KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ GIAI ĐOẠN III, IV THEO BỘ CÔNG CỤ EORTC QLQ-C30
TẠI KHOA UNG BƯỚU BỆNH VIỆN ĐÀ NẴNG
Võ Lê Uyên1, Trần Thụy Diệu Thùy1, Lê Quốc Tuấn1 TÓM TẮT78
Mục tiêu: Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư giai đoạn III, IV theo bộ công cụ EORTC QLQ-C30 tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 100 bệnh nhân ung thư giai đoạn III, IV đang điều trị tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng từ 3/2021 - 6/2021.
Kết quả: Độ tuổi trung bình là 55,7 ± 11, tỷ lệ nam/nữ là 57/43. Có đến 75% bệnh nhân sức khỏe còn khá tốt (với chỉ số hoạt động Karnofsky 80 - 100%). Chiếm phần lớn số bệnh nhân là giai đoạn IV (84%). Có 53 bệnh nhân ghi nhận xảy ra tình trạng đau ở các mức độ khác nhau. Điểm chuẩn trung bình chất lượng sống tổng quát là 62,4 ± 20,5. Trong lĩnh vực chức năng, điểm chuẩn trung bình khả năng nhận thức (83,5 ± 16,4), tâm lý (86,2 ± 17), hoạt động thể lực (83,5
± 16,4) cao hơn vai trò – hòa nhập xã hội (77,8 ± 24,2 – 79 ± 24). Về lĩnh vực triệu chứng, điểm chuẩn trung bình của mệt mỏi (59,1 ± 17,8); cảm giác đau (47,3 ± 28,7); mất ngủ (56 ± 30) là cao nhất. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của điểm chuẩn chất lượng sống tổng quát với tình
1Bệnh viện Đà Nẵng
Chịu trách nhiệm chính: Võ Lê Uyên Email: [email protected] Ngày nhận bài: 13/9/2022
Ngày phản biện: 30/9/2022 Ngày chấp nhận đăng: 25/10/2022
trạng đau và nhóm chỉ số hoạt động Karnofsky.
Có liên quan tuyến tính giữa chỉ số Karnofsky và điểm đau với điểm chuẩn CLS với hệ số r lần lượt là 0,462 và - 0,343 có ý nghĩa.
Kết luận: Điểm chuẩn trung bình CLS của bệnh nhân ung thư giai đoạn III, IV tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng là khá tốt với 62,4 ± 20,5. Chỉ số Karnofsky và điểm đau có liên quan tuyến tính đến chất lượng sống của bệnh nhân ung thư lần lượt là thuận và nghịch có ý nghĩa.
Đây là các chỉ số lâm sàng quan trọng có thể lượng giá được nên tiến hành đánh giá thường xuyên từ đó có thể can thiệp điều chỉnh theo hướng tích cực sẽ góp phần nâng cao CLS của bệnh nhân.
Từ khóa: Chất lượng sống, ung thư, EORTC QLQ-C30.
SUMMARY
ASSESSMENT OF QUALITY OF LIFE OF STAGED III, IV CANCER PATIENTS BY EORTC QLQ-C30
TOOLS AT ONCOLOGY DEPARTMENT OF DA NANG
HOSPITAL
Background: Assessment of quality of life of staged III, IV cancer patients by EORTC QLQ-C30 tools at Oncology department of Da Nang Hospital and identifying related factors.
Materials and method: The cross-sectional descriptive study of 100 staged III and IV cancer patients being treated at Oncology department of Da Nang Hospital from 3/2021 to 6/2021.
Results: The average age is 55.7 ± 11, the ratio of male to female is 57/43. Up to 75% of patients are in good status (with Karnofsky index 80 - 100%). The majority are fourth stage (84%).
