KHẢO SÁT DIỄN BIẾN CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP SONG THAI MỘT BÁNH NHAU TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Phạm Công Toàn1,Trịnh Nhựt Thư Hương2, Nguyễn Hồng Hoa3, Trần Nhật Thăng3
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Song thai một bánh nhau là một thai kỳ nguy cơ cao, liên quan đến nhiều biến chứng đặc hiệu do sự chia sẻ độc nhất một bánh nhau và tình trạng mất cân bằng huyết động giữa 2 thai do sự tồn tại các thông nối mạch máu. Vì vậy, khảo sát kết cục của các trường hợp song thai một bánh nhau vẫn đang được nghiên cứu và báo cáo nhằm mục đích tìm kiếm các bằng chứng tốt nhất để thực hiện các can thiệp khi cần thiết.
Mục tiêu: Mô tả kết cục của các trường hợp song thai một bánh nhau từ đó xác định tỉ lệ các biến chứng đặc biệt. Đồng thời, xác định tỉ lệ thai chết trong tử cung, sinh non, sinh ngả âm đạo thành công ở các trường hợp song thai có biến chứng được thực hiện kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực.
Đối tượng - Phương pháp: Báo cáo loạt ca các trường hợp song thai một bánh nhau được quản lý và chấm dứt thai kỳ tại bệnh viện Từ Dũ từ 01/2018 đến 01/2019, bao gồm 166 ca với 81 cặp song thai một bánh nhau có biến chứng.
Kết quả: Nghiên cứu ghi nhận 85 cặp song thai một nhau không biến chứng (51,2%) và 81 trường hợp (48,8%) xuất hiện các biến chứng đặc hiệu như 15% hội chứng truyền máu song thai, 28.3% thai chậm tăng trưởng chọn lọc. Có 19 trường hợp kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực, trong đó 7 truyền máu song thai, 8 thai chậm tăng trưởng chọn lọc, 3 trường hợp dị tật bẩm sinh và 1 bơm máu đảo ngược.
Kết luận: Truyền máu song thai và thai chậm tăng trưởng chọn lọc là các biến chứng đặc hiệu của song thai một nhau, được chẩn đoán khá sớm, vào 23 tuần của thai kỳ. Kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực là một can thiệp bào thai với tỉ lệ kéo dài thai kỳ thành công cao.
Từ khoá: song thai một bánh nhau, thông nối mạch máu, kẹp tắc dây rốn
ABSTRACT
SERVEILLANCE OF PREGNANCY OUTCOME OF MONOCHORIONIC TWINS AT TU DU HOSPITAL
Pham Cong Toan, Trinh Nhut Thu Huong, Nguyen Hong Hoa, Tran Nhat Thang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 55 - 62 Background: Monochorionic twins is the high risk pregnancy and is associated with special complications that are unique to sharing placenta and because of the haemodynamic imbalance caused by placental vascular anastomoses. Therefore, the study of outcome of monochorionic twins is still being researched and reported for the purpose of looking for the best evidence to perform the optimal interventions.
Objectives: To describe the outcome of monochorionic twins to determine the proportion of special complications. Moreover, exploring the rate of fetal death in uterus, premature delivery, the successful vaginal birth in complicated monochorionic twins after bipolar cord coagulation.
Methods: Case series report of monochorionic twins which was managed pregnancy and delivered at Tu Du hospital bet January 2018 and January 2019, comprised 166 cases with 81 complicated monochorionic twin pregnancies.
1Khoa Y - Đại học quốc gia TP. HCM 2Bệnh viện Từ Dũ 3Đại học Y dược TP. HCM Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hồng Hoa ĐT: 0908285186 Email: [email protected]
Results: The series comprised 85 uncomplicated monochorionic twins (51.2%) and 81 complicated cases (48.8%) with 15% twin-twin transfusion syndrome (TTTS) and 28.3% selective intrauterine growth restriction (sIUGR). Nineteen cases of bipolar cord coagulation prefomed included on seven TTTS, eight sIUGR, three cases with serious malformation and one twin reversed arterial perfusion sequence (TRAP).
