HÌNH THÀNH CÁC MÔĐUN DẠY HỌC – MỘT TRONG CÁC HƯỚNG THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TRONG ĐÀO TẠO THEO H ỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở ĐẠI HỌ C
TRẦN THANH NGUYÊN Giảng viên Khoa Sư phạm
Theo lời của giáo sư Hoàng Tụy khi nhắc lại một kinh nghiệm thời kinh tế bao cấp: lúc còn tem phiếu ai cũng tưởng rất khó bỏ những thứ đó, nhưng khi bỏ rồi mới thấy tại sao giải pháp đơn giản như thế mà trong bao nhiêu năm không nghĩ ra! Giáo dục cũng vậy, phải thay đổi quan niệm, phải đổi mới cách nhìn mới thấy sáng ra những giải pháp cần thiết. Điều đó chứng tỏ rằng ở các lĩnh vực, trong đó có dạy học nếu đổi mới cách nhìn, tìm ra các giải pháp hợp lý và bằng vào sự quyết tâm và nỗ lực, chúng ta sẽ thực hiện công việc thành công.
Hướng theo việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ra chỉ thị 15/1999/CT-BGD&ĐT về việc đẩy mạnh hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập trong các trường sư phạm, xác định vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển, định hướng quá trình dạy học của nhà giáo và vai trò chủ động trong quá trình học tập và tham gia nghiên cứu khoa học của người học. Từ năm học 1999 – 2000 và các năm học tiếp theo, các trường, khoa sư phạm đã đạt những kết quả nhất định trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Tuy vậy, bên cạnh đó phải thừa nhận việc thực hiện cũng bộc lộ những hạn chế, như chưa thật sự tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy tính chủ động và nhất là sự sáng tạo của học sinh, sinh viên. Các nhà khoa học nhất là các nhà sư phạm từ lâu đã tâm đắc và tâm niệm một lời cảnh báo mạnh mẽ của viện sĩ Kapitxa cho rằng vấn đề thông minh sáng tạo của tuổi trẻ không kém phần quan trọng so với vấn đề vũ khí hạt nhân và chiến tranh, hòa bình. Mikhancốp, Viện sĩ Liên xô trước đây cũng đã nhắc nhở nhà trường rằng: “ Điều quan trọng không phải là dạy cái gì mà là dạy như thế nào. Diện mạo tinh thần của một đất nước ra sao tuỳ thuộc vào việc nhà trường giảng dạy như thế nào ”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ những năm 60 của thế kỷ XX đã nhiều lần căn dặn thầy giáo phải “gõ vào trí thông minh ” của học sinh, là cần
“.... đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng tạo ”.
Chính vì vậy, để thực hiện các ý tưởng khoa học có tầm chiến lược trên thể hiện những đòi hỏi bức bách của thời đại và loài người trong việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ hai nhằm giải phóng tư duy con người, trong đổi mới phương pháp dạy học thiết nghĩ khâu đột phá phải bắt đầu từ chất lượng đào tạo ở đại học.
Một vấn đề phải nhìn nhận rằng việc đổi mới phương pháp dạy học ở các cấp học đặc biệt là ở đại học không nên chỉ nghĩ đến khâu giảng bài trên lớp, chủ yếu là chống kiểu “ thầy giảng trò ghi ” vì như thế thì không thể tìm được lối ra. Cũng không nên nghĩ rằng việc độc thoại một chiều là không đổi mới và
không phải trong từng bài giảng người dạy phải luôn theo phương pháp gợi mở, trao đổi hai chiều với người học, dẫn đắt họ để cho họ tham gia phát hiện, tìm ra kiến thức. Nếu từng bài đều làm như vậy thì không thể hoàn thành chương trình vốn dĩ rất eo hẹp về thời gian và không phải phải bài nào người dạy cũng có khả năng và thời gian để làm được như vậy. Đó là chưa kể nếu cứ làm như vậy thì người học ít có điều kiện được nghe một bài giảng có hệ thống, theo lối thuyết trình vốn có ở đại học. Cái chính là dạy như thế nào để khơi gợi hứng thú, tò mò, ham muốn đào sâu, suy nghĩ độc lập, phát triển óc phê phán, khắc phục lối dạy học thuần túy chỉ là thông tin – tiếp thụ từ “mồm đến tai” ( J. Vial ) hay hiện nay là từ “ mồm đến mắt, tai ” qua việc quá lạm dụng phương tiện dạy học hiện đại như over head, powerpoint.... Vấn đề quan trọng “ không phải là đưa chân lý đến cho học sinh mà làm thế nào để lúc nào học sinh cũng có thể biết đến cách tìm đến chân lý ” (J.J. Rousseau). Chính vì vậy, việc “độc thoại hay gợi mở, quy nạp hay suy diễn thì tuỳ vấn đề và đối tượng ” (Hoàng Tụy) mà thực hiện. Dạy là tổ chức hoạt động cho người học, còn học là thực hiện những việc làm (learning by doing). Học sinh không phải là bình chứa mà là ngọn lửa...
Thầy là người hướng dẫn, điều phối hoạt động...
