S
HÌNH THỨC SHAMAN TRONG NGHI LỄ THEN CỦA NGƯỜI TÀY – NÙNG Ở TỈNH LẠNG SƠN
NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG
Tóm tắt
Các hình thức Shaman tuy có khác nhau về diễn trình hành lễ song tựu chung lại, chúng đều có điểm chung là gắn kết hai thế giới siêu nhiên và trần tục lại với nhau; đó là con đường ngắn nhất để đưa con người đến với các vị thần linh, thông qua đó biểu đạt mong ước, nguyện vọng của mình.
Trong nghi lễ Then của người Tày - Nùng nói chung, người Tày - Nùng ở tỉnh Lạng Sơn nói riêng, yêu tố Shaman có mặt ở hầu hết các giai đoạn và thể hiện khá rõ nét.
Từ khóa: Shaman, nghi lễ then, thầy then Abstract
Although Shaman forms are different in the process of celebrating a ceremony, in general, they are similar in connecting closely the supernatural and mundane worlds together. That is the shortest way to bring people to the Gods, and express their wishes and expectations through it. In Then rites of the Tay - Nung people in general and the Tay - Nung people in Lang Son province in particular, Shaman feature is shown in most of stages and rather clearly.
Keywords: Shaman, Then rites, Then wizard
haman là dạng thức tôn giáo cổ xưa của nhân loại mà ngày nay vẫn còn tồn tại trong đời sống tâm linh của một số dân tộc trên thế giới. Danh từ Shaman vốn ban đầu để chỉ trạng thái xuất thần để đến cõi siêu nhiên, giao tiếp với các vị thần linh của thầy pháp ở Siberi. Danh từ Shaman ngày nay đã được các nhà khoa học sử dụng để ám chỉ tất cả các dạng thực hành nghi lễ gắn với việc xuất - nhập thần trong sinh hoạt tín ngưỡng của con người. Shaman gắn liền với các thầy cúng, thầy đồng với các tên gọi và hình thái tín ngưỡng khác nhau như Mudang, Masin trong Kut của Hàn Quốc, các thuật sĩ người Bolinixia ở Châu Úc, các vu sư, Tát Mãn của Trung Quốc, các thầy phù thủy của các bộ lạc da đỏ Châu Mỹ, các Pơjâu của người Chăm, các then của người Tày ở Việt Nam…
1. Thầy then và quan niệm hồn, vía của thầy then
Trong cộng đồng tộc người Tày, người làm then rất được coi trọng. Họ được gọi là“Cần tha slủng” nghĩa là “Người mắt sáng”, bởi họ được cho là có khả năng giao tiếp với thế giới bên kia, cả cõi thiêng của thần linh cũng như cõi âm của các linh hồn. Chính vì vậy, then được coi là những người “chăn dắt tinh thần”, chăm sóc phần đời sống tâm linh của cộng đồng. Vai trò của họ cũng tương tự như vai trò của các vị linh mục của Thiên Chúa giáo đối với giáo dân, hay các tăng ni của Phật giáo với cộng đồng Phật tử.
Trong cuộc sống, thày then cũng sinh hoạt như người bình thường. Họ vẫn có vợ, chồng, con cái và các mối quan hệ như những gia đình khác. Tuy nhiên, họ luôn được cộng đồng
dành cho những ưu ái đặc biệt như được ngồi mâm trên khi đi ăn cỗ, được ngồi hàng đầu khi đi tàu xe… Bên cạnh đó, các thày then cũng phải thực hiện một số kiêng kỵ để giữ sự “trong sạch”
(cũng có thể coi đó như một dạng “giới luật” của nhà then) như: không được ăn thịt các loại cầy cáo, thú rừng, không được chui qua gầm sàn, không được gần vợ, chồng trong ngày mồng 1, 15 hàng tháng và trước 5 ngày khi tổ chức Lẩu then,…
Các cuộc lễ then thường được tổ chức vào các dịp đầu xuân với mục đích cầu mong sự bình an và giải các vận hạn, các sao xấu. Ngoài ra, nhiều cuộc then còn được tổ chức vào các dịp bất thường trong gia đình như: gia đình có người mất, trẻ con chết yểu (Tháy phji); có người ốm (chấu khẩy)...; hoặc các dịp vui của gia đình như: vào nhà mới (khẩu rườn mấư), chúc thọ người già (Pủ lường pủ dảo),…
Cuộc lễ then lớn nhất, gắn liền với sự nghiệp hành nghề của thầy then là các dịp đại lễ “Lẩu then”. Đây là các dịp nhà then mang lễ vật dâng lên Ngọc hoàng Thượng đế để xin cấp sắc chỉ hành nghề hoặc xin thăng chức. Thầy then nào càng tổ chức được nhiều cuộc lẩu thì cấp bậc càng cao và càng có uy tín với cộng đồng. Cấp bậc của then được thể hiện ở số lượng tua đính trên mũ then khi thực hiện đại lễ và số lượng dải dây đồng của bộ “xóc nhạc”. Thầy then có chức bậc cao cấp nhất thường có 15 dải đuôi mũ và 15 dây xóc nhạc. Thông thường, người bắt đầu mới vào nghề then chỉ có 5 dải mũ và 5 dây xóc nhạc. Để lên được cấp bậc cao nhất và cũng để tăng uy tín với cộng đồng, họ thường phải tổ chức 6 lần đại lễ, mỗi lần tổ chức tốn rất nhiều kinh phí, do vậy không phải thầy then nào cũng có khả năng tổ chức đầy đủ 6 lần“Lẩu then” như vậy.
Những thầy then thực sự là những người đa tài. Khác với lên đồng của người Kinh (có ban âm nhạc riêng để phục vụ thầy đồng), người làm then phải kiêm nhiệm vai trò của ban nhạc.