Conclusion: TTTS and sIUGR are the complication unique to monochorionic twins and diagnosed in the early stage after 23 week’s gestational. Bipolar cord coagulation is an effective procedure in complcated monochorionic pregnancies to improve pregnancy outcome.
Key words: monochorionic twins, vascular anastomose, bipolar cord coagulation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Song thai dẫn đến nhiều nguy cơ, kết cục xấu trong thai kỳ cho mẹ và thai, đặc biệt ở song thai một nhau bởi 75% trường hợp tồn tại các thông nối mạch máu(1). Các biến chứng đặc hiệu thường gặp: hội chứng truyền máu song thai (TTTS – Twin-twin transfusion syndrome), thiếu máu – đa hồng cầu (TAPS – Twin anemia polycethemia sequence), bơm máu đảo ngược trong song thai (TRAP - Twin reversed arterial perfusion) và thai chậm tăng trưởng chọn lọc (sIUGR – Selective intrauterine growth restriction)(2). Trong đó, TTTS là biến chứng thường gặp nhất của song thai một nhau, khoảng 10-15%, xuất hiện từ 15-26 tuần(3).
Y học hiện tại vẫn chưa thực sự có một kế hoạch hay phương pháp sinh tối ưu cho song thai. Tỉ lệ tử vong chu sinh cao ở thai thứ 2 do thai thứ 1 chết trong tử cung hay các biến chứng trong quá trình chuyển dạ và gia tăng khi thời gian chuyển dạ giữa 2 thai >20 phút(4). Ngoài ra, tỉ lệ tử vong chu sinh sau 32 tuần ở song thai một nhau cao gấp 6 lần so với song thai hai nhau (2,1% và 0,35%)(5). Nhằm cải thiện kết cục thai kỳ của song thai 1 nhau, 2 ối, nhiều kỹ thuật can thiệp bào thai đã được thực hiện như đốt laser các thông nối mạch máu, kẹp tắc dây rốn, truyền máu bào thai... Tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh cãi trong lựa chọn điều trị(6). Bệnh viện Từ Dũ đã triển khai thực hiện kỹ thuật “kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực” từ tháng 03 năm 2018 và ghi nhận được một số thành công.
Mục tiêu
Mô tả các biến chứng đặc hiệu của song thai 1 nhau, 2 ối.
Mô tả kết cục của thai trong các trường hợp song thai 1 nhau, 2 ối có can thiệp/không can thiệp bào thai: tỉ lệ thai sống/thai chết trong tử cung (TC), sinh non, sinh ngả âm đạo/mổ lấy thai (MLT).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuCác sản phụ được chẩn đoán song thai 1 nhau, 2 ối đến khám, tư vấn, quản lý thai kỳ và sinh tại bệnh viện Từ Dũ trong thời gian nghiên cứu, từ 01/2018 đến 01/2019.
Tiêu chuẩn nhận vào
Sản phụ được chẩn đoán xác định song thai 1 nhau, 2 ối từ 10-14 tuần, ghi nhận đầy đủ kết quả khám thai, siêu âm và sinh ngả âm đạo/mổ lấy thai tại bệnh viện Từ Dũ.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp (TH) không thoả tiêu chuẩn chọn mẫu.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo loạt ca hồi cứu.
Cỡ mẫu
Chọn mẫu toàn bộ.
Phương pháp tiến hành
Hồi cứu các trường hợp song thai nhập viện và sinh tại BV Từ Dũ dựa vào mã ICD10 (O30.0) trong thời gian 01/2018 - 01/2019. Sau đó, chúng tôi tiếp tục sàng lọc, ghi nhận các cặp song thai 1 nhau, 2 ối được chẩn đoán tại 10-14 tuần. Các trường hợp này được theo dõi bằng siêu âm mỗi 2 tuần từ 16 tuần để phát hiện sớm các bất thường tim, hình thái và các biến chứng đặc hiệu
(Hình 1).
