Khảo sát chất lượng giấc ngủ sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế
Lương Thị Thu Thắm1, Lê Đình Dương1, Châu Nguyên Đan1, Nguyễn Ngô Bảo Khuyên1, Phạm Thị Thu Hà1, Hồ Uyên Phương1, Nghiêm Quang Lam1, Đặng Thị Thanh Nhã1, Trần
Thị Mỹ Huyền1, Hà Minh Phương1, Đinh Thị Liễu1, Hoàng Châu Trọng Nhân2, Nguyễn Văn Tiến3, Trần Bình Thắng1, Nguyễn Thị Thanh Nhàn1, Nguyễn Thanh Gia1, Trần
Phương Thảo1 TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn giấc ngủ nếu không được điều trị có thể dẫn đến các bệnh khác có liên quan đến rối loạn nhận thức thần kinh như mất khả năng chú ý, suy giảm hiệu suất nhận thức, trầm cảm, lo lắng và khó kiểm soát cảm xúc. Nghiên cứu nhằm mô tả chất lượng giấc ngủ và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ ở sinh viên năm thứ nhất
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 601 sinh viên năm nhất của Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế từ tháng 01/2022 đến tháng 12/2022. Số liệu được thu thập dựa trên bộ câu hỏi được chuẩn bị. Phân tích hồi quy logistic đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ.
Kết quả: Có 45,9% sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt. Một số yếu tố có liên quan đến chất lượng giấc ngủ bao gồm giới tính, sống với họ hàng, nghiện Internet, suy nghĩ tự tử, hoạt động thể lực và BMI
Kết luận: Tỷ lệ sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt khá cao. Vì vậy, chúng tôi khuyến khích sinh viên kiểm soát việc sử dụng Internet, tăng cường các hoạt động thể lực và suy nghĩ tích cực để cải thiện chất lượng giấc ngủ cho sinh viên.
Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, Sinh viên, Hoạt động thể lực, Nghiện Internet.
Sleep quality of first year students at Hue University of Medicine and Pharmacy
Tham Luong Thi Thu1, Duong Le Dinh1, Dan Chau Nguyen1, Khuyen Nguyen Ngo Bao1, Ha Pham Thi Thu1, Phuong Ho Uyen1, Lam Nghiem Quang1, Nha Dang Thi Thanh1, Huyen Tran Thi My1, Phuong Ha Minh1, Lieu Dinh Thi1, Nhan Hoang Chau Trong2, Tien
Nguyen Van3, Thang Tran Binh1, Nhan Nguyen Thi Thanh1, Gia Nguyen Thanh1, Thao Tran Phuong1
ABSTRACT
Background: Untreated Sleep disorders contribute to neurocognitive dysfunctions, including attention deficits, impaired cognitive performance, depression, anxiety, and poor impulse control.
This study aims to describe sleep quality and explore factors related to sleep quality among the freshmen students of the University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Methods: We constructed a cross-sectional study on 601 first-year students of the University of Medicine and Pharmacy, Hue University, from January to December 2022. Data were collected based on a pre-designed questionnaire. Multiple logistic regression analysis was used to identify factors affecting students' sleep quality.
Results: 45.9% of freshmen students had poor sleep quality. Some factors related to sleep quality include gender, living with relatives, Internet addiction, suicidal thoughts; physical activity and BMI index.
Conclusion: There is a high percentage of freshmen students experiencing poor sleep quality.
