• Tidak ada hasil yang ditemukan

hành động trách của các nhân vật giao tiếp trong ca dao nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2025

Membagikan "hành động trách của các nhân vật giao tiếp trong ca dao nam"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY

Số 79 (01/2022) No. 79 (01/2022)

Email: [email protected] ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/

HÀNH ĐỘNG TRÁCH CỦA CÁC NHÂN VẬT GIAO TIẾP TRONG CA DAO NAM BỘ

Critical acts of characters in Southern folk songs

TS. Trần Đức Hùng(1), Trần Chánh Băng(2)

(1)Trường Đại học Đồng Tháp

(2)Học viên cao học Trường Đại học Đồng Tháp

TÓM TẮT

Ca dao Nam Bộ vốn là kho tàng văn hóa quý giá của dân tộc Việt Nam nói chung, người dân Nam Bộ nói riêng. Những bài ca dao Nam Bộ từ trước đến nay đã đi vào tâm tư tình cảm, cách ứng xử của con người nơi đây. Nghiên cứu hành động trách trong ca dao Nam Bộ không chỉ giúp khảo sát được số lượng và tìm ra những đặc điểm về cấu trúc và ngữ nghĩa của hành động trách mà còn giúp chúng ta thấy được những nét văn hóa, tính cách con người Nam Bộ thông qua cứ liệu ngôn ngữ trong ca dao.

Từ khóa: ca dao, hành động trách, Nam Bộ, ngữ nghĩa, nhân vật

ABSTRACT

Southern folk songs are embedded in Vietnam’s cultural treasure in general and of the Southern people in particular. This poetic genre has long been attached to the local people’s conducts and affections.

Research on critical acts in this corpus not merely provides the quantity of features regarding the linguistic patterns and meanings of the act type, but also uncovers the Southern people’s culture and qualities.

Keywords: folk songs, critical act, Southern, semantic, character

1. Mở đầu

Ca dao Việt Nam được xem là tấm gương phản ánh trung thực hình ảnh thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam. Vì thế, ca dao mỗi vùng miền luôn có những đặc trưng riêng biệt phản ánh đặc điểm xứ sở, con người vùng đất ấy. Ca dao Nam Bộ (CDNB) vốn là kho tàng văn hóa quý giá của dân tộc Việt Nam nói chung, người dân Nam Bộ nói riêng. Nó là kết tinh tinh hoa sáng tạo tinh thần của nhân dân lao động, là tấm gương phản chiếu môi trường thiên nhiên, đời sống tư tưởng – tâm hồn

của con người Nam Bộ. CDNB với những đặc trưng vốn có, đã trở thành một đề tài muôn thưở cho những ai yêu quý và cảm mến vùng đất này. Đến với CDNB, ta bắt gặp ngay những hình ảnh mộc mạc, chân quê, những cách nói chân chất, thật thà của con người vùng Nam Bộ nhưng cũng không kém phần tinh tế, ý nhị. Sự mộc mạc, giản đơn mà tinh tế, ý nhị ấy chính là nét đẹp tâm hồn của con người Nam Bộ.

Những bài CDNB từ trước đến nay đã đi vào tâm tư tình cảm, cách ứng xử của con người nơi đây. Vì vậy, tìm hiểu CDNB là

Email: [email protected]

(2)

ta đã chạm đến những góc khuất trong tâm hồn người dân ở miền sông nước này.

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu tiếng Việt dưới góc độ sử dụng ngôn ngữ trong thực tế nói chung và nghiên cứu hành động ngôn ngữ nói riêng đã thu hút được nhiều sự quan tâm, nhất là các hành động ngôn ngữ riêng biệt như hành động khen, cam kết, điều khiển, bộc lộ,... tuy nhiên, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm của các hành động ngôn ngữ trong ca dao, nhất là ca dao các vùng địa phương. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi nghiên cứu những đặc điểm về cấu trúc và ngữ nghĩa của hành động trách trong CDNB để thấy được những thói quen tư duy, hành động, cũng như nét văn hóa, tính cách riêng của con người nơi đây.

