Điều hành tỷ giá và quá trình chống đô la hóa tại Việt Nam
Vấn đề - Sự kiện
Bùi Tín Nghị
Phạm Thị Hoàng Anh
Bài viết nhằm nhìn lại diễn biến tỷ giá trong năm 2016 trên cơ sở đánh giá hiệu lực của cơ chế điều hành tỷ giá mới được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) áp dụng từ ngày 04/01/2016.
Nghiên cứu cho thấy, cơ chế điều hành tỷ giá mới đã khiến cho thị trường ngoại hối Việt Nam dường như đã phản ứng khá tốt các cú sốc từ nội tại nền kinh tế cũng như các cú sốc từ bên ngoài. Trong phần hai, tác giả đánh giá quá trình chống đô la hóa tại Việt Nam dưới góc nhìn của điều hành chính sách tỷ giá. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị chính sách đối với điều hành tỷ giá trong những năm tiếp theo.
Từ khóa: chính sách tỷ giá, đô la hóa, chống đô la hóa, Việt Nam
1. Diễn biến tỷ giá và hoạt động điều hành của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2016
ỷ giá luôn là một yếu tố nhạy cảm với bất cứ một sự kiện hay sự thay đổi về kinh tế- chính trị-xã hội dù đó là trong nước hay trên thế giới. Sau một giai đoạn khá ổn định (2012- 2014), thị trường ngoại hối và tỷ giá lại khiến cho các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia phải quan tâm trước những biến động mạnh trong năm 2015. Chính trong năm này, NHNN đã phải điều hành khá vất vả với 2 lần điều chỉnh biên độ dao động và 3 lần điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng, cộng với hàng loạt các biện pháp gián tiếp nhằm bình ổn tỷ giá. Sang đến đầu năm 2016, tỷ giá và thị trường ngoại hối có thể coi là khá bình ổn (trừ thời điểm
cuối tháng 11 và đầu tháng 12) khi cả năm tỷ giá trung tâm1 chỉ tăng khoảng 1,2% trong khi đó tỷ giá tại ngân hàng thương mại (NHTM) tăng nhẹ hơn, ở mức 1,1%2 tính đến thời điểm 31/12/2016 (so với mức 5,3% trong năm 2015). Một lần nữa tỷ giá trên thị trường ngoại tệ tự do lại gây ra chú ý khi tăng tới 2,25% trong năm 2016 (gần gấp đôi so với mức biến động trên thị trường chính thức). Không những thế, tỷ giá tự do có một thời gian ngắn tăng vượt trần biên độ quy định của NHNN (từ 24/11/2016- 31/12/2016)3, chính thức vượt mốc 23.000 vào ngày 3/12/2016 (Hình 1). Tuy nhiên, vào thời điểm đầu
1 Tỷ giá trung tâm là tên gọi tỷ giá do NHNN công bố theo chế độ tỷ giá mới, thay thế cho tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vốn được sử dụng từ 2/1999 (theo Quyết đinh số 64, 65 ngày 25/02/1999).
2 Tính theo tỷ giá bán của Vietcombank, niêm yết trên website www.vietcombank.com.vn
3 Trần tỷ giá theo quy định của NHNN là 22.820- 22.830, nhưng tỷ giá trên thị trường tự do lên tới 23.400.
năm 2017, tỷ giá trên thị trường tự do đã giảm mạnh và xuống dưới mốc 23.000.
Mặc dù có một số thời điểm tỷ giá có biến động mạnh, nhưng có thể thấy trong suốt năm 2016, NHNN gần như không cần có bất cứ một biện pháp, động thái điều chỉnh, hay can thiệp mạnh trên thị trường nhằm hạn chế sự biến động mạnh của tỷ giá.
Trên thực tế, NHNN chỉ công bố thông tin và đưa ra các thông điệp về cung cầu ngoại tệ. Nhưng quan trọng hơn cả đó là nhà điều hành tiền tệ đã để cho thị trường ngoại hối tự điều chỉnh theo diễn biến cung cầu. Nói cách khác, thị trường ngoại hối đã theo hướng linh hoạt hơn, thị trường hơn, qua đó có thể hấp thụ được các cú sốc cả bên trong và bên ngoài.