There are 53 patients who reported pain with various degrees. The average general quality of life score is 62.4 ± 20.5. In functional field, the average score of cognitive (83,5 ± 16,4), psychological (86,2 ± 17), physical activity (83,5
± 16,4) is higher than the social role - social intergration (77,8 ± 24,2 – 79 ± 24). In symptomatic field, the average score of fatigue (59,1 ± 17,8); feeling pain (47,3 ± 28,7);
insomnia (56 ± 30) are top. There are statistically significant differences of the average general quality of life score with pain status and the Karnofsky index group. There is a linear correlation between the Karnofsky index and the pain score with the average general quality of life score with an r coefficient of 0.462 and - 0.343, respectively.
Conclusion: The average general quality of life score of staged III and IV cancer patients at Oncology department of Da Nang hospital is quite good with 62,4 ± 20,5. The Karnofsky index and the pain score having the linearly relation to the general quality of life of cancer patients which are in turn favorable and inversely significant. These are important clinical indicators that can be measured and need to regular assessment to intervene positively so that improving the quality of life of the cancer patient.
Keywords: Quality of life, cancer, EORTC QLQ-C30.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong trên thế giới và cả Việt Nam. Chất lượng sống (CLS) là một thuật ngữ được sử dụng để đánh giá
chung về mức độ tốt đẹp của cuộc sống đối với các cá nhân và trên phạm vi toàn xã hội, bao gồm các lượng giá về mức độ sảng khoái, sự hài lòng hoàn toàn về thể chất, tâm thần và xã hội. Trong đó, sức khỏe là một yếu tố quan trọng. Chính vì sức khỏe là một trong các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến CLS nên khi xét riêng trong y học, Tổ chức Y tế Thế giới đề cập đến khái niệm “Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe”. Nó bao gồm tất cả các khía cạnh về sức khỏe của mỗi cá nhân (thể chất và tâm thần) có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến CLS của cá nhân đó. Do vậy, CLS cũng là một kết quả của quá trình điều trị. Nghiên cứu CLS cung cấp cho đội ngũ y bác sĩ những thông tin đầy đủ và toàn diện hơn về quá trình diễn biến của bệnh cũng như tình trạng sức khỏe của bệnh nhân (BN), từ đó giúp người bệnh và nhóm chăm sóc đưa ra các quyết định điều trị phù hợp để nâng cao CLS của bệnh nhân[7].
Đã có một số nghiên cứu chỉ ra rằng, chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân bị ung thư bị giảm đáng kể từ khi bị mắc bệnh[6],[10],[3]. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu về đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư nhất là giai đoạn muộn được điều trị tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư giai đoạn III, IV theo bộ công cụ EORTC QLQ-C30 tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Các bệnh nhân ung thư giai đoạn III, IV đang điều trị tại khoa Ung Bướu - Bệnh viện Đà Nẵng từ 3/2021 - 6/2021.
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư giai đoạn III, IV đang điều trị nội trú bằng hóa chất và hoặc tia xạ tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng; người bệnh đồng ý tham gia nghiên cứu; có đủ khả năng giao tiếp.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Những BN quá yếu, không đủ khả năng thực hiện bộ câu hỏi phỏng vấn; đang có tình trạng suy giảm ý thức; những người mắc và tiền sử bệnh lý về tâm thần.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang loạt trường hợp.
- Chọn mẫu: Lấy mẫu thuận tiện thỏa mãn các tiêu chuẩn chọn bệnh và các tiêu chuẩn loại trừ.
- Phương pháp tiến hành: Các đối tượng đủ điều kiện nghiên cứu được thực hiện phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi EORTC QLQ-C30 tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng, phần thông tin hành chính thu thập trong hồ sơ bệnh án.