2. Cấu trúc và ngữ nghĩa hành động trách của các nhân vật giao tiếp trong ca dao Nam Bộ

2.1. Cấu trúc hành động trách của các nhân vật giao tiếp trong ca dao Nam Bộ

Hành động trách, theo sự phân loại của Austin, thuộc lớp hành vi ứng xử. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Trách “Tỏ lời không bằng lòng về người có quan hệ nào đó, cho là có hành vi, thái độ không đúng, không hay, không tốt đối với mình hoặc có liên quan đến mình” (Hoàng Phê, chủ biên, 2003). Hành động trách không chỉ giới hạn ở bản thân người nói (trách thân, tự trách) mà còn hướng tới các đối tượng xung quanh có liên quan đến mình.

Khảo sát 5504 dòng thơ trong cuốn Ca dao – dân ca Nam Bộ của tác giả Bảo Định Giang (chủ biên), chúng tôi thống kê được 452 hành động trách. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc, chúng tôi chia biểu thức ngữ vi trách thành hai dạng cơ bản: biểu thức ngữ vi trách đầy đủ và biểu thức ngữ vi trách tỉnh lược. Số lượng cụ thể được thể hiện ở bảng thống kê sau:

Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ của các biểu thức ngữ vi trách

Cấu trúc hành động trách Dạng đầy đủ Dạng tỉnh lược Tổng số

Số lượng 3 449 452

Tỉ lệ % 0.7% 99.3% 100%

Bảng thống kê cho thấy, biểu thức ngữ vi trách dạng đầy đủ có số lượng rất ít: chỉ có 3/452 hành động, chiếm tỉ lệ 0.7%; còn lại là biểu thức ngữ vi trách dạng tỉnh lược:

449/452 hành động, chiếm tỉ lệ 99.3%.

Những số liệu trên cho chúng ta thấy biểu thức ngữ vi trách dạng tỉnh lược chiếm số lượng ưu thế vượt trội so với biểu thức ngữ vi trách dạng đầy đủ.

2.1.1. Biểu thức ngữ vi trách dạng đầy đủ

Trách là dạng hành động thuộc về ý

chí của con người, nó thể hiện hoạt động tư duy của mỗi cá nhân. Cấu trúc của hành động trách dạng đầy đủ được cụ thể hóa bằng mô hình như sau:

Sp1+ ĐTNV trách + Sp2 + P Trong đó:

- Sp1 (A): là vai nói - thực hiện hành động trách

- ĐTNV trách (B): động từ ngữ vi trách

- Sp2 (C): là vai nghe - người tiếp nhận hành động trách

(3)

- P (D): là nội dung trách

Trong CDNB, các nhân vật giao tiếp sử dụng hành động này rất ít, chỉ có 0.7%.

Điều này cho chúng ta thấy được đây là kiểu công thức khuôn phép, có tính trung hòa về sắc thái:

(1) Tôi trách anh bạn đảo điên [CDNB, tr. 239]

A B C D

(2) Em trách ai non dạ kiếm tìm [CDNB, tr. 249]

A B C D

(3) Đêm nằm em trách ông trời xanh, A B C

Ông sắp làm chi anh đầu non, em góc núi, Để kẻ đi tắt về quanh một mình. [CDNB, tr. 312] D

Như vậy, biểu thức ngữ vi trách đầy đủ thường dùng ở những đối tượng giao tiếp mang tính chất xã giao, những người chưa thân thiết và thường không phân biệt vị thế cao thấp trong giao tiếp. Do đó, các nhân vật mặc dù trách đối phương nhưng vẫn thể hiện phép lịch sự theo văn hoá giao tiếp ứng xử hằng ngày.