Hình 1: Quản lý song thai 1 nhau, 2 ối không biến chứng tại BV. Từ Dũ
*Vận tốc đỉnh tâm thu – động mạch não giữa, **Động mạch rốn, ***Động mạch não giữa Định nghĩa biến số kết cục chính
Song thai 1 nhau, 2 ối có biến chứng: biến nhị giá gồm 2 giá trị (có và không), trong đó có 5 nhóm biến chứng chính:
0: truyền máu song thai có 5 giai đoạn (Quintero 1999): giai đoạn I (thai cho – thiểu ối và thai nhận – đa ối), giai đoạn II (không quan sát thấy bàng quang thai cho), giai đoạn III (bất thường kết quả Doppler), giai đoạn IV (phù 1 hoặc 2 thai) và giai đoạn V (1 hoặc 2 thai tử vong).
1: thai chậm tăng trưởng chọn lọc có 3 loại:
loại 1 (chênh lệch cân nặng >25%), loại 2 (mất/đảo ngược sóng tâm trương ĐM rốn liên tục) và loại 3 (mất/đảo ngược sóng tâm trương ĐM rốn không liên tục).
2: thiếu máu – đa hồng cầu gồm 5 giai đoạn.
3: bơm máu đảo ngược trong song thai.
4: song thai với một thai chết trong tử cung.
Thu thập và phân tích số liệu
Sau khi hoàn tất thu thập số liệu, chúng tôi
tiến hành tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu và viết báo cáo. Nhập liệu bằng phần mềm Epidata và xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 13.0. Mô tả kết quả các biến ở dạng tỉ lệ hoặc giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
Y đức
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 362/ĐHYD-HĐĐĐ, ngày 11/10/2018.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 01/2018 đến 01/2019, bệnh viện Từ Dũ tiếp nhận 633 trường hợp song thai đến sinh/mổ lấy thai, đồng thời ghi nhận 205 trường hợp song thai 1 nhau, 2 ối và 166 trường hợp thoả tiêu chuẩn nghiên cứu. Trong đó, 81 trường hợp xuất hiện các biến chứng đặc hiệu của song thai một bánh nhau (48,8%).
Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 29,5 5, hơn 95% trong độ tuổi sinh sản (20-40 tuổi), với tuổi mẹ lớn nhất là 44 tuổi và nhỏ nhất là 16 tuổi. Hơn 45% sản phụ ghi nhận thai kỳ lần đầu, khoảng 39% đã sinh 1 lần và gần 14% sinh 2 lần. Tất cả trường hợp chưa từng ghi nhận
tiền căn sinh song thai. Gần 94% sản phụ có thai tự nhiên, chỉ 10 sản phụ sử dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (6,1%) (Bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Tần số (n=166) Tỷ lệ (%) Tuổi: tuổi trung bình 29,5 5
<20 5 3
20-40 159 95,8
>40 2 1,2
Số lần sinh
Chưa sinh 76 45,8
1 lần 66 39,7
2 lần 23 13,9
3 lần 1 0,6
Thụ tinh ống nghiệm
Có 10 6,1
Không 156 93,9
Các biến chứng đặc hiệu của song thai 1 nhau, 2 ối được chẩn đoán ở 23,1±5,9 tuần, trễ nhất là 34,2 tuần và sớm nhất khi thai 10,2 tuần.
Trong đó, truyền máu song thai chiếm khoảng 15%, được chẩn đoán ở 23,3± 4,5 tuần, 47/166 cặp song thai có chậm tăng trưởng chọn lọc (28,3%).
Các biến chứng còn lại chiếm tỉ lệ nhỏ (1,2-2,4%) (Hình 2).