Công cụ thu thập: CLS được đo lường theo Bộ câu hỏi CLS của Tổ chức nghiên cứu và điều trị ung thư Châu Âu (EORTC- The European Organization for Research and Treatment of Cancer) (EORTC QLQ-C30) phiên bản 3.0 gồm 30 câu. Bộ câu hỏi đã được chuẩn hóa theo tiếng Việt và được tổ chức điều trị ung thư châu Âu khuyến cáo sử dụng[2]. Bộ câu hỏi nghiên cứu gồm các phần: (1) Thông tin chung của người bệnh;
(2) CLS, được sử dụng để phỏng vấn người
bệnh mới nhập viện theo hình thức phỏng vấn trực tiếp.
Cách đánh giá CLS
Các câu hỏi được đo lường theo 4 mức độ tăng dần từ 1 (Không có) đến 4 (Rất nhiều). Quy đổi tuyến tính sang thang điểm 100 theo hướng dẫn của nhóm nghiên cứu
CLS của EORTC
(Groups.eortc.be/qol)[3],[9]. Điểm thô (Raw Score) là trung bình điểm các câu hỏi cùng vấn đề. Điểm thô (RS) = (Q1 + Q2 …+
Qn)/n.
Điểm chuẩn hóa là điểm thô tính trên tỉ lệ 100 (theo công thức):
Điểm lĩnh vực chức năng: Score = (1- (RS-1)/3) x 100.
Điểm lĩnh vực triệu chứng: Score = ((RS-1)/3) x 100.
Điểm vấn đề tài chính: Score = ((RS- 1)/3) x 100.
Điểm CLS tổng quát: Score = ((RS- 1)/6) x 100.
2.3. Phân tích và xử lý số liệu
Làm sạch số liệu để hạn chế lỗi sau điều tra và nhập số liệu. Xử lý bằng SPSS 20.0.
2.4. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu Sự tham gia của tất cả các đối tượng vào nghiên cứu hoàn toàn mang tính tự nguyện.
Mọi thông tin về đối tượng nghiên cứu được giữ bí mật và chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu mà không phục vụ cho bất kỳ một mục đích nào khác. Người bệnh được mời tham gia nghiên cứu được giải thích về ý nghĩa của nghiên cứu và có quyền được từ chối tham gia nghiên cứu tại bất cứ thời điểm nào.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học
Đặc điểm Số BN Tỷ lệ (%)
Tuổi X̅ ± SD
Nhỏ nhất - Lớn nhất
55,7 ± 11 (24 - 76) Phân nhóm
Karnofsky
50 - 70% 25 25
80 - 100% 75 75
Nhóm bệnh
Gan - đường mật 3 3
Phổi 16 16
Vú 9 9
Đại trực tràng 27 27
Dạ dày - thực quản 14 14
Buồng trứng 5 5
Đầu mặt cổ 19 19
Hạch lympho 4 4
Khác 3 3
Giai đoạn III 16 16
IV 84 84
Tình trạng đau Có 53 53
Không 47 47
Nhận xét: Tuổi trung bình của BN trong nhóm nghiên cứu là 55,7 ± 11 (trong đó BN trẻ nhất là 24 tuổi và cao tuổi nhất là 76 tuổi). Phân nhóm Karnofsky từ 80 - 100% chiếm đa số so với 50 - 70% với tỷ lệ lần lượt là 75% và 25%. Chiếm phần lớn là giai đoạn IV (84%). Có 53 BN ghi nhận xảy ra tình trạng đau ở các mức độ khác nhau.
3.2. Chất lượng sống theo thang đo EORTC QLQ-C30
Bảng 2. Điểm chuẩn trung bình các chức năng theo thang đo QLQ-C30
Chức năng Trung bình Độ lệch chuẩn
Hoạt động thể lực 83,5 16,4
Vai trò xã hội 77,8 24,2
Hòa nhập xã hội 79,0 24
Tâm lý – cảm xúc 86,2 17
Khả năng nhận thức 87,0 18
Điểm CLS tổng quát 62,4 20,5
Nhận xét: Theo thang đo QLQ-C30, điểm chuẩn CLS tổng quát trung bình 62,4 ± 20,5.