2.1.2. Cấu trúc hành động trách dạng tỉnh lược

Trách thuộc nhóm hành động đe dọa thể diện người nghe, do đó người nói phải lựa cách nói như thế nào đó để tránh được mức tối đa đến việc làm mất lòng người nghe. Vì vậy, trong thực tế giao tiếp, các nhân vật thường dùng nhiều biểu thức ngữ vi trách dạng tỉnh lược.

Cấu trúc của biểu thức ngữ vi trách này có thể tỉnh lược thành tố Sp1 hoặc tỉnh lược cả Sp1 và P. Ví dụ:

(4) Đêm nằm phiền trách ông tơ, Biểu ông xe đây vợ, đó chồng, ông không.

[CDNB, tr. 260]

Trong bài ca dao trên, biểu thức ngữ vi trách ông tơ được thể hiện thành mô hình:

ĐTNV trách + Sp2. Trong mô hình này, chúng ta thấy khuyết thành tố Sp1 và thành

tố P. Mặc dù yếu tố Sp1 đã bị khuyết nhưng chúng ta vẫn đoán được người trách là nhân vật nữ trong mối quan hệ tình cảm với người nghe. Nội dung trách dường như bị khuyết, bởi vì đây là hành động gián tiếp, người nói (Sp1) mượn ông tơ để nói về số phận hẩm hiu, tình duyên không không thành (vì những nguyên nhân khác nhau) của mình.

Trong một số biểu thức ngữ vi có hiệu lực ở lời là trách nhưng lại không có động từ ngữ vi trách. Cấu trúc này rất đa dạng, có thể mở đầu bằng đại từ ai dùng để hỏi, hoặc dùng các từ “sao...” / “... sao...”,

“tại…” / “... tại...”, “bởi...” / “... bởi...”,

“vì...” / “... vì...” hoặc cấu trúc “Hồi nào....

Bây giờ” ...

(5) Ai làm cho đó bỏ đăng, Cho con áo trắng bỏ thằng áo xanh.

[CDNB, tr. 155]

(6) Con cá lành canh bỏ hành thơm nhẹ, Sao em nỡ đành bỏ mẹ theo trai.

[CDNB, tr. 461]

(7) Hồi nào một gối đôi đầu, Bây giờ bỏ thảm bỏ sầu cho em.

[CDNB, tr. 299]

Như vậy, trong ca dao Nam Bộ, hành động trách dạng tỉnh lược được các nhân vật sử dụng nhiều và có cấu trúc đa dạng.

Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên hành động trách cũng có nhiều cách biểu hiện khác nhau. Mỗi hành động trách là một chiến lược riêng của nhân vật giao tiếp.

Điều này cho thấy tác giả dân gian đã sử dụng từ ngữ một cách khéo léo, linh hoạt.

2.2. Các nhóm ngữ nghĩa của hành động trách qua lời thoại nhân vật trong ca dao Nam Bộ

Trong ca dao, ngữ nghĩa của hành động ngôn ngữ có thể là nghĩa tường mình hay hàm ngôn. Trong đó, nghĩa hàm ngôn

(4)

được hiểu là: “nghĩa thực của một phát ngôn có thể suy ra trên một cấu trúc bề mặt cụ thể, gắn với một ngữ cảnh cụ thể” (Đỗ Thị Kim Liên, 1999).

2.2.1. Trách những việc làm, cách đối xử không đúng, không hay

Những cách đối xử không phải, những cách xử sự không hay, không đúng cũng được thể hiện khá nhiều trong ca dao. Khi gặp những việc làm cảm thấy không phải, không đúng người ta cũng thường buông lời trách móc.

(8) Bậu khoe nhan sắc bậu đắt chồng, Qua không ế vợ, bậu đừng hòng bẻ bai.