Nghĩa là họ phải vừa đàn, vừa hát, vừa thực hành nghi lễ một cách độc lập, những người đi
theo (được gọi là bà mẹ thớ hương) chỉ phụ giúp họ những công việc hậu cần như thắp hương, xóc nhạc, cắt quần áo giấy…Có thể nói, then là người vừa giúp cộng đồng thỏa mãn nhu cầu tâm linh, cũng vừa là những nghệ sĩ đem tiếng đàn, tiếng hát, điệu múa đến làm đẹp cho làng bản, quê hương.
Theo quan niệm dân gian, thầy then cũng như tất cả những người bình thường khác đều có 3 hồn, 7 vía đối với nam hoặc 3 hồn 9 vía đối với nữ. Tuy nhiên, vì thầy then mang trong mình trọng trách đi cứu nhân độ thế, là nhân vật trung gian giữa thế giới linh thiêng và thế giới trần tục, là con người có khả năng đặc biệt nên hồn vía của thầy then cũng khác biệt so với người bình thường. Thầy then cũng có đủ 3 hồn nhưng luôn thiếu 2 vía. Theo quan niệm của then thì 2 vía này thực hiện nhiệm vụ tâm linh và luôn thường trực trên cõi linh thiêng.
Mỗi vía lại được phân công những nhiệm vụ riêng, có vai trò rất quan trọng trong tất cả các cuộc hành lễ của thầy then. Then đã nhắc đến 2 vía này qua câu mở đầu trong tất cả các cuộc lễ:
Bà nhất dú tình moóc tình bân Bà nhị dú chang hả
Bà slam dú dương gian cai binh cai mạ Tạm dịch:
Bà Nhất ở trên mây, trên trời Bà Nhị ở giữa cõi trời Vua Hả Bà Ba ở trần gian cai quản binh mã Vía thứ nhất (được gọi là Bà Nhất): theo các thầy then thì ngay từ khi họ sinh ra, cái vía ấy đã là “con” của vua cha Ngọc Hoàng nên sớm tối luôn phải chầu chực trên điện Linh Tiêu
Vía thứ hai (được gọi là Bà Nhị): vía này luôn án ngữ ở cửa “Vua Hả”, có nhiệm vụ giúp đỡ đoàn quân then khi qua cửa này để lên trình Ngọc Hoàng.
Hai vía này luôn ngự ở cõi linh thiêng và sẽ trở về hạ giới khi nhà then tổ chức các lễ “Lẩu
then”. Ngoài hai vía ấy thì vía thứ ba có vai trò rất quan trọng trong tất cả các cuộc hành lễ của thầy then. Vía này được gọi là Bà Slam, có quyền năng cai quản binh mã nhà then, là vía đã được Ngọc Hoàng ban sắc phong để đi cứu nhân độ thế. Khi bắt đầu cuộc hành lễ, thầy then phải thực hiện các nghi thức đặc biệt để xuất Bà Slam ra khỏi thân xác dẫn đoàn âm binh lên đường, đưa lễ dâng Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Đây là điểm đầu mối đầu tiên cho việc tìm hiểu và nghiên cứu về Shaman trong then.
2. Yếu tố Shaman trong then
Trong hệ thống thực hành nghi lễ của người Tày- Nùng, yếu tố Shaman có vai trò rất quan trọng, nó không chỉ xuất hiện trong then mà còn cả trong pụt và sliên. Đặc điểm tiêu biểu của các diễn xướng này là quá trình xuất nhập thần của các siêu linh thông qua thân xác thầy then, pụt để truyền ban, phán bảo cho người trần gian. Có thể khẳng định rằng, cả cuộc lễ then dù nhỏ hay lớn đều là quá trình xuất - nhập thần mà trong đó chủ yếu là sự xuất thần của then ra khỏi thân xác để lên cõi trên, đưa rước lễ vật qua các cửa để cầu mong cho gia chủ được bình an và hạnh phúc.
Ngay từ khi bắt đầu cuộc then, bằng những động tác mang đầy tính thần bí như bật quạt đưa lên ngang mặt hay bật ngón tay, bắt quyết,… thầy then thực hiện sự xuất thần, xuất vía của mình ra khỏi thân xác để sang thế giới bên kia, điều binh khiển tướng để dâng lễ lên Ngọc Hoàng Thượng Đế, cầu cho gia chủ bình an và giải hạn, giải tai.
Chặng đường hành quân của quân then từ hạ giới lên cõi linh thiêng là cả một bản trường ca được kể bằng lời hát, điệu nhạc của thầy then. Chặng đường ấy được mô tả rất gian nan và đầy rẫy hiểm nguy. Để qua được những đoạn đường này, then đã phải rất kiên trì và vất vả.
Trong cuộc hành trình này, một mình sức vóc của then và đoàn âm binh không thể kham nổi.
Do vậy, thầy then phải kêu gọi sự giúp đỡ của các vị thần linh, thánh tướng để hỗ trợ.
Chính sự viện trợ, giúp đỡ ấy đã tạo nên yếu tố shaman rất rõ ràng trong then, nó được thể hiện ra bằng những hình thức như sau:
2.1. Shaman trong điệu múa thiêng Điểm chung giữa các hình thức Shaman ở Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới là việc sử dụng âm nhạc và vũ đạo để hỗ trợ cho quá trình hành lễ, cho sự xuất, nhập thần của thầy Shaman và các đấng siêu linh. Âm nhạc có tác dụng tác động đến thùy não của thầy Shaman, tạo nên sự hưng phấn cực độ để họ xuất thần ra khỏi thân xác, tạo điều kiện cho các siêu linh trở về“ngự”tạm vào thân xác đang trống rỗng ấy. Vũ đạo là những động tác của cơ thể trước ban thờ thần linh, là một yếu tố rất thiêng liêng tạo nên không gian thiêng, phi trần thế cho điện thờ. Nếu âm nhạc cộng với niềm tin sâu sắc vào thánh thần tạo nên sự hưng phấn cho tinh thần thì vũ đạo trước thần linh tạo nên sự hưng phấn cho thể xác. Chỉ khi sự hưng phấn của thể xác và tinh thần đạt ở mức cực đại cao nhất thì sự xuất - nhập thần
- hay nói cách khác là hiện tượng Shaman mới có thể xảy ra. Do vậy, bao giờ hai yếu tố này cũng tồn tại song song với nhau trong tất cả các nghi lễ có liên quan đến xuất - nhập hồn.