Theo lĩnh vực các chức năng, điểm chuẩn hoạt động thể lực là 83,5 ± 16,4; vai trò xã hội là 77,8 ± 24,2; hòa nhập xã hội là 79 ± 24; tâm lý - cảm xúc là 86,2 ± 17; khả năng nhận thức là 87 ± 18.
Bảng 3. Điểm chuẩn trung bình các triệu chứng theo QLQ-C30
Triệu chứng Trung bình Độ lệch chuẩn
Mệt mỏi 40,9 20,8
Cảm giác đau 23,2 26,9
Mất ngủ 30,3 30
Khó thở 12 20,9
Rối loạn tiêu hóa 17,7 15,2
Khó khăn tài chính 50,3 29,4
Nhận xét: Điểm chuẩn CLS trung bình về khó khăn tài chính là 50,3 ± 29,4. Theo lĩnh vực các triệu chứng, điểm chuẩn trung bình của mệt mỏi là 40,9 ± 20,8; cảm giác đau là 23,2
± 26,9; mất ngủ là 30,3±30; khó thở là 12 ± 20,9; rối loạn tiêu hóa là 17,7 ± 15,2.
3.3. Một số yếu tố liên quan với chất lượng sống 3.3.1. Chỉ số hoạt động Karnofsky
Bảng 4. Khác biệt về điểm chuẩn trung bình CLS và phân nhóm Karnofsky Điểm chuẩn trung bình CLS Phân nhóm Karnofsky
50 - 70% 80 - 100% p
Hoạt động thể lực 66,4 ± 16,8 89,2 ± 11,6 0,000
Vai trò xã hội 62 ± 29,1 83,1 ± 20,0 0,001
Mệt mỏi 59,1 ± 17,8 34,8 ± 18,1 0,000
Cảm giác đau 47,3 ± 28,7 15,1 ± 20,9 0,000
Mất ngủ 56,0 ± 30,0 21,8 ± 24,8 0,000
Rối loạn tiêu hóa 26,4 ± 15,3 14,8 ± 14,1 0,001
Khó khăn tài chính 62,7 ± 27,8 46,2 ± 28,9 0,012
CLS tổng quát 52,7 ± 21,1 65,7 ± 19,4 0,015
Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm chỉ số Karnofsky trong: Hoạt động thể lực, vai trò xã hội, mệt mỏi, cảm giác đau, mất ngủ, rối loạn tiêu hóa, khó khăn tài chính và điểm CLS tổng quát.
3.3.2. Tình trạng đau
Bảng 5. Khác biệt về điểm chuẩn trung bình CLS và tình trạng đau Điểm chuẩn
trung bình CLS
Đau p
Không Có
Hoạt động thể lực 88,9 ± 12,4 78,7 ± 18,0 0,002
Vai trò xã hội 85,5 ± 20,7 71,1 ± 25,4 0,002
Hòa nhập xã hội 84,0 ± 24,8 74,5 ± 22,8 0,012
Tâm lý cảm xúc 89,7 ± 14,9 83,0 ± 18,2 0,031
Mệt mỏi 30,7 ± 16,6 49,9 ± 20,2 0,000
Cảm giác đau 0,4 ± 2,4 43,4 ± 22,0 0,000
Rối loạn tiêu hóa 14,0 ± 15,6 20,9 ± 14,3 0,006
Khó khăn tài chính 41,1 ± 29,7 58,5 ± 26,9 0,003
CLS tổng quát 69,3 ± 19,0 56,3 ± 20,1 0,001
Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm BN đau và không đau trong tất cả lĩnh vực chức năng chung và triệu chứng và điểm chuẩn CLS tổng quát với p = 0,001.