[CDNB, tr. 184]

Ví dụ (8) là hành động trách của nhân vật nam đối với nhân vật nữ. Theo Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, bậu có nghĩa là: “Tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật, cách nói xưa “qua, bậu” được dùng xưng gọi trong quan hệ vợ chồng, người yêu” (Huỳnh Công Tín, 2009); qua có nghĩa là: “Từ người lớn dùng để tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi tính chất khách quan, nhưng thân tình”

(Huỳnh Công Tín, 2009). Ở đây, chàng trai trách cô gái khoe nhan sắc để hàm ý chê bai chàng trai không phù hợp. Tuy đây là lời trách nhẹ nhàng nhưng lại sâu sắc của chàng trai. Điều này đã thể hiện tính cách thẳng thắn của người dân Nam Bộ.

2.2.2. Trách vì không được hiểu ý, không hài lòng, không thỏa mãn

Như đã nói ở trên, trách là hành động ngôn ngữ nhằm nói lên, nói ra những điều không vừa ý, không bằng lòng của bản thân. Vì thế, khi không hài lòng, nhân vật trữ tình sẽ thể hiện hành động trách.

(9) Ngó lên sao tỏ trăng lờ,

Duyên đây bớ bậu, bậu chờ duyên đâu?

[CDNB, tr. 332]

Ví dụ (9) là hành động trách của nhân vật nam đối với nhân vật nữ vì đã không để ý đến mình. Chàng trai trong bài ca dao này đem lòng thương cô gái, nhưng cô gái lại không đáp lại tấm chân tình của chàng trai.

2.2.3. Trách con cái bất hiếu

CDNB phản ánh mọi mặt đời sống xã hội của con người Nam Bộ, hầu hết các vấn đề trong cuộc sống đều được đưa vào ca dao và khi nói về hành động trách trong ca dao thì các chủ đề liên quan đến tình cảm gia đình, đạo đức, lối sống... luôn được đặt lên hàng đầu.

(10) Con cá lành canh bỏ hành thơm nhẹ, Sao em nỡ đành bỏ mẹ theo trai.

[CDNB, tr. 461]

Trong ví dụ (10), đây là lời trách của nhân vật nam đối với nhân vật nữ vì đã bất hiếu với người mẹ của mình. Từ đành trong tiếng Việt là từ đa nghĩa: “1. Miễn cưỡng bằng lòng vì suy tính thấy không thể khác được; 2. Vừa lòng; 3. Đang tâm”

(Hoàng Phê, chủ biên, 2003). Từ đành trong bài ca dao trên dùng ở nghĩa thứ ba là đang tâm. Điều này cho thấy nhân vật nữ đã phụ lòng, quên đi công lao dưỡng dục của người mẹ, một người đã sớm hôm tần tảo nuôi nấng chăm sóc. Cô gái vì tiếng gọi của tình yêu mà bỏ mẹ bơ vơ một mình.

2.2.4. Trách lòng người phụ bạc, thay đổi

Trong tình cảm, chuyện hợp rồi tan không phải là điều quá mới mẻ. Có những người yêu nhau, đến với nhau hạnh phúc, cũng có những người yêu nhau nhưng không thể đến được với nhau. Nguyên nhân có thể từ phía người nam hoặc người nữ. Tuy nhiên, suy cho cùng, khi không đến được với nhau thì họ thường đổ lỗi và trách móc nhau.

(5)

(11) Kể từ ngày anh đau bịnh ban cua lưỡi trắng, miệng đắng cơm hôi,

Em đến đây đỡ đứng bồng ngồi, Sao giờ anh ở bạc, Duyên nợ đổi dời không vui.

[CDNB, tr. 440]

Bài cao dao (11) là lời trách của nhân vật nữ đối với nhân vật nam vì đã phụ bạc mình. Nhân vật nữ nhớ lại quá khứ cuộc sống gắn bó, trải qua nhiều gian nan vất vả của hai người. Cô gái đã từng phải cực khổ để chăm sóc chàng trai khi bị đau ốm, cơ hàn. Tuy nhiên, chàng trai đã không giữ tình nghĩa trọn vẹn mà thay lòng đổi dạ, quên đi những ngày tháng cực khổ mà hai người đã từng trải qua. Điều này cho chúng ta thấy được trong chuyện tình cảm, phụ nữ thường luôn phải chịu thiệt thòi. Bên cạnh đó, các nhân vật trữ tình còn thể hiện hành động trách vì lòng người cũng có khi thay đổi.

