sự KET HỢP CONG cụ ĐỊA CHINH TRỊ VÀ ĐỊA KINH TẾ CỦA LIÊN BANG NGA
TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC PHƯONG TÂY
NGUYỄN THANH SƠN*
* TS Nguyễn Thanh Sơn, Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Những năm cuối thế kỷ XX, sức mạnh kinh tế và vị thế quốc gia của Nga đã suy giảm một cách đáng kể. Điều này đã tạo nên sự chuyển biến lớn trong chính trị nội bộ của Nga từ đầu thế kỷ XXI nhằm giành lại tầm ảnh hưởng của mình ở những khu vực đã mất. Nga đã thực hiện điều này bằng cách sử dụng một mô hình mang đầy tính thực dụng trong quan hệ với các nước phương Tây, trong đó có sự kết hợp linh hoạt giữa các công cụ địa chính trị và công cụ địa kinh tế. Các công cụ địa chính trị mà Nga sử dụng là sức mạnh quân sự và vị thế chính trị của một siêu cường trong quá khứ. Còn các công cụ địa kinh tế của Nga là chiến lược ngoại giao năng lượng và các hoạt động thương mại. Thực tế cho thấy, dù các công cụ địa kỉnh tế được Nga ưu tiên sử dụng, nhưng nước này cũng không ngần ngại sử dụng các công cụ địa chính trị để đạt được mục tiêu chiến lược của mình.
Từ khóa: địa chính trị, địa kinh tế, xung đột Nga - Ukraine, chiến lược, lợi ích nước lớn, cạnh tranh sức mạnh quốc gia.
At the end of the 20th century, Russia's role in global economy and politics has decreased significantly. This has created a big shift within Russia's politics in the early 21st century, with the aim to restore its influence in the lost regions. In order to achieve this, Russia has implemented a pragmatic model in its relation with the West, using a flexible combination of geopolitical and geoeconomic tools. Russia's geopolitical tools include its military power and its political status as a superpower in the past. Russia's geoeconomic tools include strategic energy diplomacy and trade relations. While Russia prioritizes the use of geoeconomic tools, it does not hesitate to use geopolitical tools to achieve its strategic goals.
Keywords: Geopolitics, geoeconomics, Russia-Ukraine conflict, geostrategy, great power interests, national power competition
Ngày nhận: 6/2/2022 Ngày đánh giá, phản biện: 18/2/2022 Ngày duyệt đăng: 17/3/2022
1. Mở đấu
Sự tan lã của Liên xô vào những năm 1990 đã đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh lạnh trên thế giói. Ngay sau đó, Liên bang Nga đã nhanh chóng thực hiện chuyển đổi nền kinh tế thông qua liệu pháp sốc, bằng các biện pháp tư nhân hóa, mở cửa thị trường và phát triển theo hướng của các nước tư bản chủ nghĩa. Thế giới đã nghĩ về một kỷ nguyên không đối đầu, mở rộng các mối quan hệ hợp tác cả về kinh tế và chính trị giữa Nga với các nước phương Tầy (gồm Mỹ và các nước Tầy Âu). Tuy nhiên, sau
gần 10 năm chuyển đổi, nền kính tế Nga đã không đạt được sự phát triển như kỳ vọng, với tốc độ tăng trưởng thấp, lạm phát kéo dài và nạn tham nhũng tràn lan. Cùng thời điểm này, các nước phương Tầy đã liên tục mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tới các nước Đông Âu. Từ những năm 1990 đến nay, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tầy Dương (NATO) đã mở rộng ba lần:
lần đầu kết nạp Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan; lần thứ hai là các nước thuộc Liên Xô cũ là Estonia, Latvia và Litva; và cuối cùng là với Albania và Croatia vào năm 2009.