Trong then, yếu tố âm nhạc chính là các làn điệu trong diễn trình nghi lễ then gắn với các chương đoạn như: Khảm hải (vượt biển), pây tàng (hành quân trên đường bộ),… và các đoạn nhạc lưu không. Càng gần giai đoạn xuất thần của thầy then thì âm nhạc càng nhanh, càng dồn mạnh mẽ. Tiếng đàn tính mềm mại kết hợp với tiếng xóc nhạc rắn rỏi nâng đỡ nhau thành bè cao, bè trầm, tác động không chỉ đến bản thân thầy then mà còn cả với những người tham gia cuộc lễ. Khi lời ca, điệu nhạc đạt đến mức độ cao trào, nghĩa là đã có sự trao đổi thân xác giữa thầy then và các vị thần linh thì lập tức vũ đạo sẽ xảy ra. Động tác đầu tiên mở đầu cho quá trình giao lưu giữa thần linh với người trần là động tác thầy then bật quạt rất mạnh, nhiều lần liên tục và hai đùi đập xuống sàn nhà một cách mạnh, dứt khoát. Sau đó, thầy then và các bà phụ xóc nhạc liền đứng dậy thực hiện múa
chầu (mủa chầu).
Theo nghệ nhân Hoàng Văn Tâm ở phố Ba Toa, thành phố Lạng Sơn giải thích thì: “Múa chầu là điệu múa linh thiêng được then và những người phụ giúp múa trước thần linh với mục đích chào mừng và làm vui lòng các quan, thánh”.
Trong cuộc lễ then, múa chầu bao giờ cũng là phần thu hút đông người xem, là điểm nhấn của cuộc lễ. Ai cũng đều có thể tham gia vào múa chầu miễn là biết động tác, biết luật. Tùy từng vùng then khác nhau mà các nghệ nhân cũng có những luật múa khác nhau. Ví dụ, vùng then ở Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn, Cao Lộc thuộc tỉnh Lạng Sơn khi múa chầu quy định không được vung tay quá đầu, quá mặt.
Song cũng ở tỉnh Lạng Sơn thì một số huyện như Tràng Định (chịu ảnh hưởng của then Miền Đông Cao Bằng) lại cho phép người múa vung tay cao qua đầu.
Đạo cụ trong múa chầu then là bộ xóc nhạc.
Bộ xóc nhạc thường được cầm ở tay thuận của nghệ nhân, còn tay kia thực hiện động tác vờn, động tác hái lộc,… Tuy nhiên, khi có đông người tham gia, số lượng xóc nhạc không đủ đáp ứng thì có thể sử dụng cả quạt, đàn, khăn, thậm chí còn múa cả tay không. Theo quan niệm của then, cuộc lễ nào càng có nhiều người tham gia múa chầu thì gia chủ càng có tài lộc và tất nhiên, cuộc then càng trở nên sôi nổi, náo nhiệt. Cũng chính vì tính chất vui vẻ như vậy nên múa chầu chỉ được then sử dụng trong các cuộc lễ vui như “Lẩu then”, “Chúc thọ”,
“Giải hạn”, “Mừng nhà mới”,…; còn các cuộc lễ mang tính chất đau buồn, bi thương như tang lễ, bốn mươi ngày, mãn tang thì không có múa chầu. Mỗi vùng then đều có các bản nhạc lưu không riêng để đệm cho múa chầu. Trình tự múa chầu thường diễn ra như sau:
Múa vái lạy: Then vừa múa vừa vái lạy trước bàn thờ của then, vái lạy trước cây cầu hào quang (cây thần linh thiêng nối liền hai cõi âm dương, đặt ở giữa nhà) và bàn thờ gia tiên nhà chủ.
Múa soát lê: Là múa xung quanh các mâm lễ và cây cầu hào quang.
Múa xuyên: Đây là phần sôi nổi nhất của múa chầu, then và các bà phụ giúp sẽ tiến hành múa vờn, xuyên qua nhau trước bàn thờ then.
Điều cần lưu ý là trong chặng múa chầu thứ ba này, hiện tượng shaman rất dễ xảy ra.
Người bị nhập không phải chỉ có riêng thầy then mà còn có cả những người bình thường khi tham gia múa chầu nếu họ bị “nhẹ vía”. Vị thánh thường về nhập khi múa chầu thường là
“Tướng Cá” (thần trẻ con). Biểu hiện khi bị nhập là người múa sẽ co một chân, nhảy lò cò liên tục, vừa nhảy vừa hò hét, cười đùa như những người bị bệnh tâm thần. Sau đó, họ thường có các hành động khác lúc bình thường như nũng nịu, cười đùa hoặc ăn trộm một đồ vật gì đó của khách tham gia lễ then
Múa chầu vái tạ: Là đoạn cuối cùng của múa chầu. Then và những người tham gia múa chầu - hướng về bàn thờ then vái 3 vái rồi trả bộ xóc nhạc về chỗ cũ. Trong phần cuối này, thầy then bốc một nắm gạo tung về phía tất cả những người tham gia múa chầu, đặc biệt là những người đang bị “Tướng Cá” nhập với mục đích trả lại hồn vía cho họ và tiễn các siêu linh đang ngự trong thân xác người múa chầu về cõi trên.