(12) Áo bà ba cái ngắn, cái dài, Sao anh không bận, bận chi hoài

chiếc áo bành tô.

[CDNB; 175]

Người dân Nam Bộ từ những ngày đầu lập nghiệp đã tạo ra chiếc áo bà ba để thích nghi, thuận tiện trong lao động sản xuất. Áo bà ba được dùng phổ biến, lâu dần trở thành trang phục thân quen của người dân vùng đất này. Theo quan hệ hoán dụ, áo bà ba dùng để chỉ người Nam Bộ. Cho nên, áo bà ba thể hiện cách sống dung dị, phóng khoáng của con người trên vùng đất phương Nam Tổ quốc.

Ngược lại, áo bành tô là sản phẩm được du nhập từ phương Tây, nên nó được dùng biểu trưng cho sự sang trọng, quý phái.

Qua những hình ảnh đó, cô gái muốn trách chàng trai vì ham cuộc sống giàu sang mà đã thay lòng, đổi dạ, quên đi quá khứ cực khổ mà hai người đã vượt qua.

2.2.5. Trách hành động của cha mẹ đối với con cái

Cha mẹ là đấng sinh thành có công lao nuôi dưỡng và luôn mong muốn những điều tốt đẹp đến với con của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống, có những lúc quan hệ gia đình không còn nguyên vẹn vì cha mẹ và con cái không hòa hợp với nhau hoặc có những cha mẹ vì cuộc sống của bản thân mình mà bỏ rơi con cái...

(13) Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắc lẻo, đôi ta chút bẻo lại gần,

Tại cha với mẹ buông cần đứt dây.

[CDNB, tr. 415]

Ở ví dụ (13) này, qua cách xưng hô, chúng ta có thể nhận ra mối quan hệ gần gũi của các nhân vật. Sp1 xuất hiện trong ví dụ trên đang ở vai dưới, tức là vai con có hành động trách đối với Sp2 đang ở vai trên, tức là cha, mẹ. Nội dung trách ở đây là tại cha với mẹ buông cần đứt dây. Đây là cách dùng ẩn dụ để trách cha mẹ đã có hành động ngăn cản làm cho tình duyên đôi lứa từng trải qua bao khó khăn, gian khổ nay lại bị đứt dây. Bên cạnh đó, hình ảnh cầu váncầu tre không chỉ biểu trưng cho sự khó khăn vật chất trong cuộc sống mà còn biểu trưng cho sự khó khăn, trắc trở trong quan hệ tình yêu nam nữ.

Cuộc sống vốn dĩ như vậy, những người nghèo khổ thường phải chịu thiệt thòi, ngay cả trong tình yêu.

Truyền thống gia đình là điều đáng để nâng niu, trân trọng. Nuôi nấng con cái chính là nền tảng đạo đức, là trách nhiệm của người bố người mẹ. Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải bậc làm cha mẹ nào cũng làm tròn trách nhiệm của mình. Hình ảnh cha mẹ bỏ rơi chính những đứa con của mình vẫn thường diễn ra trong cuộc sống hiện thực và được tái hiện lại trong CDNB.

(6)

(14) Nước nóng đổ miệng bình vôi, Tôi ngồi tôi nghĩ tía tôi, tôi buồn.

Tía tôi dở dại dở khôn, Say mê tinh chồn bỏ mẹ con tôi.

[CDNB, tr. 468]

Con cái trách cha mẹ là điều không nên, nhưng đối với những việc làm sai trái thì đáng để lên án. Người cha trong ví dụ (14) đã say mê tinh chồn mà bỏ rơi con cái, bỏ lại cả hạnh phúc gia đình sau lưng.