3.4. Kết quả tìm mối liên quan tuyến tính đến chất lượng sống tổng quát 3.4.1. Chỉ số Karnofsky
a. Phân tích tương quan bằng thuật toán Spearman
Bảng 6. Phân tích tương quan giữa chỉ số Karnofsky và CLS tổng quát Điểm chuẩn CLS tổng quát
Chỉ số Karnofsky
Spearman’s rho
Điểm chuẩn CLS tổng quát
Hệ số tương quan Giá trị Sig
N
1,000 0,462
. 0,000
100 100
Chỉ số Karnofsky
Hệ số tương quan Giá trị Sig
N
0,462 1,000
0,000 .
100 100
Nhận xét: Chỉ số Karnofsky và điểm chuẩn CLS tổng quát có hệ số tương quan r là 0,462 với p = 0,000 có ý nghĩa thống kê.
b. Phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến
Bảng 7. Phân tích hồi quy giữa Chỉ số Karnofsky và CLS tổng quát (Coefficients)
Mô hình
Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa
Hệ số hồi quy chuẩn hóa
t Sig.
B Sai số
chuẩn Beta
1 (Hằng số) 2,448
0,727
12,713
0,152 0,434
0,193 4,768
0,848 0,000 Chỉ số Karnofsky
Nhận xét: Ta có phương trình liên quan tuyến tính giữa Chỉ số Karnofsky và điểm chuẩn CLS tổng quát: Điểm chuẩn CLS tổng quát = 2,448 + 0,727 * Chỉ số Karnofsky.
3.4.2. Điểm đau
a. Phân tích tương quan bằng thuật toán Spearman
Bảng 8. Phân tích tương quan giữa điểm đau và CLS tổng quát
Điểm chuẩn CLS tổng quát
Điểm đau
Spearman’s rho
Điểm chuẩn CLS tổng quát
Hệ số tương quan Giá trị Sig
N
1,000 -0,343
. 0,000
100 100
Điểm đau
Hệ số tương quan Giá trị Sig
N
-0,343 1,000
0,000 .
100 100
Nhận xét: Điểm đau và điểm chuẩn CLS tổng quát có hệ số tương quan r là - 0,343 với p
= 0,000 có ý nghĩa thống kê.
b. Phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến
Bảng 9. Phân tích hồi quy giữa điểm đau và CLS tổng quát (Coefficients) Mô hình
Hệ số hồi quy chưa
chuẩn hóa Hệ số hồi quy chuẩn hóa
t Sig.
B Sai số chuẩn Beta
1 (Hằng số) 68,764 -3,008
2,490
0,754 -0,374 27,620
-3,987
0,000 0,000 Điểm đau
Nhận xét: Ta có phương trình liên quan tuyến tính giữa điểm đau và điểm chuẩn CLS tổng quát: Điểm chuẩn CLS tổng quát = 68,764 + (-3,008) * Điểm đau.
IV. BÀN LUẬN
Trong số 100 BN nghiên cứu, độ tuổi trung bình mắc ung thư là 55,7 ± 11 (BN trẻ nhất là 24 tuổi và cao tuổi nhất là 76 tuổi).
Độ tuổi trung bình này khá giống với một số nghiên cứu khác[6],[8]. Phân nhóm Karnofsky từ 80 - 100% chiếm đa số so với 50 - 70% với tỷ lệ lần lượt là 75% và 25%.
Qua bảng 1 cho thấy, BN phần lớn là giai đoạn IV 84% và giai đoạn III là 16%. Năm loại ung thư có tỷ lệ mắc nhiều nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là đại trực tràng (27%), vùng đầu mặt cổ (19%), phổi (16%), dạ dày - thực quản (14%), vú (9%), buồng trứng (5%). Đây cũng là những bệnh ung thư thuộc nhóm hay gặp trên thế giới cũng như tại Việt Nam[11]. Kết quả này cũng tương tự các nghiên cứu khác. Điều này cũng cho thấy mẫu nghiên cứu có thể đại diện cho quần thể BN ung thư vào điều trị tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng.
