh chóng về cả qui mô lẫn tốc độ, có nguy cơ chạm trần vào cuối năm 2016, nếu không được kiểm soát tốt.
Điều này sẽ đe dọa đến an toàn ngân sách quốc gia.
Từ khóa: nợ công, an toàn ngân sách 1. Một số khía cạnh ảnh hưởng của nợ công đến an toàn ngân sách
An toàn ngân sách được xem như trạng thái ngân sách ổn định, bền vững và lành mạnh, với cơ cấu hợp lý, có khả năng tạo lập và phân phối các nguồn lực tài chính hiệu quả
cao. Thực chất của vấn đề an toàn ngân sách chính là mức độ hợp lý được chấp nhận về quy mô, cơ cấu thu- chi trong quan hệ đa chiều với các yếu tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, giá cả, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thanh toán… Tuy nhiên, khi đề cập đến an toàn ngân sách, cần phải xem xét trong mối quan hệ kiềm chế nợ công ở mức độ hợp lý tối ưu, duy trì khả năng trả nợ, tránh lâm vào tình trạng vỡ nợ. Dưới góc độ lý thuyết, an toàn ngân sách bị chi phối bởi sự gia tăng nợ công trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, số dư hay qui mô nợ công ảnh hưởng đến an toàn ngân sách. Với mức nợ công cao sẽ đẩy chi phí vay nợ tăng lên, nguồn thu buộc tăng lên để đáp ứng cho phần chi trả này nếu như đầu tư từ khoản vay không đem lại nguồn để trả nợ, với nhu cầu chi tiêu của Chính phủ càng gia tăng, thâm hụt ngân sách càng được cộng dồn. Đây chính là bẫy khiến qui mô nợ tăng cùng với chi phí gia tăng kèm theo làm tăng gánh nặng cho ngân sách quốc gia.
Chính vì vậy, khi qui mô nợ công tăng cao khiến cơ cấu ngân sách bị phá vỡ, đồng thời, mức nợ cao sẽ càng làm trầm trọng thêm các yếu tố như lãi suất, tỷ giá, cán cân thanh toán quốc tế... khiến mức độ tín nhiệm quốc gia dưới con mắt các nhà đầu tư quốc tế sẽ giảm và khả năng tài trợ của Chính phủ đối với khoản vay mới cũng khó khăn hơn, kết quả gây áp lực đến ngân sách.
Thứ hai, cấu trúc nợ công không phù hợp sẽ làm gia tăng rủi ro đối với ngân sách. Cấu trúc nợ công được phản ánh thông qua cơ cấu nợ theo kì hạn, cơ cấu nợ theo loại tiền, theo lãi suất, theo thị trường, thậm chí là theo từng chủ nợ. Một cấu trúc nợ đa dạng sẽ giúp giảm thiểu chi phí, hạn chế rủi ro. Cấu trúc nợ công không hợp lý có thể là nguyên nhân dẫn đến những bất ổn cho ngân sách cũng như cho nền kinh tế. Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy các khoản nợ công bằng ngoại tệ chiếm tỷ lệ cao trong cấu trúc nợ công sẽ khiến cho quốc gia phải đối mặt với rủi ro mỗi khi tỷ giá biến động mạnh và khả năng chịu đựng các khoản nợ bằng ngoại tệ khi đến hạn trả nợ đối với ngân sách. Trong quá khứ, nhiều nền kinh tế mới nổi tại khu vực Mĩ La- tinh như Mexico, Argentina đã minh chứng điển hình về tác động của các khoản nợ bằng ngoại tệ đối với an toàn ngân sách khi phần lớn nợ của các quốc gia này đều có mệnh giá bằng ngoại tệ. Bên cạnh đó, tỷ trọng nợ dài hạn/nợ ngắn hạn; nợ lãi suất cố định/nợ lãi suất thả nổi sẽ quyết định tính ổn định của nợ công cũng như các mức rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, và đến lượt nó ảnh hưởng đến cấu trúc chi tiêu ngân sách và các áp lực đối với nghĩa vụ thuế trong tương lai. Ngoài ra, cơ cấu về kì hạn nợ thích hợp có thể đem lại lợi thế cho các quốc gia khi có đủ thời gian chuẩn bị nguồn trả nợ. Do đó, một cơ cấu nợ vững chắc sẽ không chỉ giảm thiểu về chi phí dịch vụ nợ mà đảm bảo giảm rủi ro đối với ngân sách.