Therefore, we highly recommend students to control their Internet use, increase physical activity, and think positively to improve their sleep quality
Keywords: Sleep quality, Students, Physical activity, Internet addiction Tác giả:
1 Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế 2 Bệnh Viện Đại học Y dược Huế
3 Trường đại học Y - Dược Thái Bình
Tác giả liên hệ chính: [email protected] Ngày nhận bài: 08/06/2023
Ngày gửi phản biện: 19/06/2023 Ngày duyệt bài: 15/09/2023 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giấc ngủ là một trong những nhu cầu sinh lý cơ bản của cơ thể, trung bình mỗi người sẽ mất tổng cộng 27 năm cho giấc ngủ.1 Việc ngủ và ngủ đủ giấc là điều cần thiết cho một cơ thể khỏe mạnh, giúp cơ thể tăng trưởng và hồi phục thể lực sau một ngày dài làm việc. Ngủ ít hơn 5 giờ hoặc nhiều hơn 10 giờ đều có nguy cơ tử vong cao hơn so với những người bình thường ngủ đủ giấc.2 Tuy nhiên, theo các nghiên cứu dịch tễ
học thì tình trạng rối loạn giấc ngủ xảy ra thường xuyên ở hầu hết các quốc gia.3
Rối loạn giấc ngủ bao gồm các biểu hiện như:
mất ngủ, buồn ngủ nhiều, ngưng thở khi ngủ và nhiều chứng rối loạn giấc ngủ khác.1 Rối loạn giấc ngủ có thể dẫn đến các bệnh có liên quan đến rối loạn nhận thức thần kinh như mất khả năng chú ý, suy giảm hiệu suất nhận thức, trầm cảm, lo lắng và khó kiểm soát cảm xúc. Những rối loạn này còn có thể làm tăng nguy cơ mắc
các bệnh tim mạch và mạch máu não.3 Ngoài ra, giấc ngủ có vai trò trong việc điều chỉnh cảm xúc, do đó rối loạn giấc ngủ có thể gây ra những hậu quả trực tiếp đến hoạt động cảm xúc vào ngày hôm sau.4
Chất lượng giấc ngủ giảm sút không chỉ ảnh hưởng đến người cao tuổi, những người có bệnh lý trong cơ thể mà còn ảnh hưởng đến nhiều lứa tuổi khác nhau, đặc biệt là sinh viên. Trong đó,sinh viên khối ngành sức khỏe có chất lượng giấc ngủ không tốt chiếm tỷ lệ khá cao. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ có chất lượng giấc ngủ kém ở sinh viên y khoa dao động từ 64,24% lên tới 75,8%.5,6 Khảo sát chất lượng giấc ngủ và ứng dụng chu kì giấc ngủ đối với sinh viên y khoa Trường Đại học Duy Tân của Đỗ Thế Bon và cộng sự cho thấy giờ ngủ trung bình của sinh viên là 6,62 giờ. Tỷ lệ sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt dao động từ 39,6% - 59,1%.7,8
Sinh viên năm thứ nhất là nhóm đối tượng dễ tổn thương do sự thay đổi về môi trường học tập, sinh hoạt, phương pháp học tập cũng như những áp lực học tập trong môi trường đào tạo nghề nghiệp. Chính vì vậy, việc khảo sát chất lượng giấc ngủ sẽ đóng vai trò quan trọng góp phần cân bằng và duy trì chất lượng giấc ngủ cũng như nâng cao chất lượng học tập của sinh viên. Từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát chất lượng giấc ngủ ở sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế” với mục tiêu:
1. Mô tả chất lượng giấc ngủ của sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chất
lượng giấc ngủ ở đối tượng nghiên cứu.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chí lựa chọn: Sinh viên năm nhất hệ chính quy và đang học tập tại Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế.
Tiêu chuẩn loại trừ: Sinh viên không hợp tác, không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế.
2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Cỡ mẫu: Được tính theo công thức:
Trong đó:
n: là số lượng mẫu nghiên cứu, Z(1-α/2) = 1,96 với độ tin cậy 95%, d = 0,05,
p: tỷ lệ sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt với p=0,4458.
Hệ số thiết kế nghiên cứu (DE) = 1,5 để tăng độ tin cậy.
Như vậy cỡ mẫu trong nghiên cứu này n=569.
Trên thực tế, có 601 đối tượng tham gia nghiên cứu.
Phương pháp chọn mẫu:
Sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng để mô tả chất lượng giấc ngủ của sinh viên. Lập
danh sách 10 ngành học tại trường, hệ chính quy bao gồm: Y khoa, Răng Hàm Mặt, Y học cổ truyền, Y học dự phòng, Dược, Kỹ thuật Hình ảnh y học, Kỹ thuật Xét nghiệm y học, Điều dưỡng, Hộ sinh, Y tế công cộng. Sau đó lập danh sách các lớp năm 1, chọn ngẫu nhiên 10 lớp của 10 ngành. Đối với mỗi lớp, tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên đơn để chọn ra đủ số mẫu cần thiết.
2.5. Phương pháp thu thập số liệu
Thông tin được thu thập bằng bộ câu hỏi tự điền.