Điểm chuẩn trung bình CLS các chức năng là không đều nhau. Kết quả này là khá tốt so với nghiên cứu của Mai Thu Trang (2019)[4]. Chứng tỏ các lĩnh vực chức năng ở BN trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi nhìn chung tốt hơn so với nhóm BN trong nghiên cứu của Mai Thu Trang và cộng sự.
Điều này có thể giải thích là do nhóm khảo sát của chúng tôi có độ tuổi trung bình thấp
hơn, phần lớn sống tại Đà Nẵng. Độ tuổi trẻ hơn thường đi kèm thể chất tốt hơn, mức sống khá hơn và đa dạng hơn ở thành thị, có điều kiện thuận lợi tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể chất - tinh thần và thông tin kiến thức hỗ trợ đa dạng có thể giúp các chỉ số chất lượng sống về chức năng trong nghiên cứu chúng tôi được cao hơn. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các chỉ số chức năng như hoạt động thể lực, vai trò xã hội và hòa nhập xã hội thấp hơn chỉ số tâm lý cảm xúc và khả năng nhận thức. Nhận định này cũng tương tự như nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Vũ[10].
Kết quả của chúng tôi cho thấy các triệu chứng được đề cập trong bộ câu hỏi hầu hết đều gặp ở các BN nghiên cứu, những triệu chứng thường gặp nhất là mệt mỏi, mất ngủ và đau. Kết quả này thấp hơn rất nhiều so với nghiên cứu nước ngoài của Naga Sunanda[5]
và tác giả Vũ Văn Vũ (2010)[10]. Điều này có thể phản ảnh việc quản lý các triệu chứng và biến chứng của bệnh đã được quan tâm nhiều hơn trong những năm gần đây và người bệnh trong nghiên cứu cũng vậy. Đồng thời, bệnh nhân ung thư ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm hỗ trợ về cả vật chất và tinh thần từ nhiều nguồn lực hơn so với 10 năm trước đây.
Bảng 10. So sánh điểm chuẩn trung bình CLS tổng quát
Chúng tôi Phạm Đình Hoàng (2019) Mai Thu Trang (2019) Điểm chuẩn trung
bình CLS tổng quát 62,4 ± 20,5 66,6 ± 16,2 50,9 ± 19,2 Điểm chuẩn trung bình CLS tổng quát
của BN ung thư tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng là 62,4 điểm. Kết quả này thấp hơn một nghiên cứu khác của Phạm Đình Hoàng ghi nhận trên BN ung thư vú đang điều trị tại Bệnh viện Quận Thủ Đức, điểm CLS tổng quát là 66,6 điểm[8]. Lý do khác biệt có thể do tác giả Phạm Đình Hoàng chỉ nghiên cứu trên nhóm BN ung thư vú là nhóm bệnh có khả năng và hiệu quả điều trị cao với nhiều biện pháp đa mô thức và tiến bộ hiện nay giúp nhóm bệnh nhân này có CLS tốt hơn trong các nhóm bệnh ung thư khác nhau. Các nghiên cứu có kết quả thấp hơn chúng tôi như tác giả Nguyễn Thu Hà (2017): 58,6 ± 16,6 điểm[6]; tác giả Vũ Văn Vũ (2010): 53,7 điểm[10]. Thời gian gần đây, BN ung thư đang được quan tâm và nhận nhiều sự hỗ trợ chăm sóc thể chất - tinh thần tích cực đồng thời việc điều trị ung thư ngày càng có nhiều tiến bộ và phát triển mạnh cải thiện được nhiều kết quả tích cực cho người bệnh so với những năm trước đây.