Những kết quả đó bắt nguồn từ những nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, NHNN đã chuyển sang cơ chế điều hành tỷ giá mới kể từ ngày 04/01/2016 theo hướng linh hoạt và thị trường hơn. Những thay đổi trong cơ chế điều hành tỷ giá đã giúp thị trường ngoại hối Việt Nam dường như đã phản ứng tốt hơn trước các cú sốc từ nội tại nền kinh tế cũng như các cú sốc từ bên ngoài. Theo cơ chế này, tỷ giá trung tâm được NHNN công bố thay cho tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Tỷ giá trung tâm được xác định dựa trên 3 yếu tố chính: (i) Tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày liền trước;
(ii) Diễn biến tỷ giá trên thị trường quốc tế được tính toán tương quan với rổ 8 đồng tiền của các đối tác thương mại, đầu tư, vay nợ có ảnh hưởng nhất đối với Việt Nam gồm USD, EUR, CNY, THB, JPY, SGD, KRW và TWD; và (iii) Cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ (CSTT). Như vậy, tỷ giá trung tâm không
chỉ dựa trên tỷ giá bình quân liên ngân hàng mà còn được xác định dựa vào sự biến động của 1 rổ tiền tệ gồm 8 loại tiền tệ chủ chốt. Tuy nhiên NHNN không công bố tỷ trọng của từng loại tiền tệ trong giỏ nhằm tránh xu hướng đầu cơ trên thị trường ngoại hối.
Trên thực tế, cơ chế điều hành tỷ giá mới của NHNN hiện nay là một dạng của chế độ tỷ giá BBC4 (Basket- theo rổ tiền tệ, Band- có biên độ dao động rộng, và Crawl tỷ giá bò trườn không cố định và neo chặt như trước). Với các đặc điểm như vậy, chế độ tỷ giá BBC có một số ưu điểm nhất định so với các chế độ tỷ giá khác, đó là: (i) Do chế độ tỷ giá này neo tỷ giá của nội tệ với một rổ tiền tệ nên nó góp phần làm ổn định tỷ giá đa phương danh nghĩa và thực tế (EERs) của quốc gia; (ii) quốc gia theo đuổi chế độ tỷ giá BBC sẽ tránh được những biến động trong tỷ giá thực khi mà quốc gia đó có mức lạm phát cao hơn so với các nước bạn hàng.
Từ đó, góp phần duy trì và cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia đó; (iii) chế độ tỷ giá BBC cho phép quốc gia điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tránh được các cú sốc bất thường (như sự dịch chuyển bất ngờ của các luồng vốn lớn), đồng thời cho phép ngân hàng trung ương (NHTW) theo đuổi một CSTT độc lập hơn.
Bên cạnh đó, nhằm góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ nắm giữ ngoại tệ của các NHTM, NHNN đã cho phép sử dụng hợp đồng kì hạn hủy ngang trong giao dịch mua ngoại tệ kì hạn của NHTM từ NHNN5.
4 Phạm Thị Hoàng Anh, 2009.
5 Điều 7, mục 5 của Thông tư 15/2015/TT-NHNN ngày 2/10/2016 “Thỏa thuận về giao dịch ngoại tệ do hai bên thực hiện là cam kết không thay đổi, trừ khi hai bên đạt
Hình 1. Diễn biến tỷ giá trên thị trường chính thức và phi chính thức tại Việt Nam, 01/12/2015- 07/12/2017
Nguồn: www.sbv.gov.vn, www.vietcombank.com.vn, và tác giả thu thập
Theo đó, NHNN chào giá bán ngoại tệ kì hạn có thể hủy ngang với các tổ chức tín dụng (TCTD) tại mức tỷ giá kì hạn cao hơn một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá giao ngay (ví dụ 1%). Tại thời điểm đáo hạn của hợp đồng kì hạn, nếu giá giao ngay tại thời điểm đó thấp hơn so với tỷ giá kì hạn (nếu TCTD thực hiện hợp đồng kì hạn thì bị lỗ), thì TCTD có thể hủy không thực hiện hợp đồng kì hạn đó mà không mất phí. Đây là một dạng phái sinh của hợp đồng kì hạn ngoại hối chuẩn nhưng nó lại đem nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối cụ thể:
(i) Đối với NHNN: Có thể đạt được mục tiêu định hướng sự biến động của tỷ giá mà không cần đưa ra cam kết như các năm trước. Hơn nữa, NHNN không cần phải bán dự trữ ngoại tệ giao ngay khiến cho dự trữ giảm mà vẫn có thể giúp bình ổn những biến động trên thị trường ngoại hối.