Bộ câu hỏi gồm 3 phần:
Phần A: Thông tin chung về: tuổi, giới, ngành học, lý do lựa chọn ngành học, tình trạng kinh tế, việc làm thêm, BMI, tần suất sử dụng Internet, ý định tự tử,…
Đánh giá mức độ nghiện Internet bằng bộ câu hỏi rút gọn (s-IAT) đã được hiệu chỉnh tại Việt Nam do Trần Xuân Bách và cộng sự.9
Phần B: Chất lượng giấc ngủ gồm 11 câu hỏi được đánh giá trong vòng 1 tháng qua theo thang đo PSQI, bao gồm 7 phần và 19 mục, mỗi mục có phạm vi từ 0 đến 3 điểm, điểm tổng dao động từ 0 - 21. Tổng điểm càng cao, chất lượng giấc ngủ càng kém. PSQI có hệ số tương quan là 0,85 (p < 0,001) và hệ số độ tin cậy (Cronbach’s alpha) là 0,83; khi phân biệt giữa người ngủ kém và người ngủ tốt, PSQI trên 5 điểm được chứng minh có độ nhạy 89,6% và độ đặc hiệu 86,5%.10 Do đó, chất lượng giấc ngủ được phân loại:
+ Mức tốt: từ 0 đến 5
+ Mức không tốt: từ 6 đến 21
Phần C: Hoạt động thể lực gồm 11 câu hỏi đánh giá các tần suất các hoạt động trong tuần.
Hoạt động thể lực (HĐTL) được đo lường bằng Bộ câu hỏi hoạt động thể lực toàn cầu – Global Physical Activity Questionnaire (GPAQ) gồm 4 hoạt động chính: hoạt động trong công việc, hoạt động di chuyển, đi lại, hoạt động thể thao, thể hình, giải trí và thời gian ngồi không bao gồm thời gian dành cho việc ngủ.11,12 Hoạt động thể lực được phân loại:
+ Mức đạt: Tích lũy ít nhất 60 phút hoạt động thể chất với cường độ vừa phải đến cường độ cao hàng ngày hoặc hoạt động cường độ mạnh ít nhất 3 lần mỗi tuần (150 phút/tuần).
+ Mức không đạt: Không đáp ứng tiêu chuẩn trên.
2.6. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu đã thu thập được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1, xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0. Kết quả được mô tả bằng bảng tần suất và tỷ lệ phần trăm. Kiểm định Chi bình phương (χ2) để kiểm định sự khác biệt giữa hai hay nhiều tỷ lệ. Mô hình hồi quy đa biến logistic được sử dụng để phân tích đồng thời mối liên quan của nhiều biến độc lập với chất lượng giấc ngủ.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự thông qua của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu của Trường Đại học Y -Dược, Đại học Huế (2535/QĐ-ĐHYD ngày 05/07/2022). Đối tượng tham gia được giải thích rõ về mục đích, nội dung nghiên cứu. Các thông tin thu thập được giữ bí mật và chỉ được sử dụng phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Nội dung trả lời Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Tuổi 18,79 ± 0,64
Giới tính Nam 169 28,1
Nữ 432 71,9
Ngành học Hệ 6 năm 341 56,7
Hệ 4; 5 năm 260 43,3
Yêu thích ngành học Có 572 95,2
Không 29 4,8
Tình trạng kinh tế Hộ nghèo/cận nghèo 49 8,2
Khác 552 91,8
Đang sống với ai
Sống với gia đình, họ hàng 156 26,0
Ở trọ 1 mình 240 39,9
Ở trọ với bạn bè 205 34,1
Đi làm thêm Không 485 80,7
Có 116 19,3
Tham gia câu lạc bộ Không 291 48,4
Có 310 51,6
BMI
< 18,5 206 34,3
18,5 – 22,99 333 55,4
≥ 23 62 10,3
Nghiện Internet Không nghiện 454 75,5
Nghiện 147 24,5
Chất lượng giấc ngủ Không tốt 276 45,9
Tốt 325 54,1
Hoạt động thể lực Không đạt 404 67,2
Đạt 197 32,8
một mình chiếm tỷ lệ 39,9%. 24,5% sinh viên có nghiện Internet. Tỷ lệ sinh viên có hoạt động thể lực đạt được đánh giá qua bộ câu hỏi GPAQ là 32,8%.
Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình của các đối tượng tham gia nghiên cứu là 18,79 và có 71,9%
là sinh viên nữ. 95,2% sinh viên có yêu thích ngành mình đang học và đa phần sinh viên ở trọ
Bảng 3.2. Các vấn đề liên quan đến tự tử
Đặc điểm Nôi dung trả lời Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Suy nghĩ nghiêm túc về tự tử Có 47 7,8
Không 554 92,2
Lên kế hoạch tự tử Có 23 3,8
Không 578 96,2
Cố gắng tự tử Có 5 0,8
Không 596 99,2
Kết quả cho thấy có 7,8% sinh viên có từng suy nghĩ tới việc tự tử, trong đó có 3,8% sinh viên
có lên kế hoạch tự tử và 0,8% sinh viên đã cố gắng tự tử.
3.2. Tỷ lệ chất lượng giấc ngủ
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ chất lượng giấc ngủ Kết quả cho thấy tổng điểm PSQI trung bình của mẫu là 5,61 (SD=3,02) có 45,9% sinh viên có
chất lượng giấc ngủ không tốt.
3.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ
Kết quả từ mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy các yếu tố liên quan tới chất lượng giấc ngủ bao gồm giới tính, sống với ai, nghiện Internet, suy nghĩ tự tử, hoạt động thể lực, và BMI (p<0,05). Chưa tìm thấy mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ với ngành học, tình trạng kinh tế và tham gia câu lạc bộ (p>0,05). (Bảng 3.3)
Bảng 3.3. Mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ với một số yếu tố
Đặc điểm Nội dung Chất lượng giấc ngủTốt Không tốt ORadj KTC 95% p
Giới Nam 104 (61,5) 65 (38,5) 1 - -
Nữ 221 (51,2) 211 (48,8) 0,44 0,28-0,71 0,001
Ngành học Hệ 4;5 năm 141 (54,2) 119 (45,8) 1 - -
Hệ 6 năm 184 (54,0) 157 (46,0) 0,97 0,68-1,39 0,880
Tình trạng kinh tế Khác 302 (54,7) 250 (45,3) 1 - -
Hộ nghèo/ cận nghèo 23 (46,9) 26 (53,1) 0,78 0,41-1,47 0,441
Tham gia câu lạc bộ Có 164 (52,9) 146 (47,1) 1 - -
Không 161 (55,3) 130 (44,7) 1,00 0,71-1,41 1,000
Sống với ai
Ở trọ với bạn 103 (50,2) 102 (49,8) 1 - 0,016
Ở trọ một mình 122 (50,8) 118 (49,2) 0,99 0,65-1,49 0,950 Sống với họ hàng 100 (64,1) 56 (35,9) 1,80 1,13-2,85 0,013
Nghiện Internet Có 56 (38,1) 91 (61,9) 1 - -
Không 269 (59,3) 185 (40,7) 2,09 1,40-3,11 < 0,001
Ý nghĩ tự tử Có 11 (23,4) 36 (76,6) 1 - -
Không 314 (56,7) 240 (43,3) 3,89 1,89-8,01 < 0,001
Hoạt động thể lực Không đạt 231 (57,2) 173 (42,8) 1 - -
Đạt 94 (47,7) 103 (52,3) 1,84 1,22-2,76 0,004
BMI
18,5 – 22,99 176 (52,9) 157 (47,1) 1 - 0,078
< 18,5 116 (56,3) 90 (43,7) 1,52 1,03-2,24 0,036
≥ 23 33 (53,2) 29 (46,8) 0,88 0,49-1,58 0,673
4. BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng chất lượng giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1 cho thấy tỷ lệ sinh viên y năm nhất có chất lượng giấc ngủ không tốt là 45,9%. So với trên thế giới, tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ của