Bên cạnh đó, tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng, tập thể khoa luôn quan tâm đến CLS người bệnh, tổ chức nhiều chương trình hoạt động chuyên môn và văn hóa tinh thần hỗ trợ nhiều mặt cho người bệnh được đa số bệnh nhân ủng hộ và hưởng ứng song song với việc không ngừng nâng cao phát triển hoạt động chuyên môn kỹ thuật chăm sóc điều trị bệnh hiệu quả tiến bộ, điều này cũng
đã có thể góp phần làm kết quả ghi nhận về CLS tổng quát trong nghiên cứu của chúng tôi là tốt hơn các nghiên cứu trước đây của các đơn vị khác. Với các nghiên cứu nước ngoài, kết quả của chúng tôi cũng gần tương tự như nghiên cứu của Bjordal là 63 ± 23,9 điểm[1].
Với những BN có chỉ số hoạt động Karnofsky từ 80 - 100% thì điểm chuẩn trung bình các lĩnh vực hoạt động thể lực, vai trò xã hội cao hơn hẳn và có điểm chuẩn trung bình triệu chứng mệt mỏi, cảm giác đau, mất ngủ, rối loạn tiêu hóa và khó khăn tài chính thấp hơn so với nhóm BN 50 - 70%. Kết quả này cũng dễ hiểu vì ở những bệnh nhân thuộc phân nhóm chỉ số hoạt động Karnofsky từ 80 - 100% là những BN có khả năng hoạt động và làm việc bình thường, thể trạng tốt hơn nên BN có thể theo đuổi các sở thích và các hoạt động giải trí mà họ thích.
Còn đối với những BN thuộc phân nhóm chỉ số Karnofsky 50 - 70% họ không có khả năng làm việc, cần hỗ trợ chăm sóc nên các hoạt động xã hội bị hạn chế dẫn đến điểm chuẩn trung bình về chức năng sẽ thấp. Bên cạnh đó, nhóm BN này sẽ có nhiều các dấu hiệu và triệu chứng về bệnh hơn nên các điểm chuẩn trung bình về triệu chứng sẽ cao hơn. Đặc biệt có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm chuẩn trung bình CLS tổng quát giữa 2 nhóm chỉ số Karnofsky với p = 0,015. Để làm rõ hơn sự tương quan giữa chỉ
số Karnofsky với điểm chuẩn CLS tổng quát, chúng tôi sử dụng phân tích tương quan cho thấy hệ số tương quan r là 0,462 có ý nghĩa thống kê (Bảng 6). Từ đó, chúng tôi đã biểu diễn được phương trình liên quan tuyến tính giữa chỉ số Karnofsky và điểm chuẩn CLS tổng quát là đường thẳng hướng lên trên điều này có nghĩa, Chỉ số Karnofsky càng tăng thì điểm CLS tổng quát sẽ càng cao. Với hệ số tương quan r = 0,462 và phương trình liên quan tuyến tính, nhóm nghiên cứu chúng tôi có thể khẳng định, chỉ số Karnofsky và điểm chuẩn CLS tổng quát có sự tương quan thuận khá chặt chẽ với nhau rất có ý nghĩa thống kê. Từ đó có thể thấy, chất lượng cuộc sống của người bệnh còn chịu ảnh hưởng bởi chỉ số hoạt động của người bệnh chứ không chỉ do tình trạng bệnh và các can thiệp chăm sóc tăng cường vận động và phục hồi chức năng hướng đến cải thiện chỉ số hoạt động của người bệnh sẽ mang lại lợi ích về nhiều mặt.
Kết quả chỉ ra rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm BN đau và không đau về lĩnh vực chức năng chung, triệu chứng với p < 0,05. Kết quả này càng rõ hơn ở những bệnh nhân có tình trạng đau làm ảnh hưởng đến toàn trạng, tâm lý cảm xúc, làm giảm đi các hoạt động thể lực đồng thời các điểm số trung bình các lĩnh vực triệu chứng như mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa cao hơn. Có sự khác biệt về điểm chuẩn trung bình CLS tổng quát giữa nhóm BN có đau và ko đau là có ý nghĩa thống kê. Từ đây, chúng tôi tiến hành tính toán hệ số tương quan là r =- 0,343 và xây dựng được phương trình liên quan tuyến tính giữa điểm đau và điểm
chuẩn CLS tổng quát (Bảng 8 và 9). Với đồ thị minh họa có đường thẳng tuyến tính hướng đi xuống, chứng tỏ mối tương quan tuyến tính này là tương quan nghịch. Kết quả này đặt ra yêu cầu trong thực tiễn lâm sàng cần quan tâm tích cực quản lý đau cho người bệnh góp phần cải thiện CLS của bệnh nhân ung thư đang điều trị tại khoa.