(ii) Đối với các TCTD: Các TCTD không cần phải găm giữ ngoại tệ mà vẫn có thể đảm bảo nhu cầu ngoại tệ nếu cần. Ví dụ, nếu tỷ giá ổn định, không tăng thì TCTD có thể hủy ngang hợp đồng kì hạn.
Còn trong trường hợp, nếu tỷ giá tăng mạnh thì TCTD sẽ thực hiện mua kì hạn từ phía NHNN.
Thứ hai, những yếu tố thuận lợi trên thị trường ngoại hối khi cung ngoại tệ luôn có xu hướng vượt cầu. Trong đó có thể kể đến mức thặng dư thương mại lên tới 2,2 tỷ USD trong năm 2016, so với mức
được thỏa thuận bằng văn bản sửa đổi hoặc hủy bỏ giao dịch”.
thâm hụt 3,8 tỷ USD trong năm 2015. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn tiếp tục tăng mặc dù số lượng dự án và vốn đăng kí mới tăng chậm. Không những thế, thị trường chứng khoán có dấu hiệu phục hồi đã điều chỉnh dòng vốn đầu tư gián tiếp từ mức âm ròng trong năm 2015 sang mức dương ròng trong năm 2016. Những diễn biến thuận lợi này đã giúp đảm bảo cân đối cung cầu trên thị trường ngoại hối, từ đó tránh áp lực giảm giá nội tệ.
Vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự biến động mạnh của giá USD trên thị trường tự do từ cuối tháng 11 đến hết năm 2016 khi mà các yếu tố nền tảng và cơ bản có thể coi là rất tốt và thuận lợi?
Theo tác giả, sự biến động này chủ yếu là do yếu tố đầu cơ và kì vọng USD tăng giá khi có thông tin về việc FED tiếp tục điều chỉnh tăng lãi suất. Ngoài ra, tâm lý đầu cơ “bầy đàn” của một bộ phận người dân khi chưa sàng lọc được thông tin tốt/xấu, thật/
giả khiến cho thị trường tự do nổi sóng vượt mốc 23.000, chạm đỉnh 23.400. Đây là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt đối với thị trường tài chính khi mà hiện tượng thông tin bất đối xứng chưa được giảm thiểu cộng với các thành phần tham gia đa dạng. Tuy nhiên, tác giả cho rằng NHNN đã rất thành công khi phát đi thông điệp sẵn sàng bình ổn (nếu có) và các thông tin liên quan đến các yếu tố vĩ mô giúp cho thị trường tự điều chỉnh quay về đúng với cân đối cung cầu của thị trường.
2. Chặng đường điều hành tỷ giá nhằm chống đô la hóa tại Việt Nam
Hình 2. Diễn biến cán cân thương mại, dòng vốn FDI và dòng kiều hối, giai đoạn 1996-2016
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF, Tổng cục Thống kê
Đô la hóa được hiểu là việc sử dụng và lưu thông ngoại tệ mạnh (thường là đô la Mĩ- USD) trong nền kinh tế. Đô la hóa tại Việt Nam đã có lịch sử khá lâu khi USD được sử dụng song song với tiền đồng từ những năm 1960. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, trong khi USD được sử dụng trong lưu thông rộng rãi và tích trữ trong dân chúng tại miền Nam thì tại miền Bắc, ngoại tệ bị cấm sử dụng hoàn toàn (Nghị định 102 của Chính phủ, ngày 06/7/1963). Sau ngày thống nhất đất nước, mô hình xã hội chủ nghĩa được áp dụng trên khắp cả nước.
Đồng Việt Nam (VND) được định giá gần như ngang bằng với USD (Brahm, and Nhi, 1993) và là
tiền tệ duy nhất được phép sử dụng và lưu thông tại Việt Nam. Cũng tại thời điểm đó, Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) là ngân hàng duy nhất được cung cấp dịch vụ ngân hàng quốc tế và các hoạt động kinh doanh ngoại hối.