Vị thế suy giảm của Nga cùng sự mở rộng tầm ảnh hưởng của các nước phương Tầy đã
84 I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀQUẢN LÝ I số 43 (3-2022)
V Putin lần đầu bước lên nắm chính quyền ở Nga và tạo nên những bước chuyển biến lớn trong chiến lược của nước này với các nước phương Tầy. Thay vì gia nhập vào thể chế thế giới dưới sự lãnh đạo của phương lầy, Nga đã dần khôi phục vị thế của mình, trở thành đối trọng ngăn cản sự mở rộng hơn nữa về phía Đông của NATO. Chính vì vậy, vào năm 2008, khi Mỹ và một số nước lầy Âu đưa ra lời hứa sẽ kết nạp Ukraine vào NATO (nhưng lại không có bất kỳ một lộ trình cụ thể nào cho lời hứa này), thì quan hệ giữa Nga và các nước phương lầy càng trở nên căng thẳng hơn. Trong 15 năm qua, quan hệ này chưa hề hạ nhiệt và là một trong những nguyên nhân dẫn tới xung đột giữa Nga và Ukraine vào đầu năm 2022 [1], Bài viết nghiên cứu chiến lược của Nga với các nước phương lầy dưới góc độ cạnh tranh sức mạnh quốc gia. Đó là một chiến lược mang đầy tính thực dụng, trong đó có sự kết hợp của cả các công cụ địa chính trị và công cụ địa kinh tế.
2. Các công cụ địa chính trị và địa kỉnh tế
Địa chính trị và địa kinh tế là các phương pháp nghiên cứu tương quan quyền lực giữa các quốc gia dựa trên cơ sở điều kiện địa lý, tự nhiên và lịch sử. Thuật ngữ địa chính trị xuất hiện lần đầu tiên từ năm 1899 bởi Rudolf Kjellen, khi cho rằng các đặc điểm về kinh tế, chính trị và quân sự của một quốc gia bắt nguồn từ các yếu tố địa lý và môi trường của quốc gia đó. Các yếu tố địa lý này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển về kinh tế - xã hội và chính trị, đồng thời góp phần định hình bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia (Tunander, 2005). Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu trước đó, Cohen (2015) đã đưa ra khái niệm địa chính trị là sự phân tích mối quan hệ tương tác giữa các đặc điểm địa lý với các quá trình chính trị. Các đặc điểm địa lý bao gồm cả các đặc tính vùng miền đa dạng;
còn các quá trình chính trị bao gồm hoạt động của các chủ thể ở cấp độ quốc tế và các hoạt
nghĩa về địa chính trị là cuộc đấu tranh giành quỵền kiểm soát các thực thê địa lý trên phạm vi toàn cầu, và việc sử dụng các thực thề địa lý đó cho mục tiều chính trị. Tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề như: cách thức các quốc gia tương tác với nhau; cách các quốc gia hình thành từ chủ nghĩa dân tộc; các vấn đề chính trị trong xác lập và mở rộng ranh giới quốc gia; hay cơ sở để các chủ thể đưa ra một quyết định địa chính trị.
Theo Dalby và Tuathail (2002), các công cụ địa chính trị gồm ba nhóm chính, đó là địa chính trị chính quy, địa chính trị thực hành và địa chính trị quần chúng. Địa chính trị chính quy là tập hợp các lý thuyết về địa chính trị, được đưa ra bởi các nhà chiến lược gia và các nhà khoa học, nhằm giúp định vị quốc gia trên thế giới và là cơ sở để xác lập các mục tiêu địa chính trị. Địa chính trị thực hành là các chính trị gia, bộ máy chính quyền, cùng hệ thống các chính sách, đường lối đối ngoại của quốc gia. Bộ máy này đại diện cho quốc gia để thực hiện những mục tiêu, chiến lược đã đề ra. Địa chính trị quần chúng là yếu tố địa chính trị hòa lẫn trong văn hóa quần chúng, từ báo đài, truyền hình, phim ảnh, cho tới truyền thống đạo đức, giá trị văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, địa chính trị quần chúng không chỉ bó hẹp trong phạm vi mỗi quốc gia, mà nó có thể mang tính toàn cầu. Như vậy, các công cụ địa chính trị có