Thứ ba, cơ chế phối hợp trong thực hiện chính sách nợ công có thể sẽ làm trầm trọng thêm quyết định của các nhà hoạch định ngân sách. Thực tế, qui mô nợ công hiện tại của quốc gia là hậu quả của các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong quá khứ, nguồn tài trợ thâm hụt ngân sách tại một thời điểm bao gồm nguồn vay nợ và nguồn phát hành từ ngân hàng trung ương. Theo đó, chính sách tiền tệ được yêu cầu phát hành tiền để đáp ứng chi tiêu Bảng 1. Tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách
và nợ Chính phủ so với GDP Năm Thâm hụt
ngân sách (% GDP)
Nợ Chính
phủ (% GDP) Tăng trưởng kinh tế (%)
1990 7,2 450,64 5,1
1991 1,4 350,74 5,96
1992 1,5 229,3 8,65
1993 3,9 174,6 8,07
1994 2,2 153,5 884
1995 4,17 111,1 9,54
1996 3 94,4 9,34
1997 4,05 76,1 8,15
1998 2,49 79,3 5,76
1999 4,37 75,8 4,77
2000 4,95 41,7 6,79
2001 4,67 39,9 6,89
2002 4,5 40,8 7,08
2003 4.9 44,3 7,34
2004 4,85 43,4 7,79
2005 4,86 42,2 8,44
2006 5 39,5 8,23
2007 5,7 38 8,46
2008 4,6 43,9 6,31
2009 6,9 49 5,23
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính
ngân sách sẽ ảnh hưởng đến quyết định của nhà quản lý nợ và quyết định chính sách tài khóa, điều này phá vỡ sự liên kết giữa các chính sách. Kết quả nhà quản lý nợ công sẽ phải đưa ra các quyết định trong ràng buộc có thể ảnh hưởng đến sự ổn định ngân sách và càng làm trầm trọng hơn đối với thực hiện chính sách tài khóa.
2. Mức độ ảnh hưởng của nợ công đến an toàn ngân sách tại Việt Nam
Giai đoạn chưa có Luật Quản lý nợ công (1990- 2009): Mối quan hệ chặt chẽ giữa thâm hụt ngân sách và nợ công đã thể hiện rõ nhất ở Việt Nam vào những năm 90, nhưng khi chưa có Luật Quản lý nợ công thì chủ yếu vẫn quản lý nợ Chính phủ. Trong giai đoạn này, nợ của Chính phủ tăng cao do Chính phủ Việt Nam áp dụng việc in tiền đề bù đắp thâm hụt ngân sách, áp lực gây ra lạm phát và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nhưng sau đó mức nợ Chính phủ giảm dần cùng với phục hồi nền kinh tế, đạt mức tăng trưởng cao trung bình 7- 8%/năm suốt thời kì này. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy việc gia tăng qui mô nợ Chính phủ trong thập kỉ 90 chính là do mức tăng trưởng cao của nền kinh tế, các khoản đầu tư trong nền kinh tế không chỉ dừng lại ở đầu tư của Chính phủ mà đầu tư của tư nhân cũng tăng trưởng mạnh. Mặc dù nợ Chính phủ tăng cao nhưng do tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn là nguồn bù đắp cho những khoản vay. Chính vì vậy, việc qui mô nợ Chính phủ cao giai đoạn này đem lại hiệu ứng tích cực, đó là thúc đẩy tăng trưởng, khuyến khích đầu tư, đảm bảo nguồn thu dồi dào, mức độ thâm hụt ngân sách khá thấp, trung bình giai đoạn này khoảng 3- 4% GDP, giảm áp lực đối với ngân sách
(Bảng 1).
Giai đoạn khi có Luật Quản lý nợ công (2010- nay): Khi Luật Quản lý nợ công có hiệu lực từ 01/01/2010, tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý nợ công tại Việt Nam nhưng có thể nhận thấy nợ công Việt Nam có xu hướng gia tăng nhanh chóng, tiềm ẩn nhiều rủi ro cũng như khả năng trả các khoản nợ trong tương lai, ảnh hưởng lớn đến cấu trúc chi tiêu và thu ngân sách.