Trong thời gian đó, mặc dù thuật ngữ “đô la hóa”
chưa được sử dụng cả trong khu vực tài chính ngân hàng cũng như trong nền kinh tế, nhưng Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để làm gia tăng niềm tin của dân chúng vào giá trị của đồng nội tệ, tăng cường sử dụng nội tệ và hạn chế sử dụng ngoại tệ trong lưu thông. Một trong những chương trình nổi tiếng tại thời điểm đó chính là cuộc cải cách Giá- Bảng 1. Tổng hợp các biện pháp chống đô la hóa nền kinh tế mà Việt Nam đã áp dụng, giai đoạn
1996-2016 biện Các
pháp Chi tiết
1. Khung pháp lý
- Quyết định 173/1998/QD-TTg, ngày 17/8/1998 về trách nhiệm bán và quyền được mua ngoại tệ”; Quyết định 180/1999/QD-TTg, ngày 17/8/1998, sửa đổi cho Quyết định 173/1998/QD-TTg - Nghị định 202/2004/NĐ-CP về “Tăng cường xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng”
- Pháp lệnh Ngoại hối (có hiệu lực từ ngày 1/6/2006)
- Nghị định 160/2006/NĐ-CP về “Hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh ngoại hối” (có hiệu lực từ ngày 28/12/2006)
- Quyết định 98/2007/QĐ-TTg về “Cải thiện khả năng chuyển đổi VND và giảm mức độ đô la hóa nền kinh tế”
- Nghị định 95/2011/NĐ-CP về sửa đổi Nghị định 202/2004/NĐ-CP 2. Các
biện pháp kiểm soát ngoại hối
- Kiểm soát chặt thị trường ngoại hối tự do
- Áp dụng biện pháp kết hối (Thông tư 13/2011/TT-NHNN)
- Giới hạn số lượng ngoại tệ mà người cư trú có thể mang ra nước ngoài mà không cần thông báo hải quan: tối đa US$3.000 (Quyết định 1437/2001/QD-NHNN, ngày 19/11/2001), US$7.000 (Nghị định 160/2006/NĐ-CP), và US$5.000 (Thông tư 15/NHNN ngày 12/8/2011) - Giới hạn số lượng ngoại tệ các cá nhân có thể mua ngoại tệ từ NHTM (tối đa US$100/ngày ở nước ngoài)
- Tăng mức phạt đối với các giao dịch ngoại hối bất hợp pháp lên tới 500.000.000 VND (Nghị định 95/2011/ND-CP, ngày 20/10/2011)
3. Các biện pháp bình ổn thị trường
- Hạn chế cung ngoại tệ cho các giao dịch nhập khẩu hàng hóa xa xỉ hoặc hàng hóa đã được sản xuất tại Việt Nam
- Kiểm soát chặt đối với tiền gửi/khoản vay bằng ngoại tệ nhằm giảm mức độ đô la hóa tiền gửi và tiền vay
+ Hạn chế đối tượng được phép vay bằng ngoại tệ (Thông tư 07/TT-NHNN, ngày 24/3/2011);
Thông tư số 03/2012/TT-NHNN ngày 08/3/2012; Thông tư số 37/2012/TT-NHNN ngày 28/12/2012
+ Áp trên lãi suất tiền gửi ngoại tệ: 3% (09/4/2011); 2% (02/6/2011); 1,25% (28/6/2013); 1%
(18/3/2014); 0,75% (29/10/2014), 0,25% (29/9/2015), 0% (17/12/2015)
+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ từ 4% lên 6% (09/4/2011); và 7%
(01/6/2011)
- Tăng quy định trạng thái ngoại tệ trên vốn tự có theo ngày từ mức 20% (9/1998) lên 30%
(Thông tư 07/TT-NHNN, ngày 20/3/ 2012).
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ sbv.gov.vn
Lương- Tiền được thông qua vào 14/9/1985. Theo đó, 1 đồng mới được phát hành với mệnh giá gấp 10 lần đồng cũ (Nguyễn Văn Tiến, 2012). Tuy nhiên, cuộc cải cách này không đem lại kết quả như mong muốn khi gây ra một cuộc hoảng loạn “tháo chạy”
khỏi tiền đồng, khiến cho tiền đồng mất giá trên thị trường.