thể biểu hiện ở cấp độ vĩ mô như chính sách, đường lối của quốc gia; ở cấp độ vi mô thông qua các phương tiện đại chúng, truyền hình; bằng công cụ trực quan mang tính biểu trưng như lá cờ, tấm bản đồ; hoặc bằng diễn ngôn thông qua các bài diễn thuyết, tranh luận về các vấn đề chính trị. Đây chủ yếu đều là các công cụ chính trị hoặc quân sự nhằm thực hiện mục tiêu địa chính trị của một quốc gia. Kết quả thực hành công cụ địa chính trị thường dẫn đến các cuộc xung đột về chính trị, xã hội, tôn giáo, văn hóa, sắc tộc, kinh tế hoặc hệ tư tưởng [3],
SỐ 43 (3-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢNLÝ I 85
KINH TÊ QUỐC TÊ
Địa kinh tế là lý thuyết ra đời muộn hơn, trong bối cảnh thế giới đã có những thay đổi nhất định, đặc biệt là sự gia tăng các mối liên kết kinh tế giữa các nước sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Những thay đổi này đòi hỏi một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu về tương quan quyền lực giữa các quốc gia. Luttwak (1990) là người đầu tiên đưa ra lý thuyết địa kinh tế, tức là việc các nhóm lợi ích kinh tế
thông qua các nhà nước để thực hiện các hoạt động trên phạm vi quốc tế nhằm đạt được những lợi ích kinh tế nhất định. Theo ông, bối cảnh của thế giới sau chiến tranh lạnh đã khiến cho sức mạnh kinh tế trở thành một yếu tố quyết định đến sức mạnh của một quốc gia. Dưới góc nhìn của Luttwak (1990), kinh tế không chỉ là công cụ mà còn là mục tiêu của cạnh tranh quyền lực. Kinh tế không chỉ là cách thức để chiếm lấy quyền lực, mà bản thân nó là cơ sở của quyền lực, khi có kinh tế thì sẽ có quyền lực. Blackwill và Harris (2016) định nghĩa về địa kinh tế là việc sử dụng các công cụ kinh tế để thúc đẩy và bảo vệ lợi ích quốc gia, tạo nên những lợi ích địa chính trị;
và những tác động từ các hoạt động kinh tế của các nước khác tới những mục tiêu địa chính trị của một quốc gia. Theo nghĩa này thì địa kinh tế vừa là một góc nhìn phân tích, vừa là nghệ thuật quản trị quốc gia.
Blackwill và Harris (2016) đã chỉ ra một số nhóm công cụ địa kinh tế chủ yếu gồm: thương mại, đầu tư, biện pháp trừng phạt, biện pháp hỗ trợ và chính sách kinh tế vĩ mô. Thứ nhất, thương mại quốc tế là một công cụ kinh tế lâu đời được sử dụng phổ biến giữa các nước trong lịch sử để tạo sức ép lên các quốc gia.
Thông qua việc ký kết các thỏa thuận thương mại, hoặc thực hiện các biện pháp bảo hộ hay cấm vận thương mại, một quốc gia có thể tạo ra ảnh hưởng lớn đến nước khác. Thứ hai, đầu tư quốc tế có thể giúp các quốc gia thực hiện các mục tiêu chiến lược của mình như xác lập quan hệ đồng minh, tiếp cận nguồn tài nguyên hoặc lôi kéo các nước trung lập. Thứ ba, biện pháp trừng phạt kinh tế được sử dụng tương tự như công cụ thương mại và đầu tư
nhưng với cường độ thấp hơn. Hiệu quả của biện pháp trừng phạt kinh tế phụ thuộc nhiều vào quy mô nền kinh tế của nước trừng phạt và vai trò nước bị trừng phạt trong thị trường toàn cầu, nên công cụ này thường được sử dụng chủ yếu bởi các nền kinh tế lớn hoặc bởi một liên minh quốc gia. Thứ tư, biện pháp hỗ trợ kinh tế thường được sử dụng để mua chuộc sự ủng hộ của các quốc gia. Những hỗ trợ này có thể dưới các hình thức viện trợ phát triển, viện trợ nhân đạo hoặc hỗ trợ quân sự.
Cuối cùng, các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng được sử dụng để mở rộng tầm ảnh hưởng của quốc gia. Hiệu quả của công cụ này phụ thuộc vào tính phổ biến của đồng tiền của quốc gia đó, khả năng huy động tài chính và khả năng ngăn cản nước khác huy động tài chính.