Hình 2: Phân bố các biến chứng đặc hiệu của song thai 1 nhau, 2 ối Đồng thời, 40/166 trường hợp xuất hiện các
bất thường giải phẫu (khoảng 24%). Trong đó, bất thường tim (hẹp hở van 2 lá, động mạch chủ, thông liên thất …) thường gặp nhất chiếm 55%, dị tật não (bất sản vách trong suốt, thai vô sọ,
não úng thủy...) chiếm 25%, 3 trường hợp hở thành bụng, 3 trường hợp đa dị tật bẩm sinh (DTBS) và 2 trường hợp xuất hiện các bất thường khác (hẹp van niệu đạo sau, tăng sinh tuyến dạng nang ở phổi).
Song thai 1 nhau, 2 ối không biến chứng kết thúc thai kỳ trung bình ở 33,9±4,7 tuần, sớm nhất khi thai 17,6 tuần, trễ nhất khi 38,1 tuần, kéo dài hơn so với nhóm xuất hiện các biến chứng đặc hiệu được CDTK ở 30,7±5,6 tuần, sớm nhất lúc thai 17,2 tuần. Trong nhóm không biến chứng, đa số CDTK sau 34 tuần (64/85 trường hợp; 75,3%) khác hẳn với nhóm xuất hiện các biến chứng được CDTK chủ yếu trước 34 tuần (61,7%).
Nghiên cứu ghi nhận 19 trường hợp kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực: 7 TMST, 8 thai CTTCL, 3 song thai với DTBS và 1 BMĐN.
Trường hợp đầu tiên có mã nghiên cứu 177, mã lưu hồ sơ 1500165156, chẩn đoán thai CTTCL loại II, tiến hành kẹp tắc dây rốn vào ngày 7 tháng 3 năm 2018, nhưng bước đầu chưa thành công, cả 2 thai đã chết trong tử cung sau phẫu thuật 1 ngày.
Tuổi thai lựa chọn để tiến hành kẹp tắc dây rốn cho 7 trường hợp TMST là 22,9 ± 2,8 tuần, sớm nhất lúc 20,4 tuần và trễ nhất tại 28,4 tuần, chủ yếu ở giai đoạn III và IV. Kỹ thuật này giúp
kéo dài thai kỳ thêm 10,5±3,6 tuần, được CDTK trung bình ở 32 tuần [27,6-37,1]. Nghiên cứu ghi nhận 7 trường hợp thai CTTCL loại 2 và 1 trường hợp loại 3 được thực hiện kẹp tắc dây rốn, kéo dài thai kỳ thêm khoảng 16 tuần và được CDTK trung bình ở 32,7 tuần [20-40]. Ba cặp song thai có các bất thường bẩm sinh nặng (thai vô sọ, hẹp van niệu đạo sau - dãn nặng bể thận 2 bên) được thực hiện kẹp tắc dây rốn, hi sinh thai tồn tại bất thường nặng và ghi nhận thành công bước đầu giúp cải thiện tiện lượng cho thai còn lại.
Như vậy, sau kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực 6/7 trường hợp TMST, 6/8 thai CTTCL và cả 3 trường hợp song thai với DTBS ghi nhận thai còn lại tiếp tục phát triển đến thời điểm CDTK, trung bình ở 32,6 tuần. Trong đó, hơn 47% được CDTK trước 34 tuần, 21% CDTK từ 34-37 tuần và 6 trường hợp CDTK sau 37 tuần (chủ yếu từ 37-37,3 tuần, duy nhất 1 trường hợp ở 40 tuần). 12/19 cặp song thai theo dõi và sinh ngả âm đạo thành công.