Trong bài ca dao, nhân vật tôi mặc dù trách nhưng vẫn gọi đấng sinh thành của mình là tía - một cách xưng hô thân mật, dân dã của người Nam Bộ. Theo Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, tía được hiểu là: “cha, cách xưng gọi người đàn ông có con, trong quan hệ cha - con” (Huỳnh Công Tín, 2009). Người dân Nam Bộ vốn là người dân miệt vườn với bản tính hiền hậu, chất phác, không phô trương hoa mỹ. Cách xưng hô ấy phần nào biểu hiện sự chất phác, mộc mạc, thật thà trong con người họ.

2.2.6. Trách đấng siêu nhiên

Từ xa xưa, đối với con người, đấng siêu nhiên là đối tượng luôn được kính trọng, được tôn thờ, là chủ đề của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật và là nguồn cảm hứng của rất nhiều công trình nghệ thuật khác nhau. Trong ca dao, đấng siêu nhiên, mà cụ thể là Trời, Đất xuất hiện nhiều và mang ý nghĩa trữ tình, chuẩn bị tâm cảnh để nhân vật chính bộc lộ cảm xúc. Tuy nhiên, các đấng siêu nhiên đôi khi cũng trở thành đối tượng bị trách cứ.

(15) Cây da trốc gốc, thợ mộc đang cưa, Gặp em đứng bóng ban trưa, Trách ông trời vội tối, phân chưa hết lời.

[CDNB, tr. 208]

Trong tình yêu, khi tình cảm của hai người không được trọn vẹn thì bất cứ mọi thứ cản trở đều trở thành đối tượng trách.

Trong ví dụ (15), người thực hiện hành

động trách là nhân vật nam. Ở đây ông trời cũng trở thành đối tượng cản trở cuộc gặp gỡ trò chuyện của các cặp đôi. Đối với những người yêu nhau thì thời gian khi họ ở bên nhau trôi rất nhanh, nên lúc nào họ cũng muốn thời gian được kéo dài thêm.

Tuy nhiên, sự vận động của mặt trời vẫn luôn theo một quỹ đạo nhất định. Thực chất, người con trai mượn cớ trách ông trời là để thể hiện tình cảm của mình đối với người con gái mình yêu mà thôi.

Trong hành động trách, người dân Nam Bộ rất linh hoạt ở việc lựa chọn những từ ngữ chỉ mức độ giảm nhẹ, giảm về kích thước để nhằm thể hiện thái độ, tình cảm của mình. Những từ được lựa chọn ở đây vừa gợi hình, gợi cảm, lại vừa bình dị, gần gũi, thân thương. Từ đó, chúng ta có thể thấy được một nét đẹp trong tính cách cũng như văn hóa ứng xử của người Việt ở vùng đất Nam Bộ đó là trọng tình cảm. Cho nên, nếu có trách không tốt thì đối tượng bị trách cũng không có cảm giác nặng nề, khó chịu.

2.2.7. Trách người mai mối

Trong các bài ca dao, hành động trách liên quan đến ông tơ bà nguyệt xuất hiện tương đối nhiều. Chủ đề này thể hiện một quan niệm về hôn nhân, đó là định số. Việc kết hôn không phải muốn là được, cũng không phải từ chối là xong, phải chăng tất cả đều do một lực lượng siêu nhiên huyền bí sắp đặt. Niềm tin này thực chất là tiếng vang của chế độ hôn nhân cổ truyền, một chế độ hôn nhân mà đôi nam nữ trong cuộc không có quyền quyết định. Vì vậy, nhân vật trữ tình trong ca dao ứng xử với ông tơ bà nguyệt theo quy luật: khi tình yêu tốt đẹp thì các chàng trai và cô gái chấp nhận định số, ông tơ bà nguyệt đã quyết định đúng đắn; khi tình yêu tan vỡ hoặc không thành thì họ sẽ oán trách ông tơ bà nguyệt,

(7)

có nghĩa định số là một cái gì đó sai lầm, bất công của tạo hóa.