Những khó khăn và suy thoái kinh tế trước năm 1988 cho thấy tất cả những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong cải thiện giá trị đồng nội tệ rơi vào thất bại. Sự kém chuyển đổi của VND, sự giảm sút
lòng tin của công chúng vào giá trị nội tệ đã khiến người dân có xu hướng chuyển sang nắm giữ vàng và ngoại tệ (chủ yếu là USD) như một tài sản giá trị hoặc là phương tiện thanh toán. Mức độ đô la hóa nền kinh tế Việt Nam được thể hiện dưới nhiều hình thức, trong đó phải kể đến tình trạng đô la hóa thông qua số dư của tài sản (assets) và nguồn (liabilities) bằng ngoại tệ hóa tại bảng tổng kết tài sản của NHTM. Nhận thức rõ những tác động tiêu cực của đô la hóa tới nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng, có thể thấy, NHNN đã tỏ rõ sự Hình 3. FCD, M2, và tỷ lệ FCD/M2 tại Việt Nam, 1996- 2015
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF và website của NHNN
Hình 4. Dư nợ ngoại tệ, tổng dư nợ và tỷ lệ dư nợ ngoại tệ/tổng dư nợ tại Việt Nam, giai đoạn 1994-2014
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF và website của NHNN
quyết tâm thực thi chống đô la hóa và vàng hóa nền kinh tế bằng việc ban hành nhiều chính sách, biện pháp (Bảng 1).
Một kế hoạch bao gồm nhiều giải pháp chống đô la hóa nền kinh tế khá đầy đủ và bài bản đã làm cho chỉ số đô la hóa nền kinh tế bao gồm cả đô la hóa tiền gửi (FCD/M2) và đô la hóa tiền vay đã giảm mạnh trong giai đoạn 1989-2016. Hình 3 cho thấy diễn biến tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 (FCD/
M2) giai đoạn 1989- 2/2016 theo xu hướng giảm dần nhưng mức giảm không bền vững. Cụ thể sau khi tăng mạnh lên tới 41,2% vào năm 1991, tỷ lệ FCD/M2 đã giảm mạnh xuống còn 30,25% vào năm 1992, 23% năm 1993, và rơi xuống mức 20,3%
trong năm 1996. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính 1997- 1998 đã khiến cho tỷ lệ FCD/M2 lại tăng lên và đạt con số 31,7% vào năm 2001. Một lần nữa chúng ta lại chứng kiến sự đổi chiều về mức độ đô la hóa nền kinh tế Việt Nam kể từ năm 2002 khi tỷ lệ FCD/M2 trong xu thế giảm mạnh. Theo đó, mức độ đô la hóa tiền gửi giảm từ 28,4% vào năm 2002 xuống mức 13,75% trong năm 2010. Sau khi tăng nhẹ lên 14,6% (2011), tỷ lệ FCD/M2 đã giảm rất mạnh và hiện chỉ dao động quanh mốc 10% vào cuối quý 1/2016.
Bên cạnh phân tích diễn biến của mức độ đô la hóa tiền gửi, chúng ta cũng cần phải xem xét thêm mức độ đô la hóa tiền vay (loan dollarization) được thể hiện thông qua tỷ lệ dư nợ ngoại tệ trên tổng dư nợ (tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ). Cùng chung xu hướng với mức độ đô la hóa tiền gửi, mức độ độ la hóa tiền vay cũng trong xu thế giảm từ mức đỉnh 38,6% xuống mức 19,3% trong năm 2001. Sau khi
đảo chiều tăng nhẹ trong giai đoạn 2002-2005, tỷ lệ dư nợ ngoại tệ trên tổng dư nợ giảm chỉ còn ở mức 12,4% trong năm 2014.
Như vậy, có thể thấy rằng mức độ đô la hóa nền kinh tế Việt Nam đã có sự cải thiện rõ rệt khi cả 2 chỉ số đô la hóa tiền gửi và đô la hóa tiền vay đều giảm mạnh và chỉ dao động quanh mốc 10-12%.
Theo tiêu chí phân loại của IMF thì Việt Nam được xếp vào loại nền kinh tế bị đô la hóa ở mức thấp (Balinõ và cộng sự, 1999). Kết quả này cho thấy nỗ lực của NHNN trong việc kiềm chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế. Tình trạng đô la hóa nền kinh tế giảm mạnh đã có những tác động tích cực đến nền kinh tế nói chung, và thị trường tài chính nói riêng.