Theo đồng hồ nợ công toàn cầu của The Economist cập nhật vào ngày 11/10/2015, nợ công của Việt Nam vào khoảng hơn 92 tỷ USD, nghĩa là trung bình mỗi người dân Việt Nam đang phải gánh một số nợ trên 1.016 USD, tương đương 22 triệu đồng.
Theo báo cáo đánh giá của một số chuyên gia quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) năm 2014, nợ công của Việt Nam vào khoảng 55% GDP, cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực và các nước có thu nhập thấp. Trong khi đó, theo tính toán của Bộ Tài chính Việt Nam, nợ công 2014 khoảng 59,6%
GDP, dự tính đến 2015 là 62,3% GDP và đạt đỉnh là 64,9% GDP năm 2016, mặc dù vẫn trong ngưỡng cho phép (< 65%). Bên cạnh đó, tốc độ tăng nợ công khá nhanh, nếu như trước đây nợ công trung bình tăng gần 10%/năm, từ 2010- 2015 cho thấy mức độ trung bình tăng khoảng 20%/năm, tốc độ tăng cao nhất vào năm 2012 là khoảng 25%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 5- 6% trong cùng giai đoạn. Bên cạnh đó, cơ cấu nợ công cũng có sự thay đổi theo xu hướng gia tăng nợ trong nước, khoản nợ nước ngoài vẫn chủ yếu là nợ ODA (chắc chắn những khoản nợ này sẽ giảm mạnh trong tương lai khi Việt Nam không còn là nước thu nhập thấp), nợ với kỳ hạn ngắn đe dọa bởi rủi ro về Bảng 2. Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia, 2010- 2014
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015*
Nợ công so với GDP 56,3 54,9 55,7 54,1 59,6 62,3
Nợ công nước ngoài so với GDP 31,29 29,09 27,01 25,2 N/A N/A
Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP 42,2 41,5 41,1 39,5 N/A N/A Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung và dài hạn của quốc gia/
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ 3,4 3,5 3,5 3,5 N/A N/A
Dư nợ Chính phủ so với GDP 44,6 43,2 43,3 42,6 N/A N/A
Dư nợ Chính phủ so với thu ngân sách 157,9 162,0 172,0 196,7 N/A N/A Nghĩa vụ trả nợ Chính phủ/ thu ngân sách 17,6 15,6 14,6 15 13,8 16,1
Nguồn: Bản tin nợ công số 3, Bộ Tài chính
lãi suất…
Qui mô và tốc độ tăng nợ công vẫn có xu hướng tăng cao, cơ cấu nợ tiềm ẩn rủi ro, trong khi đó, tỷ lệ thu ngân sách so với GDP có xu hướng giảm nhanh (từ mức 27,3% năm 2010 xuống còn 21,9%
năm 2014) do sự suy giảm kinh tế, nhiều ưu đãi về thuế giúp doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế khó khăn; chi tiêu xu hướng mở rộng cho tăng lương và các chương trình phúc lợi khác, cơ cấu chi tiêu có sự thay đổi, đặc biệt chi tiêu thường xuyên và các khoản chi trả nợ có xu hướng tăng; thâm hụt ngân sách được dự đoán lên tới trên 6,5% GDP năm 2015, vượt trần mức Quốc hội cho phép. Điều này đe dọa thực sự đến cấu trúc ngân sách trong tương lai và dự báo mất khả năng thanh toán của ngân sách có thể xảy ra trong thời gian tới nếu vẫn duy trì và không kiểm soát được sự gia tăng nợ công. Mức độ ảnh hưởng của nợ công đến an toàn ngân sách tại Việt Nam trên giác độ sau:
Thứ nhất, qui mô nợ công gia tăng ngày càng làm xói mòn thu ngân sách khiến cấu trúc thu bị phá vỡ, an toàn ngân sách bị ảnh hưởng. Khoản nợ vay tăng để đầu tư nhưng chưa tạo ra nguồn để trả nợ, khi đến hạn ngân sách phải đảm bảo cân đối để trả nợ, không chỉ trả nợ gốc mà cả chi phí dịch vụ nợ.
Do đó, một phần nguồn thu được sử dụng để trả nợ sẽ không được đưa để tái đầu tư đối với nền kinh tế, có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà đây là nơi tạo ra nguồn thu cho ngân sách. Điều này cho thấy
nguồn thu ngân sách sẽ bị bào mòn bởi khoản chi trả nợ vay.