Thông qua hành động trả lại hồn vía cho những người tham gia múa chầu ta có thể thấy rằng, cuộc múa chầu cũng chính là nghi thức Shaman nhỏ trong lễ Shaman lớn. Trong cuộc múa ấy có cả xuất thần và nhập thần, sự xuất nhập thần đã xảy ra ngay từ khi người tham gia lễ then bị âm nhạc và vũ đạo của thầy then cuốn hút mà tự động “xông vào” lấy bộ xóc nhạc để múa một cách vô thức. Như vậy, sự xuất nhập thần này không phải chỉ có riêng thầy then mà còn có cả những người bình thường tham gia, thầy then giữ vai trò điều khiển toàn bộ cuộc múa. Loại bỏ đi những yếu tố mang tính huyền bí và mê tín dị đoan thì cuộc múa chầu là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, qua đó gắn kết tình cảm của mọi người, kể cả thân quen cũng như xa lạ với nhau. Ngoài ra, múa chầu còn là nét tiêu biểu, đặc sắc mang
tính nghệ thuật và là điểm nhấn tạo nên sức lôi cuốn, thu hút của then đối với nhân dân.
2.2. Hiện tượng “giáng đồng” của các siêu linh trong cuộc lễ
Nói “giáng đồng” là theo ngôn ngữ trong tín ngưỡng Tứ phủ của người Việt, còn đối với then, quá trình nhập hồn này được gọi là ma nhập (lồng tu thể, lồng đang). Trong tiếng dân tộc,
“Lồng” có nghĩa là bước xuống, “Tu thê” hay
“Đang” đều là cơ thể con người. Vì vậy ta có thể hiểu, “lồng tu thê” hay “lồng đang” là các vị thánh nhập vào cơ thể thầy then để phán bảo, dặn dò và điều khiển thầy then thực hành các nghi lễ. Tuy nhiên, khác với múa chầu là hình thức shaman mang tính cộng đồng thì nghi thức“lồng tu thệ” hoàn toàn mang tính chất cá nhân của riêng thầy then. Qua từng cung đoạn, từng cửa trong hành trình của mình lên cõi trên, có một siêu linh nhập vào thầy then. Siêu linh đó có thể là thánh tướng nhà then hoặc cũng có thể là chính ông tổ của dòng họ mà then đến làm lễ hoặc cũng có thể là vong hồn của người thân được triệu lên trong các đám mãn tang, bốn mươi chín ngày. Căn cứ vào tính chất và đặc điểm diễn xướng thì có thể phân nghi thức nhập đồng trong then ra 2 loại, đó là nhập đồng nhỏ trong tiểu lễ và nhập đồng lớn trong đại lễ. Nhập đồng nhỏ trong tiểu lễ là quá trình từ khi thánh nhập đến khi thánh thăng (chỉ diễn ra trong phạm vi chiếc chiếu nhỏ lúc thầy then đi làm lễ cho các gia chủ), còn nhập đồng lớn chỉ diễn ra trong các đại lễ liên quan đến lễ cúng tổ nghề tại nhà của thầy then.
+ Nhập đồng trong các tiểu lễ: Ở các cuộc lễ then thông thường như giải hạn, cầu an…
với mục đích là mời các vị thánh xuống khám lễ, chỉ một người là thầy then tham gia và trang phục chỉ là quần áo thường. Thường sẽ có các vị sau nhập đồng: Vua Bếp (Nàng Cháo), tổ tiên (cha slin), Bà Bản Mệnh (Bà Slinh), Tiểu Đồng (Tướng Ca) và vong linh (nếu là đám Then 40 ngày hoặc mãn tang). Các vị này sẽ nhập vào thầy then mỗi khi thầy then đưa lễ dâng lên vị đó. Ví dụ khi then dâng lễ lên cửa Vua Bếp thì Vua Bếp sẽ nhập vào thầy then để phán bảo
con cháu. Quá trình ấy thường diễn ra theo thứ tự như sau:
Giai đoạn thứ nhất: Thầy then dồn mạnh nhịp đàn, nhịp hát, xóc nhạc, đùi phải đập mạnh xuống đất và bật mạnh quạt nhiều lần phía trước mặt trong tư thế ngồi xếp bằng. Khi âm nhạc đạt đến độ cao trào thì thầy then sẽ nhảy dựng người lên. Lúc này âm nhạc sẽ trở lại dìu dặt, nhẹ nhàng và thầy then bước sang giai đoạn thứ hai
Giai đoạn thứ hai: Sau khi các đấng siêu linh đã nhập vào thầy then rồi thì thông qua thầy then, các vị sẽ ban truyền lời phán bảo cho con cháu. Thầy then vừa nói, vừa gẩy đàn và đồng thời vừa đập đùi xuống đất, quạt huơ nhiều lần trước mặt. Lời phán bảo đa phần là khen ngợi con cháu biết nhớ ơn ông bà tổ tiên, chỉ bảo cho con cháu biết các loại hạn trong năm và cách tránh nó, song nhiều khi cũng trách móc rất nghiêm khắc, nặng nề con cháu vì làm phật ý ông bà, thánh thần.
Một điểm khá đặc biệt là khi nhập đồng, sức mạnh về thể lực của thầy then tăng lên đáng kể.
Tác giả bài viết đã có dịp chứng kiến những thầy then mặc dù rất cao tuổi như Nguyễn Thị Bình, Nông Thị Phòng hay Mỗ Thị Kịt ở Lạng Sơn đều trên tuổi 85 nhưng khi “thánh nhập”, họ làm được những việc mà lúc thông thường khó có thể thực hiện, ví dụ như bật người lên cao đến hơn 1m trong tư thế đang ngồi và có thể làm như vậy trong một thời gian khá dài nhưng không hề có dấu hiệu mệt mỏi.
Giai đoạn thứ ba: Sau khi đã phán bảo, dặn dò con cháu xong, thầy then thực hiện nghi thức xuất thần ra khỏi thân xác mình. Khi xuất thần, thầy then bật mạnh quạt, các bà phụ then xóc nhạc thật mạnh và thầy then cũng bật người lên 3 lần. Kết thúc quá trình xuất thần, thầy then bật quạt 3 lần trước mặt và nghỉ ngơi đôi phút.
Điều cần lưu ý ở đây là trong các cuộc then nhỏ như vậy, quá trình nhập đồng của then chỉ diễn ra trên một chiếc chiếu nhỏ và tại tư thế ngồi xếp bằng từ đầu cho đến hết cuộc lễ.