3. Công cụ địa chính trị của Nga trong quan hệ vói các nướcphương Tây
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược của mình, Nga đã sử dụng các công cụ địa chính trị truyền thống là sức mạnh quằn sự và vị thế chính trị của một siêu cường trong quá khứ.
Dù Liên Xô đã tan rã và sức mạnh của Nga đã sụt giảm đáng kể so với vị thế trong quá khứ, nhưng sức mạnh quân sự và vai trò trong thể chế chính trị quốc tế của nước này vẫn còn đó. Xét về sức mạnh quân sự, ước tính hiện nay Nga vẫn đang sở hữu 6.255 đầu đạn tên lửa hạt nhân, chiếm khoảng 47% tổng số vũ khí hạt nhân trên thế giới. Trong năm 2020, Nga đã chi 61,7 tỷ USD cho quân sự, xếp thứ tư thế giới. Tỷ trọng của Nga trong tổng giá trị xuất khẩu vũ khí thế giới là 26% trong giai đoạn 2011 đến 2015 và 20% trong giai đoạn 2016 đến 2020 (SIPRI, 2021). Sức mạnh này đã giúp cho Nga duy trì được sự hiện diện quân sự của mình ở các điểm nóng trên thế giới trong những năm qua và có khả năng thay đổi cục diện b ig sự can thiệp của mình.
Nga cũng chứng tỏ mình không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự để đạt đưẹ . mục tiêu ngăn chặn sự mở rộng của NATO sang phía Đông. Minh chứng cho điều này là việc
86 I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀQUẢN LÝ I SỐ 43 (3-2022)
quân sự Nga đã thâm nhập vào các khu vực phía đông của Donetsk và Lugansk, cung cấp hỗ trợ quân sự cho các phiến quân trong khu vực. Chính phủ Ukraine cũng đáp trả bằng những động thái cứng rắn qua các cuộc tấn công quân sự, làm khơi mào cuộc chiến tại vùng biên giới hai nuớc. Dù sau đó, Ukraine nhận đuợc những tài trợ về quân sự từ phía Mỹ, nhung điều này cũng không ngăn đuợc Nga sáp nhập vùng bán đảo Crimea và ủng hộ các vùng ly khai Donetsk và Lugansk (Munoz, 2017). Căng thẳng với Ukraine từ đó đến nay vẫn chưa hạ nhiệt, và thậm chí còn bị đẩy lên cao hơn vào đầu năm 2022.
Ngày 24/02/2022, Tổng thống Nga VPutin đã phát động một "chiến dịch quân sự đặc biệt"
nhằm "phi quân sự hóa và phi phát xít hóa"
Ukraine. Chiến dịch này của Nga bị các nước phương Tầy coi là hành động xâm lược và đáp trả bằng những lệnh trừng phạt kinh tế nặng nề lên Nga. Tính đến đầu tháng 03/2022, các nước phương Tây đã áp đặt thêm 2.778 lệnh trừng phạt mới, nâng tổng số lệnh trừng phạt đối với Nga lên 5.530, đưa nước này trở thành quốc gia bị trừng phạt nhiều nhất thế giới (các nước tiếp theo gồm Iran, Syria, Bắc Triều Tiên, Venezuela, Myanmar và Cuba) [3],
Nga còn sử dụng sức mạnh quân sự để tăng cường tầm ảnh hưởng của mình ở khu vực Trung Đông. Dù đứng ngoài cuộc chiến tại Iraq trong giai đoạn 2003 đến 2011, nhưng Nga đã tham chiến khi xung đột lan sang Syria vào năm 2015. Khi tham chiến tại Syria, Nga đã cho thấy vai trò quan trọng của mình trong cuộc chiến chống nhà nước khủng bo IS. Theo nhận định của một số chuyên gia, dù tham chiến khá muộn tại khu vực Trung Đông, nhưng chính Nga, chứ không phải Mỹ, mới là nhân tố chính ở khu vực này (Russell, 2018). Với việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan vào năm 2021, vị thế của Nga tại Trung Đông sẽ càng được củng cố thêm.