nghiên cứu trên sinh viên đại học tại Ấn Độ là 51%.13 Tại Việt Nam, tỷ lệ này tương đồng với tỷ lệ của nghiên cứu tại Đại học Y Dược Hải Phòng (44,5%);8 nghiên cứu của Đỗ Thế Bon khảo sát trên sinh viên y khoa Đại học Y Duy Tân (39,6%)7 nhưng lại cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Hoàng Nguyễn Nhật Linh trên đối tượng là thanh niên từ 16-30 tuổi (31,1%).14 Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên đối tượng là sinh viên Y khoa năm nhất, đối tượng dễ bị áp lực học tập cũng như có nhiều thay đổi về tâm sinh lý trong giai đoạn chuyển tiếp từ trung học phổ thông lên đại học đã tác động lên chất lượng giấc ngủ so với nhóm đối tượng thanh niên nói chung.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 74,2% sinh viên năm nhất tự đánh giá chất lượng giấc ngủ của bản thân là tương đối tốt hoặc rất tốt trong khi tổng điểm PSQI cho thấy chỉ có 54,1% sinh viên năm nhất có chất lượng giấc ngủ tốt thật sự. Có thể thấy rằng, sinh viên chưa thật sự hiểu và cảm nhận được chất lượng giấc ngủ như thế nào là tốt và như thế nào là chưa tốt. Nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng với nghiên cứu tại trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch cho thấy có 77,5% sinh viên cho rằng giấc ngủ của họ là tốt hoặc khá trong khi chất lượng giấc ngủ tốt thật sự theo thang PSQI chỉ chiếm tỷ lệ 48,4%.15
4.2. Một số yếu tố liên quan tới chất lượng giấc ngủ
Theo kết quả phân tích từ mô hình hồi quy logistic đa biến, bảng 3.3. cho thấy các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ bao gồm giới tính (p=0,001), hoàn cảnh sống, nghiện Internet
(p<0,001), suy nghĩ tự tử (p<0,001), hoạt động thể lực (p=0,004), và BMI (p=0,036).
Giới tính: chất lượng giấc ngủ có liên quan có ý nghĩa với giới tính của sinh viên năm thứ nhất.
So với sinh viên nam thì chất lượng giấc ngủ tốt thấp hơn ở nữ (OR=0,44). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Andreas Hinz tại Đức là nữ giới gặp nhiều vấn đề về rối loạn giấc ngủ hơn nam giới với PSQI trung bình lần lượt là 5,5 và 4,4.16 Điều này có thể vì sinh viên nữ ngủ muộn hơn sinh viên nam,17 thêm vào đó, đa phần sinh viên nam tham gia nhiều vào các hoạt động thể thao hơn là nữ, điều này giúp nam giới có chất lượng giấc ngủ tốt hơn.
Sống với ai: Sinh viên đang sống với gia đình, họ hàng có chất lượng giấc ngủ tốt cao hơn so với nhóm ở trọ với bạn OR=1,80. Kết quả này tương đồng với một nghiên cứu trên 26 quốc gia ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ thì tình trạng sống có liên quan đến tình trạng khó ngủ về đêm của sinh viên.18 Khi bắt đầu vào đại học, cuộc sống sinh viên bắt đầu có thay đổi về lịch trình, hoạt động và thời gian, tiếp xúc nhiều với bạn bè, hướng tới việc sống tự do thoải mái hơn, vì vậy khi bị bó buộc trong không gian sống, hạn chế về các mặt, sự hạn chế này có thể gây ảnh hưởng tới tâm lý không thoải mái dẫn đến chất lượng giấc ngủ không tốt. Ngoài ra, việc trái giờ sinh hoạt cũng gây khó khăn cho sinh viên khi mới bắt đầu sống xa nhà, thêm vào đó là tâm lý nhớ nhà, lo sợ khi tới một nơi khác, tất cả đều có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ sinh viên.