Bảng 2: Kết cục thai kỳ của 19 trường hợp kẹp tắc dây rốn
ĐẶC ĐIỂM (n=19) TẦN SỐ TỈ LỆ
TH kẹp tắc dây rốn TMST Thai CTTCL
ST + DTBS BMĐN
7 8 3 1
36,8 42,1 15,8 5,3 Tỉ lệ thành công sau thủ thuật
TMST (n=7) Thai CTTCL (n=8)
ST + DTBS (n=3) BMĐN (n=1)
6 6 3 0
85,7 75 100
0 Thời điểm CDTK: 32,6 5,5 tuần [20-40]
Dưới 34 tuần 34 – 37 tuần
37 tuần
9 4 6
47,4 21 31,6 Phương pháp sinh
Sinh ngả âm đạo Mổ lấy thai
12 7
63,2 36,8 Nhập khoa sơ sinh
Bé khoẻ theo mẹ Sơ sinh 1 Sơ sinh 2
Chết non tháng/ chết trong TC
6 8 1 4
31,6 42,1 5,3 21,0
BÀN LUẬN
Song thai 1 nhau chia sẻ cùng bánh nhau và tồn tại các thông nối mạch máu, xuất hiện các biến chứng đặc hiệu. Kết thúc nghiên cứu, 48,8%
trường hợp ghi nhận các biến chứng đặc hiệu, được chẩn đoán ở 23,1±5,9 tuần. Trong đó, TMST chiếm khoảng 15%, xuất hiện ở 23,3±4,5 tuần, tương tự nghiên cứu của Chalouhi GE (2010) thường chẩn đoán trong tam các nguyệt 2 (20-21 tuần)(1). Thai CTTCL chiếm tới 28,3%, xuất hiện ở 23,6±6,2 tuần, chiếm tỉ lệ cao hơn nhiều lần so với TMST và các biến chứng còn lại. Đây là điểm khác biệt so với các nghiên cứu khác như Ashwal E ở Israel (2015) ghi nhận 47/179 trường hợp TMST (chiếm 26,1%) cao hơn CTTCL (34/179, chiếm 18,9%)(3). Sự khác biệt có thể giải thích do TMST là biến chứng nặng, chẩn đoán ở giai đoạn muộn nên đã tư vấn CDTK sớm tại địa phương, không tiếp tục khám thai hay sinh tại bệnh viện Từ Dũ, ảnh hưởng đến thu nhận mẫu.
BMĐN chiếm 1% song thai 1 nhau, xuất hiện từ 8-12 tuần, với thai bơm máu duy trì tuần hoàn bình thường và bơm máu một phần qua các thông nối động-động mạch đến thai không tim.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 4 trường hợp BMĐN ghi nhận ở thời điểm trung bình 15,3 ± 4,9 tuần(1). Các biến chứng khác chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong nghiên cứu.
Trong nghiên cứu, 40 cặp song thai ghi nhận tồn tại bất thường giải phẫu ở ít nhất 1 thai (24%). Trong đó, bất thường tim chiếm đa số (55%), chủ yếu là bất thường van tim. Điều tương tự cũng được tìm thấy khi Wang J tiến hành nghiên cứu 77 cặp song thai 1 nhau, 2 ối tại Trung Quốc (2019), phát hiện 2 bất thường thường gặp nhất ở hệ thần kinh (32%) và tim mạch (29%)(8). Trong nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận 7/9 cặp TMST và 8/12 cặp CTTCL có bất thường tim (hở van nhĩ thất, hẹp van động mạch chủ…), các bất thường này có thể nguyên phát hoặc hệ quả từ sự mất cân bằng các thông nối mạch máu, nên “song thai 1 nhau, 2 ối cần thực hiện siêu âm tim thai chuyên khoa để phát hiện
và chẩn đoán sớm các bất thường, đặc biệt trong truyền máu song thai”(9).