(16) Đêm nằm phiền trách ông tơ, Biểu ông xe đây vợ, đó chồng, ông không.

[CDNB, tr. 260]

Ví dụ (16) là lời của nhân vật nữ trách ông tơ vì không xe duyên cho cô với người thương. Trong dân gian, ông tơ được xem là “người chuyên dùng dây tơ hồng xe duyên cho người đời, theo một truyền thuyết Trung Quốc; Nguyệt Lão” (Hoàng Phê, chủ biên, 2003). Trong bài ca dao trên, qua cách dùng từ biểu, chúng ta có thể thấy được sự mộc mạc giản dị trong cách nói của người dân Nam Bộ. Tác giả dân gian dùng cách nói trên để thể hiện những tâm sự của mình. Điều này cho chúng ta thấy được tâm hồn những con người Nam Bộ hồn hậu, họ là những chàng trai, cô gái rất cụ thể. Những nhân vật trữ tình ấy đã trở thành biểu tượng của tình yêu, của lòng chung thủy, của cốt cách, phẩm hạnh. Tuy nhiên, có những đôi lứa phải sống xa cách, gặp bất trắc trong tình yêu.

(17) Xa nàng vì bởi mối mai, Ông mai ít tiếng, bà mai ít lời.

[CDNB, tr. 419]

Ông mai, bà mai cũng là hai nhân vật chuyên làm môi giới cho việc hôn nhân theo cách gọi của người Nam Bộ. Bài ca dao (17) là lời trách cứ nhẹ nhàng của nhân vật nam đối với ông mai, bà mai vì ít lời, không làm tròn nhiệm vụ của mình. Thông qua hành động trách, chúng ta có thể thấy được tâm trạng đau khổ của chàng trai khi không thể đến được với người mình yêu.

Do đó, việc trách ông mai, bà mai được xem như là lời biện hộ cho một câu chuyện tình yêu có kết thúc không đẹp.

2.2.8. Tự trách

Nếu những nhóm hành động trách đã nêu ở trên, người trách đều hướng tới một

đối tượng cụ thể, đối tượng ấy thường ở ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ ba thì đối với hành động tự trách, người trách lại hướng nội dung trách vào chính bản thân mình, tức là ngôi thứ nhất. Hành động tự trách trong ca dao thường mang ý nghĩa không hài lòng hay cảm thấy hối hận của các nhân vật trữ tình vì những điều tự mình đã gây ra.

(18) Ngó lên đàng tóc rẽ tư, Tại bụng em từ, chẳng phải tại anh.

[CDNB, tr. 331]

Ví dụ (18) là lời trách của nhân vật nữ tự trách bản thân mình. Đây có lẽ là sự kết thúc không đẹp của một mối quan hệ giữa cô gái và chàng trai. Tuy nhiên, thay vì trách chàng trai, trách những nguyên nhân khác, cô gái lại tự trách bản thân mình, nghĩa là tự nhận phần thiệt thòi về mình. Đó là lời bộc lộ rất chân thành được thốt ra từ đáy lòng của một con người giản dị và có suy nghĩ chín chắn trong tình yêu. Chính cách nói tự nhiên, không trau chuốt, gọt dũa, không cầu kỳ đó mà bài ca dao đã giành được nhiều tình cảm của người tiếp nhận.

2.2.9. Trách yêu

Trách yêu cũng là một hành động mang nội dung trách nhưng lại không nhằm mục đích là trách. Trách yêu là một cách nói để thể hiện tình cảm với đối tượng một cách tế nhị, sâu sắc, kín đáo. Nội dung của những bài ca dao trách yêu không phải để tỏ lời không hài lòng, không thỏa mãn mà trái lại, đó là những điều mà người trách đang thể hiện sự hài lòng, thỏa mãn và thích thú đối với đối tượng được trách.

Đây là hành động hướng tới sự tích cực.

Mối quan hệ giữa người trách và người được trách thường là những mối quan hệ gần gũi thân thiết.