+ Nhập đồng trong các đại lễ: Đối với các đại lễ thì thầy then thực hiện nghi thức nhập đồng theo các bước tương tự như lễ hầu đồng của người Kinh. Với các lễ này, lực lượng tham gia không phải chỉ có thầy then với đạo cụ đơn giản như đàn tính, xóc nhạc, quạt và trang phục đơn giản là chiếc áo chàm mà cần phải huy động lực lượng nhiều thầy then cùng tham gia, ít nhất phải có từ 3 thầy trở lên, kèm theo đó là rất nhiều đạo cụ (đàn tính, xóc nhạc, kiếm, chũm chọe) và nhiều bộ trang phục với màu sắc khác nhau. Các thầy then tham gia nghi lễ đều cùng một dòng, nghĩa là có cùng sư phụ.
Nếu sư phụ của thầy then đó còn sống thì cuộc then sẽ do sư phụ chủ trì; nếu sư phụ đã mất thì cuộc Lẩu then sẽ do Tái lẩu (sư huynh) tức thầy then cả chủ trì, dẫn dắt. Do vậy, ta chỉ gặp hình thức nhập đồng dạng này ở các đám then lớn, cụ thể là các đám “Lẩu then”. Người Tày gọi các cuộc nhập đồng này là Xỉnh tưởng và người Nùng gọi là Tẳng tưởng. “Xỉnh tưởng” hay
“Tẳng tưởng” đều là mời gọi và đón các vị tướng xuống nhập vào thân thể thầy then. Trong cuộc Lẩu then ở Bắc Sơn, với 3 đêm, đã có tới 12 lần đón tướng xuống nhập. Theo các thầy then thì đó là một phần là các Tổ sư qua các đời của dòng then, phần còn lại là các vị thánh tướng nhà trời, bao gồm:
Cai Đàn: Tướng nhà trời có nhiệm vụ kiểm tra lễ vật của then. Các vị ngự về, mặc áo màu xanh, cầm kiếm đi soát lễ vật,
Pháp Thông, Pháp Lục: Là các vị Tổ sư đời trước của dòng then, nhập về để dặn dò con cháu. Khi 2 vị này về, then mặc áo màu đỏ
Mẻ Nàng Con Dăm: Là Quan Thế Âm Bồ Tát, một vị Phật danh tiếng của Phật giáo. Khi Ngài về ngự, then sẽ mặc áo trắng có hoa và ngồi xếp bằng tại chỗ chứ không đứng dậy.
Pháp Ké: Theo người Tày ở Bắc Sơn thì Pháp Ké là ông cụ già người Nùng chủ về quản lý âm binh, cũng có nơi cho là vị Tổ sư đầu tiên của then. Pháp Ké về thường diễn các trò như gánh lợn gà hay soi gương làm đỏm tạo nên tiếng cười cho cả không gian hành lễ. Khi Pháp Ké giáng đồng, then thường mặc áo Nùng ngắn màu đen.
Khách Hoàng Khách Phượng nam huân: Là các vị thần tiên trên trời, có cung cách lịch sự, tao nhã, khi về thường hát lượn, hát ví và mang rượu đi mời mọi người, trang phục giống như các tướng nhà trời nhưng màu trắng.
Cao Công: Là thần chủ về bệnh tật, âm binh. Tướng Cao Công về thường ngồi lên bàn chông. Các then thường mặc áo màu đỏ khi Cao Công giáng đàn.
Tướng Hổ Lang: Chính là Chúa sơn lâm, có nhiệm vụ hộ vệ cho then trong các cuộc lễ.
Tướng hổ về thì then mặc áo màu vàng hoặc áo có vằn như da hổ. Khi tướng hổ về nhập then chạy vờn xung quanh con lợn tế, bất thình lình cắn vào tai con lợn và tha cả cái thủ đi, sau đó chạy quanh khu hành lễ và vất chiếc đầu lợn trước bàn thờ then rồi thăng đồng.
Ở then của người Nùng, các vị thánh tướng được mời cũng cơ bản như vậy song người Nùng lại không mời tướng Cao Công. Có thể vị tướng này được định hình trong quá trình giao lưu văn hóa Tày - Việt vì theo tôi quan sát, khi nhập về, vị này phán hoàn toàn bằng tiếng Kinh
Trong cuộc nhập đồng lớn này, các then cũng trang phục như hầu đồng của người Kinh nhưng khác biệt ở chỗ, nếu trong hầu đồng, sau khi thánh nhập thầy đồng mới thay áo thì người Tày - Nùng lại thay áo trước khi làm lễ mời tướng xuống nhập. Điều khác biệt thứ hai là nếu các“giá đồng” của người Kinh diễn ra liên tục, không gián đoạn cho đến hết một“vấn hầu” thì sau mỗi lần đổi thần nhập trong then Tày, Nùng lại có thời gian nghỉ ngơi để chuẩn bị (khoảng mươi phút). Có thể chia hệ thống lên đồng lớn trong then thành các bước sau:
Bước thứ nhất: Thỉnh mời
Người đứng ra mời các vị thánh tướng thường là thầy then chủ trì cuộc lễ. Thầy then này có thể trực tiếp là vị sư phụ, cũng có thể là sư thúc, sư bá (anh em của sư phụ) nếu như sư phụ đã mất. Tuy nhiên, cần phải lưu ý là các vị thánh tướng nhà Then không nhập vào sư phụ mà sẽ nhập trực tiếp vào đệ tử - then được cấp sắc.
Trong hình thức Shaman này, đầu tiên then thầy hát câu thỉnh mời các vị thánh, tướng xuống nhập đồng. Những câu hát mời này thường ngắn gọn, đơn giản. Ở Then Tày huyện Bắc Sơn, các nghệ nhân hát mời như sau:
Nhằng binh mạ Đại Lương, Cốc Lẩu, Tiểu Lương
Slai binh oóc tạm mà rặp tướng…..