V. KẾT LUẬN
Điểm chuẩn trung bình CLS của bệnh nhân ung thư giai đoạn III, IV tại khoa Ung Bướu Bệnh viện Đà Nẵng là khá tốt với 62,4
± 20,5. Kết quả phân tích cho thấy chỉ số Karnofsky và điểm đau có liên quan tuyến tính đến chất lượng sống của bệnh nhân ung thư. Đây là các chỉ số lâm sàng quan trọng có thể lượng giá được nên tiến hành đánh giá thường xuyên từ đó có thể can thiệp điều chỉnh theo hướng tích cực sẽ góp phần nâng cao CLS của bệnh nhân cũng như giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực về CLS do bệnh tật liên quan mang lại cho người bệnh ung thư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bjordal K. et al, “A 12 country field study of the EORTC QLQ-C30 (version 3.0) and the head and neck cancer specific module (EORTC QLQ-H&N35) in head and neck patients”. European Journal of Cancer 36 (2000) 1796– 1807.
2. Dewolf L., Koller M., Velikova G., et al (2009), "EORTC Quality of Life Group translation procedure", (3rd ed.) Brussels, Belgium: EORTC Quality of Life Group, pp.32.
3. May Leng Tan, Dahliana Binte Idris.
(2014), “Validation of EORTC QLQ-C30 and QLQ-BR23 questionnaires in the measurement of quality of life of breast cancer patients in Singapore”, Asia Pac J Oncol Nurs, Apr-Jun; 1(1): 22–32.
4. Mai Thu Trang, Lê Minh Hiếu, Lê Xuân Hưng, Nguyễn Thành Long và cộng sự (2019), “Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư giai đoạn III, IV theo bộ công cụ EORTC QLQ-C30 tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình”, TNU Journal of Science and Technology, 225(08): 388 – 394.
5. Naga Sunanda, M. Priyanka, J. Architha, M. Shravan, A. Srinivasa Rao, Mohd.
Abdul Hadi (2018), “Quality of life assessment in cancer patients of regional centre of Hyderabad city”, Journal of Applied Pharmaceutical Science, 8(1), pp.165 – 169.
6. Nguyễn Thu Hà (2017), "Chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư vú sử dụng thang đo QLQ-C30 và một số yếu tố liên
quan tại một số bệnh viện Ung bướu tại Việt Nam", Tạp chí Y học Dự phòng, 27(5): 102.
7. Nguyễn Thị Kim Tuyến (2014), “Chất lượng sống của bệnh nhân ung thư vú từ nghiên cứu đến thực tiễn”, Tạp chí Phụ sản, 12(1), 18-26.
8. Phạm Đình Hoàng, Đinh Văn Quỳnh, Võ Văn Thắng (2019), “Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân nữ ung thư vú được điều trị tại bệnh viện quận Thủ Đức”. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 23(5): 141-147.
9. Scott N.W., Fayers P., Aaronson N.K., et al (2008), “EORTC QLQ- C30 Reference Values Manual”, (2nd ed.) Brussels, Belgium: EORTC Quality of Life Group, pp.
427.
10. Vũ Văn Vũ (2010), "Khảo sát tình trạng đau và chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư giai đoạn tiến xa tại bệnh viện ung bướu TPHCM 7/2009 - 7/2010", Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 14(4): 811-822.
11. World Health Organization (2020),
“Cancer Tomorrow”, Global Cancer Observatory.