Cụ thể:
Thứ nhất, tính chuyển đổi của đồng Việt Nam đã từng bước được cải thiện, biểu hiện: (i) Các giao dịch vãng lai được tự do hóa theo đúng cam kết gia nhập WTO; (ii) các giao dịch vốn đã từng bước được tự do hóa thận trọng: Đầu tư trực tiếp vào và ra Việt Nam được cải thiện thông thoáng hơn; hoạt động đầu tư gián tiếp vào và ra khỏi Việt Nam còn được kiểm soát ở mức độ nhất định để hạn chế rủi ro với các dòng vốn ngắn hạn và các cú sốc cho thị trường ngoại hối trong nước; bước đầu thí điểm cho VND tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài.; (iii) hoạt động niêm yết, định giá, thanh toán bằng ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ trái phép đã được thu hẹp và thường xuyên được kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng.
Thứ hai, tình trạng đô la hóa giảm góp phần gia tăng dự trữ ngoại hối lên mức trên 37 tỷ USD vào Hình 5. Diễn biến dự trữ ngoại hối của Việt Nam
Đơn vị: triệu USD-trục trái; tuần nhập khẩu-trục phải
Nguồn: Thống kê Tài chính quốc tế của IMF.
cuối quý 3/2016, và đạt đỉnh 42 tỷ USD vào cuối năm theo công bố của NHNN. Xét về quy mô theo tháng nhập khẩu, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tính đến thời điểm cuối năm 2016 khoảng 12,4 tuần nhập khẩu (Hình 5). Đây là tiền đề thuận lợi để duy trì lòng tin về khả năng đảm bảo thanh toán nghĩa vụ nợ nước ngoài của nền kinh tế, khả năng hỗ trợ giá trị của VND, khả năng đảm bảo tài chính của quốc gia góp phần thu hút đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài. Không những thế, nó còn giúp bảo vệ giá trị đồng nội tệ, hạn chế sự biến động quá mức của tỷ giá hối đoái, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, chống đỡ khủng hoảng kinh tế và tài chính.
Thứ ba, thị trường ngoại hối chính thức đã lấy lại được vị thế chủ động, và có vai trò dẫn dắt sự biến động trên thị trường ngoại hối tự do. Ngoài ra, sự ổn định tỷ giá là một trong những nguyên nhân giúp kiềm chế lạm phát trong thời gian qua do giảm thiểu tác động truyền dẫn từ tỷ giá đến lạm phát qua giá hàng hóa nhập khẩu. Tất cả những thành công có được từ sự ổn định của thị trường ngoại hối càng khằng định tính đúng đắn trong hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN thời gian qua.
Thứ tư, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã giảm đáng kể, góp phần nâng cao tính hiệu lực trong điều hành CSTT quốc gia, đặc biệt trong việc nâng cao hiệu lực truyền dẫn của CSTT tới các mục tiêu của nền kinh tế. Lý thuyết và thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, khi nền kinh tế bị đô la hóa, NHNN khó có thể đo lường tổng lượng tiền cung ứng M2 một cách chính xác do không thể tính toán lượng ngoại tệ tiền mặt tham gia vào lưu thông với chức năng phương tiện trung gian thanh toán như nội tệ.
Thứ năm, tình trạng đô la hóa giảm tạo điều kiện cho NHNN sử dụng khá thành công công cụ lãi suất nhằm tác động tới tỷ giá USD/VND. Đây là một thành công đáng ghi nhận bởi lẽ trước đây tỷ giá thường được điều tiết thông qua các công cụ mang tính hành chính, kể từ năm 2012, NHNN đã sử dụng các công cụ thị trường trong đó có công cụ lãi suất thay vì các công cụ mang tính hành chính, áp đặt.
Ví dụ, khi tỷ giá USD/VND biến động mạnh trên thị trường vào thời điểm tháng 6-7/2013 (do tâm lý găm giữ ngoại tệ của một số NHTM), NHNN đã thông qua thị trường mở hút tiền về, khiến lãi suất liên ngân hàng lên cao. Ngay lập tức các NHTM
“quay về” VND khiến tỷ giá ổn định trở lại. Đây là một điểm thành công đáng ghi nhận trong hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN trong thời gian gần đây, đặc biệt trong năm 2013.