Ý nghĩ tự tử: Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra nhóm sinh viên năm nhất không có suy nghĩ tự tử thì chất lượng giấc ngủ tốt hơn với OR= 3,89 so với nhóm sinh viên có suy nghĩ
về việc này. Nghiên cứu của Stephen P.Barker chỉ ra có mối liên hệ giữa suy nghĩ tự tử và chất lượng giấc ngủ; hai yếu tố này tương tác qua lại với nhau, nhóm người có suy nghĩ tự tử thường có chất lượng giấc ngủ không tốt và nhóm người có chất lượng giấc ngủ không tốt dễ có suy nghĩ tự tử hơn.19
Nghiện Internet: Kết quả chúng tôi cho thấy nhóm sinh viên năm nhất không nghiện Internet thì có chất lượng giấc ngủ tốt hơn với OR= 2,09 so với nhóm sinh viên có nghiện. Một nghiên cứu về nghiện Internet và chất lượng giấc ngủ của sinh viên y trên 7 quốc gia, kết quả cho thấy có 67,6% sinh viên nghiện Internet và 73,5%
sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt, việc nghiện Internet là yếu tố dự báo đáng kể gây ra 13,2% sự khác biệt về chất lượng giấc ngủ không tốt.20
Hoạt động thể lực: Hoạt động thể chất vừa phải sẽ ít gây ra các vấn đề về rối loạn giấc ngủ hơn và có sự tương quan hai chiều giữa chất lượng giấc ngủ và hoạt động thể chất theo thời gian.21 Việc hoạt động thể chất thường xuyên có những tác động có lợi đối với tổng thời gian ngủ và hiệu quả của giấc ngủ, có tác động vừa phải tới chất lượng giấc ngủ và độ trễ khi ngủ.22 Một nghiên cứu của Lang C cũng báo cáo rằng việc hoạt động thể lực có lợi cho cả sức khỏe thể chất và tinh thần, ngoài ra còn giúp phục hồi giấc ngủ.23 Hoạt động thể lực tốt đạt: 32,8% trong tổng số 601 đối tượng tham gia nghiên cứu so sánh với một nghiên cứu trên sinh viên hệ cử nhân dinh dưỡng tại Trường Đại học Y Hà Nội cho thấy có tới 71,9% sinh viên có mức hoạt động thể lực đạt theo khuyến nghị tối thiểu của WHO.13,24 Các mô hình hồi quy logistic đa biến cũng chỉ ra mối liên
quan đáng kể giữa hoạt động thể lực với chất lượng giấc ngủ tốt (OR=1,84; p=0,004), tức là nhóm sinh viên năm nhất có hoạt động thể lực tốt có chất lượng giấc ngủ tốt hơn so với nhóm sinh viên còn lại, kết quả này phù hợp với kết luận của một nghiên cứu tại trường đại học ở Ả Rập Xê Út rằng sinh viên đại học có hoạt động thể lực thường xuyên như tập thể dục thì có chất lượng giấc ngủ tốt hơn.25
Chỉ số khối cơ thể: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm người có BMI <18,5 có chất lượng giấc ngủ tốt hơn nhóm bình thường với OR=1,52. Một trong những lý do có thể gặp là vì người gầy có thể thiếu một số chất dinh dưỡng nên thường thiếu năng lượng và dễ mệt mỏi, điều này đòi hỏi họ ngủ sớm hơn và nhiều hơn để bổ sung thể lực. Kết quả của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của A. Storfer- Isser về mối liên quan giữa thời lượng ngủ và chỉ số BMI trên 313 thanh thiếu niên từ 8–19 tuổi tham gia vào một nghiên cứu thuần tập dọc về giấc ngủ và sức khỏe. Và nghiên cứu đã kết luận rằng có mối liên quan giữa thời lượng ngủ và BMI và nó thay đổi theo giới tính và độ tuổi, với mối liên quan mạnh mẽ hơn ở trẻ em trai và ở tuổi trung niên so với tuổi vị thành niên.26 Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang nên chỉ có giá trị hình thành giả thuyết. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi tự điền nên có thể trong một vài trường hợp chưa phản ánh đầy đủ đặc trưng của đối tượng.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chất lượng giấc ngủ chưa tốt của sinh viên năm nhất khá cao (45,9%). Một số yếu tố liên quan tới chất lượng giấc ngủ bao gồm giới tính, sống với ai, nghiện
Internet, suy nghĩ tự tử, hoạt động thể lực, và BMI (p<0,05). Do đó, chúng tôi khuyến khích sinh viên kiểm soát việc sử dụng Internet, tăng cường các hoạt động thể lực và suy nghĩ tích cực để cải thiện chất lượng giấc ngủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ohayon, M.M., Epidemiological overview of sleep disorders in the general population. Sleep Medicine Research, 2011. 2(1): p. 1-9.
2. Attarian, H.P., Epidemiology of sleep disorders in women. Sleep disorders in women: a guide to practical management, 2013: p. 9-23.
3. Manzar, M.D., et al., Dimensionality of the Pittsburgh Sleep Quality Index: a systematic review. Health and quality of life outcomes, 2018. 16(1): p. 1-22.