Các công cụ chính trị cũng được Nga sử dụng trong quan hệ với các nước phương Tầy,
khác nhau (Wlgell & Vihma, 2016). Nga đã thể hiện rõ lập trường ủng hộ các đảng phái và phong trào chống EU ở châu Âu. Nga đã cho đảng Mặt trận Quốc gia Pháp (FN) vay 9,4 triệu Euro thông qua một ngân hàng có chi nhánh ở Moscow [4], Đây là một đảng theo chủ nghĩa dân tộc cánh hữu, có tư tưởng ly khai khỏi EU, do bà Marine Le Pen lãnh đạo.
Nga cũng được cho là có những ủng hộ nhất định đối với đảng Jobbik của Hungary hay đảng Syriza của Hy Lạp, đều là những đảng phái có tư tưởng chống EU. Theo khảo sát của ủy ban ngoại giao châu Âu (ECFR), trong số 28 quốc gia EU, chỉ có 1 nước cho rằng Nga không có động thái can thiệp vào tình hình chính trị châu Âu, 8 nước cho rằng sự can thiệp của Nga bị thổi phồng, 12 nước cho rằng các hành vi can thiệp của Nga có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây và 7 quốc gia (Anh, Hà Lan, Ba Lan, Romania, Lithuania, Latvia và Estonia) khẳng định việc Nga cố gắng chia rẽ chính trị châu Âu đã diễn ra một cách thường xuyên.
4. Công cụ địa kinh tế của Nga trong quan hệ với các nước phương Tây
Ngoài việc sử dụng các công cụ địa chính trị truyền thống, Nga tích cực sử dụng các công cụ địa kinh tế để thực hiện các mục tiêu chiến lược của mình trong bối cảnh mới.
Thứ nhất, Nga đã sử dụng thế mạnh về trữ lượng tài nguyên thiên nhiên dồi dào để duy trì vị thế nhà cung cấp dầu mỏ và khí đốt hàng đầu cho châu Âu và thế giới. Nga có trữ lượng tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, ước tính trị giá 75 nghìn tỷ USD, từ các nguồn quặng sắt, dầu mỏ, khí đốt, các kim loại và đá quý [5], Với vị thế này, Nga cung cấp tới 40%
khí đốt cho Ý, 55% cho Đan Mạch, 62% cho Đức và Hungary, 64% cho Ba Lan và 84% cho Slovakia. Nga cũng nỗ lực để duy trì vị thế của mình bằng cách tiến hành xây dựng thêm các đường ống dẫn dầu tăng lượng cung ứng cho các nước châu Âu. Từ năm 2020, Nga đã vận
SỐ 43 (3-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢNLÝ I 87
KINH TÊ QUỐC TÊ
tuyến đường ống "Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ" để cưng cấp nhiên liệu cho Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước Đông Nam Âu. Bulgaria là nước Đông Âu đầu tiên bắt đầu nhận khí đốt của Nga thông qua tuyến này giúp tiết kiệm khoảng 46 triệu USD [6].
Vị thế này giúp Nga sử dụng chiến lược ngoại giao năng lượng một cách linh hoạt để ngăn cản sự đồng thuận của các nước phương Tây. Việc một số nước phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung năng lượng từ Nga đã khiến cho EU khó đưa ra những tuyên bố cứng rắn với Nga trong một số tình huống. Công cụ giá cả năng lượng cũng được Nga sử dụng để phục vụ cho lợi ích chiến lược của mình.
Đơn cử, giá cho 1000 m3 khí đốt trong năm 2013 mà Nga bán cho Hungary là 391 USD, Ba Lan là 525,5 USD, Romania là 431 USD và Đức là 379,3 USD (Vihma & Turksen, 2015) Rõ ràng, chi phí vận chuyển và khoảng cách không thể giải thích được sự chênh lệch giá này, khi mà những nước gần hơn như Ba Lan và Romania lại chịu mức giá cao hơn Đức và Hungary. Việc thỏa thuận giá bán của Nga một mặt dựa vào mức độ phụ thuộc và khả năng tìm nguồn năng lượng thay thế của các quốc gia nhập khẩu, mặt khác, nó ẩn chứa cả các yếu tố lợi ích địa chiến lược trong đó.
Giá khí đốt có thể trở thành một chính sách ngoại giao năng lượng theo kiểu cây gậy và củ cà rốt. Đối với những quốc gia Nga coi là đối tác chiến lược sẽ được hưởng mức giá ưu đãi, và áp mức giá cao với những nước có thiên hướng chống lại những lợi ích của nước Nga.