Thứ sáu, tình trạng đô la hóa, vàng hóa giảm đã góp phần ổn định thị trường vàng, giảm thiểu tác động tiêu cực tới thị trường ngoại hối. Có thể thấy, trong giai đoạn trước 2012, giá vàng thế giới, giá vàng trong nước và tỷ giá có sự liên thông khá chặt chẽ với nhau. Theo đó, mỗi khi giá vàng thế giới biến động khiến cho thị trường vàng bất ổn, và kéo theo sự bất ổn trên thị trường ngoại hối6. Tuy nhiên, kể từ năm 2012 đến nay, hiện tượng này gần như đã được loại trừ. Kết quả này là do những biện pháp kiên quyết của NHNN trong thực thi chống tình trạng vàng hóa và đô la hóa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề đô la hóa và các biện pháp chống đô la hóa hiện nay vẫn có một số tồn tại, cụ thể:
Thứ nhất, với một nền kinh tế được tiền mặt như Việt Nam thì tỷ lệ FCD/M2 và dư nợ ngoại tệ/tổng dư nợ không thể phản ánh hết các khía cạnh cũng như quy mô mức độ đô la hóa tại Việt Nam do có một lượng ngoại tệ tiền mặt trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng, đồng thời có một số lượng các chủ thể kinh tế nước ngoài tại Việt Nam có các khoản vay ngoại tệ ở nước ngoài. Hơn nữa, nếu xét con số tuyệt đối (dù đơn vị là VND hoặc USD) thì số dư tiền gửi ngoại tệ cũng như dư nợ ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng lên và duy trì ở mức cao từ năm 2009 đến nay, mặc dù có xu hướng có chững lại.
Thứ hai, một số các quy định về quản lý ngoại hối
6 Nghiên cứu của Học viện Ngân hàng cho thấy hệ số tương quan giữa giá vàng và giá ngoại tệ trong nước là 0,49 và 0,21 tương ứng với thời điểm trước và sau Nghị định 24 (2012).
Hình 6. Quy mô mục lỗi và sai sót trong cán cân thanh toán quốc tế, 2008- 2015
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế của IMF
của Việt Nam một mặt có thể giúp thu hút vốn ngoại tệ cho nền kinh tế, nhưng mặt khác lại có thể khiến cho tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế không thể giảm bền vững như mong đợi. Ví dụ, người dân có thể nhận tiền từ nước ngoài về (dòng kiều hối) bằng ngoại tệ hoặc nội tệ (tùy theo như cầu).
Tài liệu tham khảo
1. Brahm, L. J. and Le, Trong Nhi (1993). Uncle Ho’s posthumous Stabilization of the Dong, Asiamoney, London: Jul/Aug 1993.
p. 194.
2. Nguyen, Thi Hong (2002). Dollarization of financial assets and liabilities of the household sector, the enterprises sector and the banking sector in Vietnam. Paper presented at the JICA-State Bank of Vietnam Joint Research Project Workshop on “Dollariza- tion and its effect on monetary and foreign exchange rate policies and the development of financial system: Vietnam, Lao PDR and Cambodia”, 5 July 2002, Hanoi.
3. Nguyễn Thị Hồng (2011). Đô la hóa và chính sách tiền tệ. Tạp chí Ngân hàng, No.5/2011.
4. Nguyễn Văn Tiến (2012). Tài chính quốc tế. Xuất bản lần 3, Nhà Xuất bản Thống kê.
5. Phạm Minh Điển và cộng sự (2014). Chống đô la hóa nền kinh tế tại Việt Nam. Đề tài NCKH tại Ban kinh tế Trung Ương.
6. Phạm Thị Hoàng Anh (2013). Hiệu lực cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh giá tài sản tại Việt Nam. Đề tài NCKH cấp cơ sở, HVNH.
7. IMF, Thống kê tài chính quốc tế 8. Tổng cục Thống kê
Thông tin tác giả
Phạm Thị Hoàng Anh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Chính sách tiền tệ, tỷ giá, thị trường tài chính tài chính quốc tế, khủng hoảng tài chính, hoạt động ngân hàng, FDI và các dòng vốn quốc tế khác
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Journal of Asian Economics, Osaka Economic Papers, Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Phát triển kinh tế, Viet Nam’s Socio Economic Development Review.
Email: [email protected] Bùi Tín Nghị, Tiến sĩ
Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Ngân hàng, hệ thống thanh toán, kế toán, kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng Email: [email protected]
Summary
Exchange rate policy and de-dollarization in Vietnam
The paper aims at reviewing exchange rate development in 2016 based on effectiveness of a new exchange rate arrangement implemented by the State Bank of Vietnam since 4 January 2016. It found that with the new mechanism, Vietnam’s FOREX seemed to response positively to domestic and external shocks. In the second part, the paper evaluates impacts of exchange rate policy measures on de-dollarization process in Vietnam. Finally, recommendations for exchange rate policy and de-dollarization in Vietnam in future.