Thực tế cho thấy tại Việt Nam hiện nay, việc điều chỉnh giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ từ 25% xuống 22%, tiếp tục giảm tới 20% vào 2016, cùng với đó giá dầu trên thế giới sụt giảm mạnh, khiến thu từ dầu thô không đạt theo dự toán.
Bên cạnh đó, xu hướng gia tăng chi tiêu càng mạnh mẽ, khiến thâm hụt ngân sách gia tăng, cụ thể, theo Chỉ thị 06 của Thủ tướng Chính phủ, đầu năm 2015 đã tạm thời không cho phép sử dụng 10% dự toán chi thường xuyên 8 tháng cuối năm để đề phòng nguồn thu ngân sách giảm lớn và 50% nguồn ngân sách dự phòng các cấp cũng được giữ lại đến cuối năm 2015.
Thứ hai, một số loại rủi ro cấu trúc danh mục nợ khiến gia tăng nghĩa vụ trả nợ trong và ngoài nước, gây áp lực trả nợ trong tương lai đối với ngân sách.
Việc điều chỉnh liên tục tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua, đặc biệt là việc phá giá đồng nhân dân tệ của Trung Quốc và sự biến động tỷ giá khá lớn của Yên Nhật đã làm tăng giá trị nợ danh nghĩa của Việt Nam. Trong nghiên cứu về
“Nợ công và và tính bền vững nợ của Việt Nam”
cho thấy, khi tỷ giá VND/USD tăng 1% thì gánh nặng nợ công tăng thêm 10.000 tỷ đồng do 80% nợ vay nước ngoài là bằng đồng USD. Do đó, nguy cơ gia tăng gánh nặng nợ bởi biến động tỷ giá sẽ tăng lên do hiện nay ở Việt Nam chưa có thị trường bảo Hình 1. Qui mô thu- chi và thâm hụt ngân sách/GDP giai đoạn 2010- 2014
Nguồn: Báo cáo IMF, 2014
Bảng 3. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách 2010 2011 2012 2013 2014 2015*
Trả nợ chính phủ
(tỷ đồng) 86.496 111.710 108.186 125.254 141.520 166.320 Trả nợ trực tiếp
của chính phủ/thu
ngân sách (%) 14,2 13,9 12,8 12,6 13,8 16,1 Nguồn: Hội thảo tổng kết quản lý nợ, BTC 2015.
* là số dự kiến
hiểm rủi ro tỷ giá. Việc cấu trúc một danh mục nợ với tỷ lệ tới 90% tập trung vào 4 loại ngoại tệ cơ bản (Yên Nhật, USD, SDR và EUR) hiện nay sẽ làm cho danh mục nợ của Việt Nam ở tình trạng mở với rủi ro tỷ giá. Ngoài ra, trong danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ và Chính phủ bảo lãnh đang có nhiều khoản vay với lãi suất thả nổi (Libor 6 tháng+
margin từ 2%- 4,0%) đang làm gia tăng nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với nợ vay nước ngoài.
Bên cạnh đó, kỳ hạn trung bình các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ với thời gian đáo hạn bình quân khoảng 15 năm (phần lớn các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ vay theo điều kiện ODA, vay ưu đãi) gây áp lực lớn đến rủi ro thanh khoản trong tương lai. Hơn nữa, kỳ hạn nợ trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính phủ được bảo lãnh có kỳ hạn ngắn, hơn 90% có kỳ hạn từ 2- 5 năm và phần lớn được sử dụng để đầu tư cho các chương trình, dự án có thời hạn hoàn vốn dài, thậm chí có dự án không có nguồn thu để trả nợ như xây đường cao tốc, đường hàng không… nên trong thực tế đã phát sinh rủi ro thanh toán trong thời gian tới đối với khoản vay nợ trong nước. Dự báo nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách là 16,1% năm 2015 (vượt so với qui định hiện tại là 15%). Do vậy, việc bố trí nguồn thu để trang trải khoản nợ trong tương lai gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, nhiều khoản nợ trở thành gánh nặng nợ công trực tiếp, ảnh hưởng đến nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách. Trong giai đoạn 2010- 2015, số các chương trình, dự án vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ với trị giá lớn có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt là khoản phát hành trái phiếu quốc tế Chính phủ cho Vinashin vay lại (750 triệu USD), các khoản vay ODA cho các dự án cũng
có khả năng không trả được nợ đến hạn do nguồn thu phí trên các tuyến cao tốc không đủ để thanh toán cho các nghĩa vụ nợ…. Bên cạnh đó, sự yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước làm gia tăng gánh nặng cho ngân sách, mặc dù nợ doanh nghiệp Nhà nước không được tính vào nợ công, nhưng có thể chuyển thành nợ công bất cứ lúc nào trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Chính vì vậy, các doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh vay vốn (chiếm trung bình khoảng 17- 20% tổng nợ công), với xu hướng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, nghĩa vụ trả nợ của các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh từ nợ dự phòng của ngân sách có nguy cơ trở thành nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và Chính phủ buộc phải sử dụng ngân sách để trả nợ, gánh nặng ngân sách ngày càng được cộng dồn.