Trong một số trường hợp, Nga thậm chí còn sử dụng đến biện pháp mạnh hơn, đó là ngừng cung cấp khí đốt cho các nước châu Âu. Cụ thể là trường hợp cắt nguồn cung ứng khí đốt cho Cộng hòa Séc vì nước này ký kết hiệp định phòng thủ tên lửa chung với Mỹ, hay sự kiện cắt nguồn cung ứng khí đốt cho các nước Tây Âu từ tranh cãi về thuế, phí vói Ukraine vào các năm 2006, 2009 và 2014 [7]. Trong xung đột hiện nay với Ukraine, Nga cũng đe dọa sẽ đáp trả bằng lệnh cấm xuất khẩu dầu và khí đốt tới các nước phương Tầy nếu bị dồn vào đường
cùng. Trong khi Mỹ đã áp đặt lệnh cấm nhập khẩu dầu và khí đốt từ Nga, thì các nước EU sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm nguồn cung ứng thay thế. Các nước EU đã đề ra mục tiêu đến năm 2030 sẽ thoát khỏi sự phụ thuộc vào Nga, nhưng trước mắt, các nước này vẫn sẽ phải mua năng lượng từ Nga [8],
Thứ hai, Nga cũng tích cực sử dụng các công cụ thương mại để gia tăng tầm ảnh hưởng của mình. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập trên thế giới, Nga đã thúc đẩy việc gia nhập các tổ chức quốc tế như APEC (năm 1998) và WT0 (năm 2012). Ngoài ra, Nga cũng là thành viên sáng lập ra Liên minh Kinh tế Á - Âư (EAEU) vào năm 2015. Tham vọng của Nga là thông qua EAEU để hình thành nên một thị trường chung duy nhất trên lục địa Á - Âu, cho phép tự do di chuyển của hàng hóa, vốn, dịch vụ và lao động. Đây là một nỗ lực của Nga trong việc sử dụng tiềm lực kinh tế để củng cố khu vực ảnh hưởng của mình, tiến tới xây dựng một liên minh kinh tế làm đối trọng với EU và Trung Quốc ở khu vực lân cận (Tsarik &
Sivitsky, 2015).
Các công cụ thương mại còn được Nga sử dụng để gây sức ép hoặc trừng phạt các nước đối đầu với mình. Trong xung đột với Ukraine, Nga đã sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế như một vũ khí để đạt mục đích. Khi căng thẳng giữa hai nước leo thang, Nga đã áp đặt các lệnh trừng phạt thương mại và hạn chế cung ứng khí đốt cho Ukraine. Uớc tính, các biện pháp này đã lầm QDP của Ukraine giảm 15% trong giai đoạn 2013-2015 [9], Hiện nay, khi bị các nước phương Tầy áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế, Nga đã đáp trả bằng lệnh cấm xuất khẩu đối với hơn 200 sản phẩm của mình cho tới hết năm 2022. Các sản phẩm trong lệnh cấm xuất khẩu bao gồm thiết bị điện, viễn thông, y tế, xe cộ, nông sản cùng một số sản phẩm lâm nghiệp. Lệnh cấm có hiệu lực với cả hàng hóa do các công ty nước ngoài hoạt động tại Nga sản xuất. Tài sản thuộc sở hữu của các công ty phương Tầy đã rút khỏi Nga có thể sẽ bị Nga quốc hữu hóa. Là một cường quốc sản xuất phân bón trên thế
88 I TẠPCHÍ KINH TẾVÀQUẢN LÝ I SỐ 43 (3-2022)
đơn hàng của mình được phép giao dịch [10].
5. Kết luận
Các phân tích trên cho thấy có thể Nga đang sử dụng một mô hình mang đầy tính thực dụng trong quan hệ với các nước phương Tầy, trong đó có sự kết hợp linh hoạt giữa các công cụ địa chính trị và công cụ địa kinh tế.