Keywords: exchange rate policy, dollarization, de-dollarization, Vietnam Nghi Tin Bui, PhD.
The President of the Banking Academy Anh Thi Hoang Pham, Assoc. Prof. PhD.
Director of Banking Research Institute, Banking Academy.
Received: 16 January 2017 / Accepted: January 2017
Thứ ba, quy mô của mục lỗi và sai sót thống kê vẫn ở mức rất cao có thể bắt nguồn từ tình trạng đô la hóa tiền mặt (cash dollarization). Trước năm 2012, có những thời điểm mục lỗi và sai sót cao đã khiến cho cán cân tổng thể Việt Nam trở nên thâm hụt xem tiếp trang
14
Major success of monetary policy in 2016
Since early 2016, the Governor of the State Bank of Vietnam has issued Directive No. 01/ CT-NHNN on the implementation of monetary policy and bank guarantee safe operation and efficiency. According to this directive, the overall objectives and tasks of monetary policy in 2016. Although there is no breakthrough, 2016 was a successful year in running of monetary policy when the central bank to achieve its objectives since the beginning of the year. These are:(1) To maintain a low inflation rate below 5%, supporting economic growth;(2) Achieve the target growth rate of the total of payment and credit growth; (3) The interest rate continues to decline slightly; (4) Complete the goal of bringing the bad debt ratio to below 3%; (5) To keep the exchange rate relatively stable.
Keywords: monetary policy, Vietnam.
Nghia Thi Tuan Le, Assoc. Prof. PhD.
Banking Faculty, Banking Academy.
Lan Khanh Chu, PhD.
Banking Research Institute, Banking Academy.
Received: 11 January 2017 / Accepted: 10 March 2017
nặng nề (2009), tạo căng thẳng cung cầu trên thị trường ngoại tệ. Chính vì vậy, thặng dư của cán cân tổng thể giai đoạn 2012-2016 đã góp phần tạo cân bằng cung cầu trên thị trường ngoại tệ, gia tăng dự trữ ngoại hối.
3. Một số khuyến nghị về điều hành tỷ giá nhằm chống đô la hóa trong thời gian tới
Có thể thấy rằng, điều hành tỷ giá và các biện pháp chống đô la hóa nền kinh tế đã được NHNN triển khai đồng bộ và toàn diện, đã có những tác động tích cực tới thị trường ngoại hối cũng như mức độ đô la hóa nền kinh tế. Bên cạnh đó, vẫn còn một số tồn tại như tình trạng đô la hóa tiền mặt còn cao khiến cho mức độ sai sót thống kê có xu hướng tăng lên, ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành CSTT của NHNN. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị chính sách như sau:
Thứ nhất, NHNN cần tiếp tục kiên định mục tiêu bình ổn kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy sản xuất và tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến kiềm chế lạm phát. NHNN cần điều hành CSTT theo hướng nới lỏng có thận trọng.
Thứ hai, tiếp tục kiên định với các biện pháp hạn chế tình trạng đô la hóa, tình trạng vàng hóa nền kinh tế. NHNN cần chú ý đặc biệt tới tình trạng đô la hóa tiền mặt trong nền kinh tế, vì từ đó có thể giảm quy mô của mục sai số thống kê trong cán cân thanh toán quốc tế.
Thứ ba, chủ trương cho vay ngoại tệ đối với các tiếp theo trang
8
doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ hoặc doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu là một lựa chọn khá phù hợp nhằm đạt được các mục đích như: Góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế, đồng thời giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn giá rẻ hơn so với vay VND, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên, điều này có thể phần nào đó tạo áp lực tới thị trường ngoại hối khi các khoản vay bằng ngoại tệ đến hạn phải trả. Về nguyên lý, NHNN chỉ cho các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ vay nhưng sự cân xứng các dòng tiền ngoại tệ vào ra tại một số thời điểm nhất định nào đó (cuối năm) cũng có thể khiến cho thị trường căng thẳng.
Chính vì vậy, NHNN cần bám sát diễn biến tăng trưởng tín dụng ngoại tệ để có những can thiệp kịp thời tới nền kinh tế. ■