3. Giải pháp giảm thiểu ảnh hưởng của nợ công đến an toàn ngân sách
Thứ nhất, xây dựng cơ cấu nợ công hợp lý - Chuyển cơ cấu vay nợ ngắn hạn sang vay nợ dài hạn để tránh cơ cấu nợ công nguy hiểm. Hiện nay, về cơ cấu nợ công, khoảng trên 50% là nợ nước ngoài với điều kiện vay cơ bản là ưu đãi và thời gian đáo hạn còn lại khoảng 15 năm, dưới 50% còn lại là khoản vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn phần lớn nằm trong khoảng từ 2- 5 năm. Trong đó, tỷ lệ các khoản nợ vay ngắn hạn khá lớn nhưng đang có xu hướng giảm dần, có khoảng 30% huy động trong nước có thời gian trả nợ ngắn nhưng 10% trong số này là các khoản được vay để đảo nợ, tức là không làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ mới (nếu trừ nghĩa vụ vay đảo nợ thì nghĩa vụ nợ phát sinh không nhiều). Tuy nhiên, với kỳ hạn vay ngắn nên áp lực về vay mới để trả các khoản vay cũ trong nước là tương đối lớn, cùng với mức lãi suất tương đối cao và biến Hình 2. Cơ cấu nguồn vốn huy động nợ công giai đoạn 2010- 2015
Nguồn: Hội thảo quốc tế tổng kết quản lý nợ, BTC 2015
* là số dự kiến
động trên thị trường trong nước. Chính vì vậy, điều chỉnh cơ cấu nợ công theo hướng chuyển từ cơ cấu vay ngắn hạn sang vay dài hạn, phát hành trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dài hơn (5 năm, 10 năm, 15 năm), hạn chế sử dụng vay mới để đảo nợ cũ. Điều này sẽ tránh được cơ cấu nợ công nguy hiểm, đảm bảo thanh toán nợ đúng hạn, có nguồn để trả nợ sẽ là giải pháp trước mắt giảm áp lực về trả nợ cho ngân sách.
- Cấu trúc lại nợ theo hướng giảm các khoản vay lãi suất cao, lãi suất phù hợp với chỉ số lạm phát. Mức lãi suất trung bình vay nợ nước ngoài tương đối thấp khoảng từ 1,5- 2%/năm, trong khi đó vay nợ trong nước thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ với mức trung bình từ 9- 12%/năm. Hơn nữa, đối với những khoản vay nước ngoài chủ yếu là vay ODA, nhưng hiện Việt Nam đã thoát khỏi nước có thu nhập thấp, khoản vay ODA sẽ có xu hướng giảm và thay vào đó là những khoản vay thương mại với mức lãi suất cao hơn, đối với khoản vay trong nước chịu nhiều chi phối từ biến động thị trường lãi suất trong nước. Chính vì vậy, nhằm giảm bớt gánh nặng về chi phí dịch vụ nợ đối với ngân sách trong tương lai cũng như đảm bảo thanh toán nợ vay đúng hạn, đòi hỏi phải điều chỉnh đối với những khoản vay có mức lãi suất cao, tiến tới phát hành những khoản vay có điều chỉnh theo chỉ số lạm phát hay điều chỉnh theo chỉ số tiền tệ để tránh những rủi ro về lạm phát và tỷ giá trong điều kiện càng nhiều biến động, do đó, giảm ảnh hưởng của nợ công đến khả năng trả nợ của ngân sách.