Để việc học không thụ động không phải chỉ “cần thay đổi phương pháp giảng bài trên lớp mà còn phải thay đổi toàn bộ phương thức giảng dạy”(Hoàng Tụy) bao gồm cả chương trình, các bài giảng ở lớp và các khâu hướng dẫn tự học cho người học.... Như vậy trong kế hoạch học tập ngoài việc quy định giờ giảng bài trên lớp nhất thiết phải có các bài tập và thực tập lớn nhỏ, tự tập viết các tiểu luận (ngay năm đầu ở đại học) và một số hoạt động mang tính chất séminar hay tiền séminar....
Đề án đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2006 – 2020 được Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai, khi định hình mục tiêu chung trong phát triển giáo dục đại học đến năm 2020 có nhấn mạnh đến các nhiệm vụ và giải pháp lớn, trong đó có đề cập đến việc “ xây dựng học chế tín chỉ thích hợp cho giáo dục đại học nước ta và vạch ra lộ trình hợp lý để toàn bộ hệ thống giáo dục đại học chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, tạo thuận lợi cho người học có thể tích lũy dần kiến thức theo kỹ năng và điều kiện của mình, có thể di chuyển học tập trong nước và quốc tế ”. Theo chủ trương của Chính phủ, đến năm 2010 hầu hết các trường đại học chuyển sang mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Trường Đại học Tiền Giang tuy mới thành lập, còn non trẻ. Với loại hình đặc thù là trường đại học đa cấp, đa ngành, đa chức năng, thực hiện đào tạo liên thông, thiết nghĩ chúng ta cũng phải đi vào “quỹ đạo chung” của các trường đại học trong nước trong thiết kế “ ngôi nhà đại học ”: giảng dạy; nghiên cứu khoa học và từng bước triển khai chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ và tiếp tục hoàn thiện mô hình đó trong quá trình đào tạo của nhà trường. Theo đó, học chế tín chỉ là một học chế được thiết kế theo tinh thần tích lũy từng môđun môn học.
Đây là học chế khi thực hiện sẽ làm cho quy trình đào tạo mềm dẻo và có hiệu quả cao, có lưu ý đến điều kiện và năng lực của từng người học, tạo điều kiện cho người học có thể lựa chọn tiến trình và chương trình học thích hợp với bản thân. Theo hướng trên, trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở đại học việc đổi mới
phương pháp dạy học thiết nghĩ cần phải có những điều kiện xác định, trong đó đáng kể nhất là những điều kiện trực tiếp ảnh hưởng đến sự thay đổi của phương pháp dạy học do chính người dạy – người trực tiếp lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học tạo ra. Mô đun hóa nội dung dạy học thể hiện qua các môn học là một trong những phương hướng nhằm tạo ra các điều kiện trực tiếp cho sự thay đổi phương pháp dạy học. Chính vì vậy, việc hình thành các môđun dạy học có thể nói là một trong các hướng nhằm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở đại học, đặc biệt là trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
Với chương trình môn học hiện hành, người dạy có thể thiết kế nội dung môn học đó theo kỹ thuật của lý thuyết dạy học theo mô đun, tạo ra các mô đun dạy học. Nó vừa đảm bảo cho quá trình dạy học tuân thủ đúng chương trình, theo thời lượng qui định, vừa cho phép người dạy tham gia tích cực vào quá trình phát triển chương trình dạy học các môn học. Các mô đun dạy học tồn tại với tư cách là các tài liệu tự học có hướng dẫn nhưng sẽ được sử dụng có hiệu quả trong các hình thức tự học của học sinh : Tự học không có sự hướng dẫn của thầy – Tự học có sự hướng dẫn từ xa của thầy – Tự học trong hoạt động dạy học và cũng được sử dụng có hiệu quả trong hình thức lên lớp (lớp – bài) – hình thức tổ chức dạy học cơ bản trong nhà trường. Nếu sử dụng các môđun dạy học trong hình thức tổ chức dạy học này nhất thiết phương pháp dạy học của người dạy và người học phải thay đổi tương ứng. Do vậy, với việc định hướng về cách thức thiết kế các môđun dạy học, người dạy sẽ có khả năng tự tạo ra những điều kiện để hoàn thiện phương pháp dạy học của cả bản thân và người học.
Việc hình thành các môđun dạy học đòi hỏi người dạy cần biết và nắm quy trình thiết kế nó để từ đó thiết kế các môđun trong quá trình dạy học môn học. Môđun dạy học được xây dựng trên cơ sở nhận biết các dấu hiệu cùng các thành tố cấu trúc của nó. Nghiên cứu lý luận và thực tiễn thiết kế, các môđun dạy học được thực hiện theo quy trình gồm các bước sau:
a- Phân tích chương trình môn học.
- Mục đích :
Tìm hiểu vị trí, chức năng môn học trong chương trình đào tạo của nhà trường cũng như nhận thức các mục tiêu, nội dung của môn học cùng các điều kiện thực hiện nó.
- Tiến hành :
+ Xác định vị trí, chức năng của môn học.
+ Xác định các điều kiện thực hiện môn học.
+ Nghiên cứu các mục tiêu của môn học đã được xác định rõ trong chương trình.