Theo Isakova (2005), mô hình ấy được đặc trưng bởi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, trên cơ sở kết hợp hiệu quả những tài nguyên địa chính trị thừa hưởng từ thời Liên xô cũ, những ưu thế về địa kinh tế và tính thực dụng trong quan hệ đối ngoại. Tsarik và Sivitsky (2015) cũng đồng tình với quan điểm về một chiến lược mang đầy tính thực dụng của Nga, hướng đến mục tiêu là xác lập vị thế "thống trị khu vực" trên cơ sở gia tăng "vùng ảnh hưởng" với các quốc gia thuộc Liên xô cũ.
Bằng sự thực dụng của mình, Nga đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong quan hệ với các nước phương Tây, từ thế bị động cuối thế kỷ XX sang thế chủ động trong những năm gần đây. Neu như trong những năm 1990, Nga chủ yếu cố gắng hạn chế tối đa sự mất mát về lãnh thổ và con người từ sự tan lã của Liên Xô, thì sang đầu thế kỷ XXI, Nga đã có những động thái để giành lại tầm ảnh hưởng ở những khu vực đã mất. Thông qua các công cụ địa kinh tế linh hoạt, như chiến lược ngoại giao năng
hoặc đáp trả các lệnh trừng phạt của các nước phương lay. Nhưng Nga cũng cho thấy sự cứng rắn khi luôn tìm cách gây chia rẽ trong nội bộ các nước phương lay hoặc ngăn chặn sự mở rộng của NATO về phía Đông.
Khác với sự linh hoạt trong thời gian qua, chiến dịch quân sự của Nga tại Ukraine mang đậm tính chất một hành động địa chính trị.
Bằng việc sử dụng các công cụ chính trị và quân sự, Nga kỳ vọng sẽ tái lập được "vùng ảnh hưởng" của mình đối với Ukraine, hoặc ít nhất là đối với một phần của lãnh thổ này. Tuy nhiên, cái giá về mặt kinh tế phải trả cho hành động này có thể sẽ rất lớn. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà kinh tế là một trong những cơ sở của sức mạnh quốc gia, thì điều này có thể làm tổn hại đến vị thế của Nga trong dài hạn. Hơn nữa, những hành động quân sự của Nga tại Ukraine cũng khiến các nước phương lầy trở nên đoàn kết hơn, đi ngược lại với những mong muốn gây chia rẽ khối này của Nga. Hành động của Nga cũng cho thấy, dù thế giới đã bước vào kỷ nguyên hậu Chiến tranh lạnh, với xu thế hòa bình trong một thế giới đa cực, nhưng các nước lớn vẫn luôn tiềm ẩn những động thái khó lường vì lợi ích chiến lược của mình. Thực tế cho thấy, dù các công cụ địa kinh tế được Nga ưu tiên sử dụng, nhưng nước này cũng không ngần ngại sử dụng các công cụ địa chính trị để đạt được mục tiêu.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
[1] Becky Sullivan: "Explaining NATO and Ukraine:
How a 30-year-old debate still drives Putin today", Na
tional Public Radio, 29/01/2022.
[2] Mauricio Diagama Duran: "Geopolitical tools, concepts and ideas". World Geostrategic Insights, 31/07/2020.
[3] Nick Wadhams: "Russia Is Now the World's Most-Sanctioned Nation", Bloomberg, 08/03/2022.
[4] Max Seddon, Michael Stothard: "Putin awaits return on Le Pen investment", Financial Times, 04/05/2017.
[5] Geoffrey Migiro: "Countries With The Most Natural Resources ", World Atlas, 29/08/2018.
[6] Thanh Bình, 02/01/2020, "Bulgaria bắt đầu nhận khí đốt từ Dòng chảy Thổ Nhĩ Kỳ", Infonet.
[7] Nell MacFarquhar: Gazprom Cuts Russia's Nat
ural Gas Supply to Ukraine, The New York Times, 16/06/2014.
[8] Paola Tamma, America Hernandez: "The first big crack in Western unity against Putin: Oil sanctions", Po
litico, 08/03/2022.
[9] The Economist: The other war - Ukraine's conflict with Russia is also Financial, 21/01/2017.
[10] Theo Leggett: Russia hits back at Western sanc
tions with export bans, BBC, 10/03/2022.
SỐ 43 (3-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀQUẢN LÝ I 89