Mà lồng đàn tàng chứng minh Tạm dịch:
Nào binh mã Đại Lương, Cốc Lẩu, Tiểu Lương
Mau sai quân binh ra ngoài trạm đón tướng…..
(mời vị nào thì hát lên tên vị ấy) Để ngài giáng đà tràng chứng minh.
Ở Then Nùng câu hát ấy cũng tương tự:
Binh quan xe lệ oóc tu tạm tu nha
Dỉ tẳng tưởng.... mà ti lùng dự án, chực châm Tạm dịch:
Binh quan mau đưa lễ ra ngoài trạm, ngoài dinh
Để đón tướng... (đón vị nào thì hát tên vị ấy) Để xuống dự lễ trần gian.
Những câu hát được hát với tốc độ nhanh dần trong tiếng xóc nhạc rộn rã. Thầy then nhập đồng đứng ra trước bàn thờ, bật mạnh quạt rồi nhảy lên nhiều lần với tốc độ nhảy càng mạnh, càng nhanh cho đến khi ngã ngửa người ra đằng sau, mọi người phải dàn hàng ngang để đỡ cho thầy then khỏi bị ngã xuống sàn nhà. Chính lúc này, “siêu linh” đã nhập vào thân xác thầy then.
Thầy then không còn là chính bản thân mình nữa mà đã mang danh nghĩa thần thánh, mọi người sẽ không còn nhìn nhận then như một người bình thường nữa mà sẽ có thái độ kính trọng, tôn sùng như đối với một vị thần linh có quyền năng.
Bước thứ hai: Kiểm lễ
Sau khi thánh tướng đã nhập, thầy then thực hiện nghi thức cưỡi ngựa hồng (bằng cách giẫm qua bó lửa) và cưỡi ngựa xanh (ngựa xanh là bó lá gai mà thầy then sẽ vần nát). Khi đã cưỡi ngựa xong, then đi quanh không gian hành lễ và cây cầu hào quang 3 vòng từ trái sang phải để kiểm tra lễ vật, tất cả các tướng nhập đều qua thủ tục này.
Bước thứ ba : Mời khách
Khi đã kiểm lễ đầy đủ và xong xuôi, người nhà đem một chiếc ghế gỗ đặt trước bàn thờ để quan tướng ngồi nghỉ ngơi. Trước khi ngồi xuống, thầy then dùng xóc nhạc xóc xung quanh chiếc ghế ba lần để tẩy uế, sau đó ngồi xuống để các thầy then phụ giúp dâng rượu, dâng trầu, dâng hương. Sau đó, thầy then ban lộc cho con cháu và tất cả những người đến xem cuộc lễ. Lộc ở đây thường mang tính tượng trưng, có thể là một nắm gạo, một chiếc bánh nhỏ hoặc thậm chí là các cành lá nhỏ và có giao lưu trò chuyện với mọi người tham dự nghi lễ.
Bước thứ tư: Tiễn Thánh thoát hồn
Đây là bước cuối cùng của lễ “nhập đồng ”.
Lúc này then về trước bàn thờ then, thầy then cả hát để tiễn hồn thánh đi và gọi hồn then trở lại. Khi ấy, then cũng sẽ lại bật quạt và nhẩy mạnh lên thật nhiều lần rồi ngã ra đằng sau, mọi người cũng phải xếp hàng ngang để đỡ cho then không bị ngã xuống đất. Theo quan niệm, nếu để thầy then bị ngã thì không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân họ mà còn ảnh hưởng đến sự hùng mạnh của âm binh.
Yếu tố nhập hồn trong các cuộc then này có vai trò rất quan trọng đối với diễn xướng then vì nó làm tăng thêm tính thiêng cho nghi lễ. Thông qua việc các thánh tướng trực tiếp
“giáng đồng”, các then sẽ thêm phần yên tâm hơn vì cuộc lễ của mình đã hoàn hảo, có các thế lực siêu nhiên giáng lâm và phù hộ. Ngoài ra, những dịp như vậy còn tăng thêm sự gắn kết cộng đồng giữa gia đình then với làng xóm, sự gắn kết giữa thế giới trần gian và thế giới siêu nhiên.
2.3. Các hình thức phù chú, ma thuật khác Phù chú, ma thuật có vai trò quan trọng trong then. Cũng giống như Shaman, phù chú và ma thuật có tác dụng làm tăng thêm tính thiêng cho nghi lễ tính. Nếu đơn thuần chỉ có ca hát và múa thì then sẽ không thể tồn tại trong dân gian được vì phần nhiều nhân dân chỉ mời then đến khi gia đình có việc cần giải quyết. Những yếu tố phù chú, ma thuật được diễn ra trong suốt quá trình hành lễ của thầy then ở bất kỳ cuộc lễ lớn nhỏ nào.
Ngay ở phần đầu cuộc then, thầy then đã sử dụng ma thuật ngay trong việc xuất thần khỏi thân xác để điều binh khiển mã. Đầu tiên thầy bật ngón tay phải thành tiếng 03 lần sau đó đưa lên ngang mặt và nẩy giật người. Sau đó dùng chiếc quạt quạt 03 lần về phía trước nén hương trên ban thờ. Theo then giải thích, biệc bật ngón tay và đưa lên trước mặt là hiệu lệnh triệu tập binh mã nhà then, còn hành động quạt vào nén hương đang cháy chính là vén tấm màn âm dương để có thể thấy được cõi linh thiêng. Từ đây, cuộc lễ then chính thức bắt đầu.