+ Nghiên cứu nội dung môn học.
+ Kết hợp kết quả của thao tác phân tích mục tiêu, phân tích nội dung môn học tìm ra các chủ đề làm cơ sở để biên soạn các môđun.
Sơ đồ quy trình thiết kế môđun dạy học
b
- Xác định các môđuna
- Phân tích chương trìnhPhân tích mục tiêu
Phân tích nội dung
Xác định
các chủ đề
c
- Biên soạn môđunXác định mục tiêu
Xác định các tiểu môđun
d
- Thử nghiệm và đánh giá môđunBiên soạn test và chỉ dẫn Mô đun
1 Mô đun
2 Môđun
n
b- Xác định các môđun.
- Mục đích:
Xác định tên, số lượng các môđun được hình thành trong chương trình môn học.
- Tiến hành:
+ Đặt tên các môđun trên cơ sở các chủ đề đã xác định (có thể trùng hoặc khác với tên của chủ đề).
Số lượng các môđun được xác định cần tương ứng với với các chủ đề, có thể xác định thêm một số môđun phụ đạo hoặc chuyên sâu.
+ Trình bày các môđun cấu thành chương trình môn học theo một mẫu xác định.
c- Biên soạn môđun.
- Mục đích :
Hình thành các môđun dạy học với cấu trúc và các dấu hiệu nhận biết đã được xác định.
- Tiến hành :
+ Xác định mục tiêu của môđun.
+ Xác định các tiểu môđun.
+ Xây dựng các công cụ kiểm tra đánh giá và các chỉ dẫn.
d- Thử nghiệm và đánh giá môđun.
- Mục đích :
Chính thức hóa môđun sau khi đã có những sửa đổi, khắc phục những thiếu sót được phát hiện sau khi thử nghiệm.
- Tiến hành :
+ Đánh giá tính khả thi của môđun (lưu ý khả năng tiếp nhận và sử dụng môđun một cách thuận lợi của người học).
+ Đánh giá hiệu quả của môđun.
+ Tiến hành sửa chữa những sai sót nếu có.
Để thực hiện những định hướng và ý tưởng trên trên, theo ý kiến chủ quan, tôi có một vài đề xuất sau đây :
1- Bằng nhiều con đường nhà trường cần giúp cho cán bộ giảng dạy nhận thức sâu sắc hơn việc đổi mới phương pháp dạy học trong đào tạo nói chung và đào tạo theo học chế tín chỉ nói riêng ở trường đại học Tiền Giang qua việc triển khai chủ trương của Chính phủ và đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho toàn thể cán bộ giảng dạy và bộ phận quản lý chuyên môn về việc đào tạo theo học chế tín chỉ để mọi người quán triệt và có ý thức, trách nhiệm trong thực hiện.
2- Thành lập một tiểu ban của trường để triển khai, vận động, theo dõi việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở các khoa chuyên môn, các tổ bộ môn qua việc thiết kế môđun dạy học ở các học phần đặc biệt lưu ý đến việc việc đặt hàng, đầu tư có bước đột phá ở khoa sư phạm, các tổ bộ môn phương pháp giảng dạy bộ môn và tổ bộ môn tâm lý học – giáo dục học. Đồng thời có sự biểu dương, khen thưởng kịp thời các đơn vị cơ sở và cá nhân thực hiện tốt.
3- Hỗ trợ và khuyến khích các cán bộ giảng dạy có tâm huyết trong việc đổi mới phương pháp dạy học tiến hành quy trình thiết kế môđun dạy học ở các học phần, hội đủ các điều kiện khi thiết kế :
- Hiểu rõ về môđun dạy học; nắm được các dấu hiệu và cấu trúc của một môđun.
- Có kỹ thuật xác định mục tiêu dạy học cho từng nội dung dạy học được xác định.
- Có kỹ thuật xây dựng các bài trắc nghiệm khách quan bằng nhiều loại hình đa dạng để đánh giá kết quả học tập của người học.
4- Việc tiến hành công tác nghiên cứu khoa học của trường trong những năm sắp tới, bên cạnh việc tiến hành các đề tài nghiên cứu khoa học như thông lệ có thể vận động cán bộ giảng dạy tập trung việc thiết kế môđun dạy học ; xây dựng các bài tập trắc nghiệm khách quan thể hiện các loại hình ở các học phần xem đó
cũng là hướng thực hiện công tác nghiên cứu khoa học của cá nhân hay nhóm, thay cho hầu hết loại hình tổng thuật, tổng luận.
Tài liệu tham khảo
1- Benjamin Bloom, Nguyên tắc phân loại mục tiêu giáo dục – Lĩnh vực nhận thức, NXB Giáo dục Hà Nội, 1995.
2- Nguyễn Trọng Di, Nhìn lại bản thiết kế của thầy, Tạp chí Phát triển giáo dục, 3/1998.
3- Nhiều tác giả, Khoa học giáo dục đi tìm diện mạo mới, NXB Trẻ, TP.
Hồ Chí Minh, 2006.
4- Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 5/2000.
5- Tạp chí Giáo viên và Nhà trường số 11.