- Xây dựng cơ cấu đồng tiền vay đa dạng hơn nhằm tránh ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối khi đến thời kì thanh toán nợ nước ngoài. Đối với đồng tiền vay nợ nước ngoài chủ yếu hiện nay vẫn là đồng Yên Nhật, USD, SDR và EUR. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây với xu hướng biến động trên thị trường ngoại tệ, cần phải đa dạng đồng tiền vay nợ để giảm thiểu rủi ro về tỷ giá. Hơn nữa, với cơ cấu đồng tiền vay nợ ổn định tập trung vào đồng tiền mạnh hay đồng tiền ít có sự biến động sẽ là điều kiện tránh ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối bởi vì việc thanh toán nợ nước ngoài đến hạn nếu như không có nguồn để trả nợ, lúc này không chỉ dừng lại ở gánh nặng ngân sách mà còn là gánh nặng lên dự trữ ngoại hối của quốc gia, và kết quả ảnh hưởng khả năng thanh toán các
khoản nợ khi đến hạn, gây mất an toàn ngân sách.
Việc giới hạn tỷ trọng nợ ngoại tệ trong cơ cấu danh mục nợ quốc gia cũng sẽ giúp quản lý loại rủi ro này (tỷ lệ này ở một số quốc gia là khá thấp như Austrailia 10- 15%; Colombia tối đa 33%; Thụy Điển 27%; Ailen 6%; các nước khác như Bỉ, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ là 0%).
- Điều chỉnh cơ cấu nợ công theo xu hướng giảm nợ công nước ngoài trong tổng vay nợ. Trong điều kiện trước đây khi Việt Nam là nước nghèo lại vừa thoát khỏi chiến tranh nên phần lớn khoản vay là từ các nước Đông Âu hay Liên Xô cũ dưới hình thức vay viện trợ nên cơ cấu nợ chủ yếu là nợ nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cơ cấu này đang được dịch chuyển tới mức khá cân bằng, nhưng trong xu thế mới, cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu nợ theo xu hướng tăng tỷ trọng vay nợ trong nước, giảm tỷ trọng vay nợ nước ngoài. Việc điều chỉnh này sẽ tránh được sự phụ thuộc đối với khoản vay từ bên ngoài kèm điều kiện nhất định, giảm bớt rủi ro về tỷ giá và gây áp lực lên dự trữ ngoại hối, đồng thời, chủ động hơn với khoản vay trong nước nhằm kết hợp với chính sách tiền tệ để điều hành thị trường tài chính trong nước.
Thứ hai, đảm bảo bền vững của ngân sách dựa trên yếu tố kỷ luật tài khóa
- Tăng cường kiểm soát chặt chẽ thu ngân sách, tránh tình trạng hụt thu, đảm bảo nhu cầu thanh toán của Chính phủ. Việc điều chỉnh giảm thuế cùng với thắt chặt kỷ luật thuế sẽ có tác dụng giảm nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp và dân cư nhưng cần phải được tính toán cẩn trọng và tuân thủ nghiêm túc nhằm đảm bảo giảm nghĩa vụ thuế nhưng vẫn đảm bảo nguồn thu thông qua kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo mặt bằng thuế thấp cùng với cơ cấu thuế phản ánh chủ trương khuyến khích theo từng khu vực, ngành nghề chủ động sẽ mang lại hiệu quả bền vững hơn là đột ngột giảm thuế vào những thời điểm khi nguồn thu thuế đã thực sự cạn kiệt như hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu phải đánh giá mức độ chịu đựng các nghĩa vụ thuế căn cứ vào cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, diễn biến của chu kỳ kinh tế để đưa ra các quyết định điều chỉnh giảm nghĩa vụ thuế đúng thời điểm và liều lượng phù hợp.