Trong sự nhập thần vào cơ thể thầy then và hành động của then trong suốt quá trình ấy ta cũng thấy rất nhiều nghi thức mang tính thần bí, ma thuật. Yếu tố đó được thể hiện ngay từ việc mời gọi thần linh về nhập xác. Đó là các động tác bật nhẩy và phất mạnh chiếc quạt nhiều lần trong tiếng nhạc, tiếng hò hét của người tham gia cuộc lễ. Sự việc diễn ra trong khói hương nghi ngút và không gian linh thiêng tột độ. Các hình thức ma thuật này chỉ xuất hiện đầy đủ trong các lễ “Lẩu then”. Khi Thánh tướng đã về nhập đồng rồi thì các Ngài thực hiện nghi lễ ma thuật theo trình tự như sau:
Thứ nhất: Cưỡi ngựa. Có hai loại “ngựa” mà thầy then (Thánh tướng) cưỡi trong cuộc nhập thần, đó là ngựa hồng và ngựa xanh. Ngựa hồng là một bó đuốc lớn được đặt ở giữa nhà theo chiều năm ngang. Khi thánh tướng đã thượng đồng, ngài tiến đến cây cầu hào quang. Lúc đó, người nhà đem bó đuốc đang cháy rực đặt giữa nhà (nếu là nhà sàn thì sẽ đặt đuốc lên
một chiếc đế bằng đất nện). Ngài vung quạt, quạt vào bó đuốc ấy và hỏi gia đình :
- Ngựa này mua ở đâu mà to béo thế ? Mọi người trêu ngài bằng cách trả lời : - Mua ở Hà Nội đấy !
Ngài ban khen:
- Ô ! Vậy là vất vả đấy. Khen cho gia đình nhé ! Điều cần lưu ý là tất cả các lời hội thoại đều bằng tiếng Kinh. Có lẽ đó là kết quả của sự giao thoa văn hóa với người Kinh.
Sau khi đã khen ngựa xong, ngài cưỡi ngựa bằng cách nhảy lên bó đuốc với đôi chân trần.
Nhiều thầy then không chỉ nhảy mà họ còn vần bó đuốc đang cháy tóe ra khắp nhà, nhưng không ai kêu bỏng hoặc bị thương. Có thể đây là nghi thức tẩy uế của các ông thầy Shaman để thân xác được trong sáng và sạch sẽ hơn.
Đối với then Nùng, trước khi mời thánh tướng về nhập xác, họ còn thực hiện nghi thức “quá thán”, nghĩa là bước lên than hồng để thân thể được sạch sẽ trước khi thánh về ngự. Tuy than đang cháy rực như vậy nhưng không thầy then nào kêu bỏng hay nóng. Một số người bình thường nếu họ ăn chay và được các then phù chú vào bàn chân thì vẫn có thể đi qua than hồng mà không hề bị bỏng.
Tiếp theo phần cưỡi ngựa hồng, các then sẽ tiếp tục cưỡi ngựa xanh. Ngựa xanh là những bó lá có gai như lá găng, lá dứa dại,... được kết lại thành từng bó lớn và đặt bên bàn thờ then. Khi
“ngựa hồng” đã bị vần nát, thánh tướng sẽ tiến về phía bó lá gai, vừa quạt vừa khen ngợi ngựa béo, ngựa tốt. Sau đó họ làm động tác như vỗ vào lưng ngựa rồi nhảy lên bó lá gai. Vừa nhảy họ vừa giả tiếng hí của ngựa và “phi” ngựa xung quang không gian hành lễ để kiểm tra lễ vật.
Then phụ giúp phải luôn đi theo để báo cáo về lễ vật với các ngài. Sau phần kiểm tra, thánh tướng quay lại trước bàn thờ then và vần nát bó lá. Điều thú vị là dù bó lá nhiều gai như vậy nhưng các thầy then không hề bị thương, quần áo họ mặc cũng không bị rách hoặc bị thủng.
Sau khi đã cưỡi ngựa xanh và ngựa hồng, gia đình nhà then mang một chiếc ghế có lưng tựa, tay vịn và có trải một miếng vải đệm ở trên mặt ghế ra cho thánh tướng ngồi. Trước khi ngồi, các ngài phẩy quạt và quạt ba lần vào mặt ghế, sau đó lại dùng bộ xóc nhạc xóc vòng xung quanh ghế ba lần rồi mới ngồi xuống. Đó là ma thuật dùng để quét sạch mọi bụi trần vấy bẩn bám trên ghế, để chiếc ghế luôn trong sạch, xứng đáng là nơi các ngài ngồi. Trong hầu đồng của người Việt, trước khi dâng khăn áo hay lễ vật cho các Thánh, Thanh đồng cũng phải tẩy uế bằng cách huơ nén hương 3 lần vào lễ vật, khăn áo đó.
Khi các ngài đã an tọa thì các then phụ giúp thực hiện nghi thức “vần lầu” nghĩa là dâng hương, rượu cho Thánh. Cách thức dâng là các then phụ giúp truyền nhau bát gạo có cắm 5 nén hương và chén rượu 03 lần theo chiều ngược với kim đồng hồ quanh thầy then đang ngồi trên ghế. Do là các đấng siêu nhiên nên cách thụ hưởng lễ vật của các ngài cũng khác với người trần gian. Then cho rằng khi truyền tay hương và rượu vòng quanh như vậy thì các ngài đã thụ hưởng lễ vật rồi.
Sau khi đã vần lẩu xong, người ta đốt một bó hương to. Trong khi bó hương đang cháy rực như vậy, thầy then - lúc này đang đóng vai trò là thánh tướng - đưa thẳng vào miệng và nhai nát bó hương ấy. Nghi thức này được gọi là“kin dương”, nghĩa là ăn hương. Đó là hình thức biểu lộ thần oai của thánh tướng cũng như những người làm then để thu phục lòng tin của cộng đồng vào quyền năng tâm linh của họ.
Tiếp đó thánh tướng ban lộc cho các then đến phụ giúp và cho cả gia đình. Sau phần ban lộc, then đến trước bàn thờ, bật quạt, bật nhảy nhiều lần để xuất thần ra khỏi thân xác và ngã ngửa người ra sau. Ở một số đám lẩu then của người Nùng, có thêm nghi thức “giải hạn” như sau:
Trước cuộc Lẩu then mấy ngày, các gia đình xung quanh nhà thầy then chuẩn bị một túi gạo nhỏ có ghi tên gia đình mình, sau đó mang
đến treo ở chiếc giàn gỗ dưới mái nhà, phía trước bàn thờ then. Các then gọi đây là “trạm quân binh”, là nơi trú chân của binh mã nhà then với ý nghĩa góp thêm phần lương thực cho quân binh đồng thời cũng xin các then làm phúc. Các túi gạo đều được cắm hương liên tục.