4. Altena, E., et al., Dealing with sleep problems during home confinement due to the COVID‐19 outbreak: Practical recommendations from a task force of the European CBT‐I Academy. Journal of sleep research, 2020. 29(4): p. e13052.
5. Maheshwari G, Shaukat F. Impact of Poor Sleep Quality on the Academic Performance of Medical Students. Cureus. 2019; 11 (4), e4357.
6. Džaferović A, Ulen K. Sleep habits among medical students and correlation between sleep quality and academic performance. European Journal of Public Health. 2018; 28 (4), cky214.141.
7. Bon, Đ.T., N.T. Đan, and V.T.H. Hoa, Khảo sát chất lượng giấc ngủ và ứng dụng chu kỳ giấc ngủ đối với sinh viên y khoa Trường Đại học Duy Tân. Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology, 2021(47): p. 141-149.
8. Thuận, H.T., et al., Thực trạng chất lượng giấc ngủ của sinh viên Y đa khoa trường Đại học Y Dược Hải Phòng năm 2020. Tạp chí Y học Dự phòng, 2021. 31(1): p. 203-209.
9. Tran, B.X., et al., A study on the influence of internet addiction and online interpersonal influences on health-related quality of life in young Vietnamese. BMC public health, 2017.
17(1): p. 1-8.
10. Buysse, D.J., et al., The Pittsburgh Sleep Quality Index: a new instrument for psychiatric practice and research. Psychiatry research, 1989.
28(2): p. 193-213.
11. WHO, Global Recommendations on Physical Activity for Health. 2010. https://www.who.int/
publications/i/item/9789241599979
12. WHO, GPAQ: Global Physical Activity Questionnaire(version2.0). 2019. http://www.
who.int/chp/steps/resources/GPAQ_Analysis_
Guide.pdf
13. Ghrouz, A.K., et al., Physical activity and sleep quality in relation to mental health among college students. Sleep and Breathing, 2019. 23:
p. 627-634.
14. Linh, H.N.N., Nghiên cứu tình hình chất lượng giấc ngủ của thanh niên tại Thành phố Đà Nẵng. Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y – Dược Huế, 2017.
15. Trần, Đ.S., Chất lượng giấc ngủ và thói quen sinh hoạt của sinh viên Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch. Tạp chí Y học Việt Nam, 2021. 509(2).
16. Hinz, A., et al., Sleep quality in the general population: psychometric properties of the Pittsburgh Sleep Quality Index, derived from
a German community sample of 9284 people.
Sleep medicine, 2017. 30: p. 57-63.
17. Ohayon, M.M., C.F. Reynolds III, and Y.
Dauvilliers, Excessive sleep duration and quality of life. Annals of neurology, 2013. 73(6): p. 785- 794.
18. Peltzer, K. and S. Pengpid, Nocturnal sleep problems among university students from 26 countries. Sleep and Breathing, 2015. 19: p.
499-508.
19. Becker, S.P., et al., Sleep problems and suicidal behaviors in college students. Journal of psychiatric research, 2018. 99: p. 122-128.
20. Tahir, M.J., et al., Internet addiction and sleep quality among medical students during the COVID-19 pandemic: A multinational cross- sectional survey. PloS one, 2021. 16(11): p.
e0259594.
21. Semplonius, T. and T. Willoughby, Long- term links between physical activity and sleep quality. Med. Sci. Sports Exerc, 2018. 50: p.
2418-2424.
22. Kredlow, M.A., et al., The effects of physical activity on sleep: a meta-analytic review. Journal of behavioral medicine, 2015. 38: p. 427-449.
23. Lang, C., et al., Increased self-reported and objectively assessed physical activity predict sleep quality among adolescents. Physiology &
behavior, 2013. 120: p. 46-53.
24. Đăng, T.T.H., Hoạt động thể lực của sinh viên hệ cử nhân dinh dưỡng Đại học Y Hà Nội/
Đăng Thị Thu Hằng. 2018.
25. Mahfouz, M.S., et al., Association between sleep quality and physical activity in Saudi Arabian University students. Nature and Science
of Sleep, 2020: p. 775-782.
26. Storfer‐Isser, A., et al., Relation between sleep duration and BMI varies by age and sex in youth age 8–19. Pediatric obesity, 2012. 7(1):
p. 53-64.