- Điều chỉnh cơ cấu chi tiêu công bao gồm chi tiêu
thường xuyên và chi đầu tư. Về dài hạn, cần có lộ trình giảm tỷ trọng chi tiêu thường xuyên, dành nhiều khoản chi hơn cho đầu tư phát triển kinh tế với những ngành trọng điểm và chủ đạo trong nền kinh tế. Cần tăng cường tiết kiệm chi tiêu, trong đó, đảm bảo chi lương gắn với hiệu quả của nguồn nhân lực, hiệu quả quản lý cũng như chất lượng dịch vụ công, việc dự toán chi tiêu cần tiến hành cùng với với quá trình cải cách cơ chế sử dụng nguồn nhân lực, thu hẹp đối tượng hưởng lương từ ngân sách, tinh giảm bộ máy quản lý kém hiệu quả, trao quyền tự chủ về sử dụng quỹ lương cho các đơn vị hành chính để có thể có cơ chế trả lương theo chất lượng, có chế tài đồng bộ với nạn tham nhũng, quan liêu trong việc cung ứng dịch vụ công. Hơn nữa, nâng cao hiệu quả sử dụng khoản chi ngân sách, các khoản chi đầu tư phải đem lại lợi ích lâu dài trong tương lai, đồng thời, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, động lực phát triển đồng bộ và toàn diện nền kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bolle, Monica, Bjorn Rother, and Ivetta Hakobyan (2006) “The Level and Composition of Public Sector Debt in Emerging Market Crises,” IMF Working Paper No. 06/186.
2. Lili Liu and Vikram Nehru-IDA, Masahiko Takeda and Dhaneshwar Ghura (2010), Vietnam Debt Sustainability Analysis 2010, prepared by the staffs of the International Development Association and the International Monetary Fund.
3. Markus Rodlauer and Ranil Salgado (2014), Vietnam Debt Sustainability Analysis 2014, IMF Country Report No.14/311.
4. Udaibir S. Das, Michael Papapioannou, Guilherme Pedras, Faisal Ahmed, and Jay Surti (2010) “Managing Public Debt and Its Financial Stability Implication”. IMF Working Paper No. 10/280.
5. Chỉ thị 06/TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc tăng cường chỉ đạo điều hành nhiệm vụ tài chính-ngân sách Nhà nước năm 2015 ngày 21/4/2015.
6. Ủy ban Kinh tế Quốc hội và UNDP tại Việt Nam (2013), Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai, Báo cáo nghiên cứu RS-05.
SUMMARY
Reduction in public debt effects on state budget stability in Viet Nam
The rapidly growing public debt has become a major concern for the safety of state budget in Viet Nam. This study examines the relationship between state budget and public debt before and after the Public Debt Management Law in Vietnam. In 1990s, high levels of government debt was tended to be compensated by the economic growth. In recent years, while economic growth of Viet Nam slowed, the demand for infrastructure investment and economic recovery expanded the government debt in level and magnitude, leading to state budget stability. The solutions to limit the detrimental effects of public debt on state budget stability contains: (i) Develop the appropriate public debt structure in term of period, interest rate and currency that avoids the large fluctuations in debt impacting on burden budget; (ii) Ensure the budgetary stabilization based on the fiscal discipline aiming at complying with regulatory standards, enhancing fiscal policy enforcement.
THÔNG TIN TÁC GIẢ Lê Thị Diệu Huyền, Tiến sĩ
Đơn vị công tác: Khoa Tài Chính, Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tài chính- Ngân hàng; Thuế; Ngân sách; Đầu tư công…
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Ngân hàng, Quản lý ngân quỹ, Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, Nghiên cứu hải quan.
Email: [email protected]
- Tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ tiêu giới hạn về bội chi ngân sách. Các chỉ tiêu bội chi ngân sách, ngưỡng nợ công đã được Quốc hội phê duyệt nhưng thực tế việc vi phạm chỉ tiêu này đã làm giảm tính hiệu lực trong chính sách tài khóa. Do đó, trong thời gian tới, cần siết chặt kỷ cương trong việc thực hiện các chỉ tiêu đề ra nhằm nâng cao kỷ luật tài khóa.
Cụ thể, việc tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ tiêu giới hạn chi ngân sách cũng cần được chi tiết hơn nữa theo từng khoản như chi chuyển nguồn, mức tạm ứng ngân sách, định mức chi tiêu thường xuyên…
bởi vì hầu hết các chi tiêu này đều vi phạm một cách nghiêm trọng. Chính vì vậy, cần rà soát lại các quy định pháp lý và thẩm quyền quyết định khi thông qua dự toán ngân sách hàng năm, quyết định thay đổi bội chi hay ngưỡng nợ công, chấp thuận cơ cấu thu, chi ngân sách… phải được xem xét cẩn trọng và đảm bảo cân đối vĩ mô. ■