Sau khi các thánh đã thụ hưởng lễ vật xong, thánh tướng một tay cầm quạt và bộ xóc nhạc, một tay cầm chiếc gậy tre mà ở đầu có bôi vôi.
Thầy then cầm quạt quạt về phía giàn gỗ nhiều lần, vừa quạt vừa hát những câu hát mang hàm ý chúc phúc cho tất cả mọi người có mặt trong buổi lễ. Sau đó bất thình lình then cầm chiếc gậy chọc nhẹ vào những túi gạo của gia đình nào mà trong năm đó có hạn. Đồng bào Tày - Nùng quan niệm, khi then đã chọc gậy vào túi gạo nào thì có nghĩa là hạn của gia đình chủ nhân túi gạo ấy đã được hóa giải. Kết thúc đám lẩu, họ xin lại túi gạo về nhà để cả nhà cùng ăn, coi như đó là món lộc thánh ban. Đó là ma thuật trong nghi thức nhập hồn. Ngoài ra, trước khi vào cuộc then, thầy then còn có một động tác ma thuật nữa đó là “thu vía”.
Trong các cuộc then thông thường, không chỉ có thầy then và binh mã đơn độc trong suốt hành trình lên lễ Tổ mà còn có sự tham gia của tất cả các thành viên trong gia đình gia chủ.
Trước cuộc lễ, then dặn người nhà trong gia đình, mỗi người chuẩn bị một bộ quần áo, cho gọn vào chiếc túi rồi đặt cạnh bàn thờ then.
Những bộ quần áo này phải đã mặc vì như vậy mới có hơi người, có “vía” của chủ nhân trong đó. Thứ nữa, phải kiêng màu trắng (nếu áo trắng mà có kẻ sọc màu thì vẫn được) vì màu trắng là vô sắc, là màu của cõi âm, tang tóc và không có thần lực.
Khi bắt đầu cuộc then, thầy then cho một ít gạo vào túi quần áo rồi đọc thần chú thu hết vía của gia đình vào trong đó. Tiếp đó, thầy hướng vía sống ấy vào một bát gạo nhỏ có đặt quả trứng gà sống và chiếc lọng giấy bên trên, phía dưới chiếc lọng có cắt một hình nhân nhỏ gọi là hình nhân“lục vần”. Lục vần có nhiệm vụ bảo vệ vía của tất cả các thành viên trong gia đình không bị ma quỷ làm hại. Theo giải thích
thì từ đây, người nhà sẽ theo đoàn quân then lên đường để dâng lễ, xin giải hạn, giải tai. Kết thúc cuộc then, thầy then cầm bọc quần áo đưa ba lần trước bàn thờ then rồi ném về phía gia đình. Khi đó, người nhà chọn riêng ra từng bộ, xem của ai thì đặt lên đầu giường ngủ của người ấy. Còn bát gạo và quả trứng vía được đặt lên bàn thờ và ba ngày sau được đem ra nấu cháo. Điều lưu ý là tất cả mọi người trong gia đình đều phải ăn bát cháo dù ít hay nhiều và không cho người ngoài ăn cùng. Theo quan niệm của then, việc ăn bát cháo ấy chính là việc tiếp nhận vía trở về thể xác sau mấy ngày
“rong chơi”.
Ma thuật chính là phương thức, là chất xúc tác rất cơ bản để quá trình shaman có thể diễn ra. Hay nói cách khác, Shaman là một phần cấu tạo của ma thuật, một phần thực hành nghi thức, là một dạng biểu hiện của ma thuật (magic), do đó chúng luôn tồn tại song song và tương hỗ lẫn nhau. Ngoài ra, trong các nghi
Tài liệu tham khảo
1. Chu Huy Diên (1993), Vu thuật huyền bí:
Nghiên cứu và phê phán lên đồng, thuật cầu hồn nhập xác, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội
2. Nguyễn Thị Hoa (2003), Khảo sát nghi lễ Then “hắt khoăn” (giải hạn) của người Tày huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm I Hà Nội.
3. Nhiều tác giả (1978), Mấy vấn đề Then Việt Bắc, Nxb.Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Ngô Đức Thịnh (2008), Lên Đồng - hành trình của thần linh và thân phận, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
5. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Ngô Đức Thịnh (2002), Then - một hình thức Shaman của dân tộc Tày ở Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 3).
thức khác của then như cắt hạn tình duyên, viết và yểm thần lực vào các lá bùa mà then ban cho gia đình gia chủ để dán ngoài cửa cũng là một hình thức ma thuật dưới dạng thư phù.
Có thể nói, nếu âm nhạc, văn học, mỹ thuật và vũ đạo là cơ sở nghệ thuật của then thì Shaman chính là yếu tố tạo nền tảng cho then về tín ngưỡng. Ngoài những yếu tố tiêu cực từ mê tín dị đoan, Shaman trong then cũng có một số giá trị tích cực. Giá trị lớn nhất mà Shaman đem lại cho con người chính là sự “an định tinh thần”, giúp cho con người có thêm niềm tin vào cuộc sống, thêm niềm tin về sự bình an của người thân ở thế giới bên kia. Mặt khác, diễn xướng then còn giúp chúng ta hình dung về một hình thái tôn giáo cổ xưa đã từng hiển hiện rực rỡ trong lịch sử văn hóa nhân loại - Shaman. Âm nhạc, văn học, mỹ thuật và vũ đạo trong then cũng có giá trị nghệ thuật không nhỏ.
Ngày nhận bài: 21 - 11 - 2015
Ngày phản biện, đánh giá: 8 - 6 - 2016 Ngày chấp nhận đăng: 28 - 6 - 2016
N.T.T.N (TS, Viện Văn hóa)