(19) Trời sanh cái nón đội đầu, Sao anh không đội, nhức đầu ai nuôi.

[CDNB, tr. 408]

(8)

Ví dụ (19) là hành động trách yêu của nhân vật nữ dành cho nhân vật nam. Cô gái đã dùng đại từ nghi vấn saoai để hờn trách chàng trai. Ở đây, cô gái muốn tỏ ra mạnh mẽ, thẳng thắn đối với chàng trai nhưng bên trong lại yếu đuối muốn được người mình yêu quan tâm, chăm sóc, chia sẻ. Đây là hành động trách nhẹ nhàng vừa thể hiện sự quan tâm, vừa thể hiện tình yêu gắn bó của cô gái đối với chàng trai.

(20) Tóc em dài sao em không bới, Để chi hoài bối rối dạ anh.

[CDNB, tr. 494]

Tục ngữ Việt Nam có câu: "Cái răng cái tóc là góc con người". Đúng vậy, mái tóc là một trong những hình thức bên ngoài của con người tạo ấn tượng tốt trong quá trình tiếp xúc. Thông thường mái tóc dài được xem là một trong những “tiêu chuẩn cứng” để các chàng trai chọn người yêu, chọn bạn đời. Một cô gái có mái tóc dài đẹp thường gắn với hình dáng đẹp, thùy mị, dễ thương… nên rất dễ được các anh chàng để ý. Trong ví dụ (20), hình ảnh mái tóc dài của cô gái là cái cớ để thể hiện hành động trách yêu. Đây là cách chàng trai dùng để bày tỏ tình cảm của mình.

3. Kết luận

Tóm lại, trách là một hành động tất

yếu trong cuộc sống của con người. Trong hành động trách của mỗi nhân vật, sự tốt, xấu, tích cực hay tiêu cực của sự vật phụ thuộc vào quan hệ trong từng tình huống giao tiếp cụ thể, cũng như thái độ, tình cảm của các nhân vật giao tiếp và còn bị chi phối bởi đặc trưng văn hóa của vùng miền.

Nội dung của hành động trách trong CDNB được thể hiện rất đa dạng, phong phú, thể hiện “khả năng lựa chọn từ ngữ của tác giả dân gian với sắc thái ngữ nghĩa tinh tế nhằm phản ánh các mặt của đời sống tâm hồn, đồng thời thể hiện tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của chủ thể trữ tình mang đặc trưng riêng của vùng đất Nam Bộ” (Trần Đức Hùng và Trần Thanh Vân, 2019). Qua khảo sát hành động trách trong CDNB, chúng tôi cũng rút ra được một số nét đặc trưng văn hóa vùng miền của người Nam Bộ. Đó là lối ứng xử mang đậm bản sắc văn hóa của cư dân vùng sông nước: luôn lấy tình cảm làm trọng, sống cởi mở, phóng khoáng. Nội dung ngữ nghĩa và cách thể hiện hành động trách gắn liền với những nếp nghĩ, thói quen sử dụng từ ngữ hàng ngày và văn hóa ứng xử mang đặc trưng riêng của người Việt ở vùng đất Nam Bộ, một vùng đồng bằng rộng lớn ở phía Nam của Tổ quốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đỗ Thị Kim Liên (1999). Ngữ nghĩa lời hội thoại. Hà Nội: NXB Giáo dục.

Hoàng Phê (chủ biên) (2003). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng.

Huỳnh Công Tín (2009). Từ điển từ ngữ Nam Bộ. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.

Trần Đức Hùng và Trần Thanh Vân (2019). Từ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ, những đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

NGỮ LIỆU

Bảo Đình Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh và Bùi Mạnh Nhị (1984). Ca dao - dân ca Nam Bộ. TP Hồ Chí Minh: NXB TP Hồ Chí Minh.

Ngày nhận bài: 10/9/2021 Biên tập xong: 15/01/2022 Duyệt đăng: 20/01/2022

Referensi

Dokumen terkait