Các trường hợp song thai có biến chứng được CDTK sớm hơn với nhóm không biến chứng (khoảng 31 tuần so với 34 tuần). Số trẻ sinh 37 tuần chiếm khoảng 16% (27 cặp song thai), chủ yếu là các trường hợp không tồn tại các biến chứng đặc hiệu (18 trường hợp). Chín trường hợp song thai 1 nhau, 2 ối có biến chứng được CDTK sau 37 tuần, đó là: 8 trường hợp thai CTTCL và 1 trường hợp TMST. 19 cặp song thai được can thiệp bào thai bằng kẹp tắc dây rốn giúp kéo dài thai kỳ đạt 32,6±5,5 tuần và 79% trẻ sinh ra có khả năng sống (6 trường hợp bé khoẻ và 9 trường hợp nhập khoa sơ sinh theo dõi).
Điều này một lần nữa khẳng định “phương pháp kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực giúp cải thiện kết cục thai kỳ chung của cặp song thai 1 nhau, 2 ối có biến chứng”(10).
Cụ thể, 7 trường hợp TMST được tiến hành kẹp tắc dây rốn ở 22,9 ± 2,8 tuần, thực hiện sớm nhất lúc 20,4 tuần và trễ nhất khi thai đã hơn 28 tuần, gồm 1 trường hợp giai đoạn II, 4 trường hợp giai đoạn III và 2 trường hợp giai đoạn IV.
Thời điểm can thiệp này khá tương đồng với 25 trường hợp TMST được tiến hành kẹp tắc dây rốn trong nghiên cứu của Nakata M tại bệnh viện đại học Yamaguchi, Hoa Kỳ (2004) (17-25 tuần) và Cristina RA (2009) thực hiện kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực trên 9 trường hợp TMST ở tuổi thai trung bình 20 tuần (16-23 tuần) với phương pháp mê nội khí quản(11,12). Trong 18 trường hợp TMST điều trị mong đợi, ghi nhận 2 trường hợp 1 thai tử vong và 1 trường hợp cả 2 thai chết trong TC sau đó ở trung bình 25,5 ± 4,9 tuần. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy các cặp song thai này tiếp tục theo diễn tiến tự nhiên, bước sang các giai đoạn trễ hơn, với hơn 33% ở giai đoạn IV, hơn 44% ở giai đoạn II và III, tất cả được CDTK ở 25,7 ± 4,8 tuần, sớm nhất khi thai mới 17,2 tuần và trễ nhất khi thai được 36,6 tuần.
Hơn 72% được sinh ngả âm đạo thành công, tuy nhiên 14/18 cặp song thai chết non tháng (và sanh trước 28 tuần), chỉ 4 trường hợp sinh sống
(2 TH có APGAR 1 phút 4-6 điểm và 2 TH APGAR 1 phút trên 7 điểm). Chỉ 1/7 trường hợp thực hiện kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực thất bại, như vậy áp dụng kỹ thuật can thiệp bào thai này giúp kéo dài thai kỳ của cặp song thai TMST thêm trung bình 10,5 tuần, nhiều nhất 15,5 tuần, được CDTK ở 32 3,2 tuần, chủ yếu CDTK ở 28-34 tuần (5 trường hợp).
Điểm chung của các cặp song thai đã can thiệp thành công là quá trình được thực hiện ở chủ yếu giai đoạn III, vào thời điểm thai 21-22 tuần. Nghiên cứu của Cristina RA (2009) tiến hành kẹp tắc dây rốn trên 9 và 20 trường hợp TMST cũng giúp kéo dài thai kỳ đến 35 và 35,4 tuần(12). Khoảng 57% sinh ngả âm đạo thành công, 3/7 trường hợp đã được kẹp tắc dây rốn được MLT vì các chỉ định sản khoa: TH mã nghiên cứu 116 được MLT vì VMC, đa ối lúc 28,5 tuần; TH mã nghiên cứu 161 vì VMC, ối vỡ non, 33 tuần và TH mã nghiên cứu 176 vì VMC 2 lần, thai 37 tuần 1 ngày. Sáu bé sau sinh đều nhập khoa sơ sinh 1 theo dõi với 2 bé có APGAR 1 phút 4-6 điểm và 4 bé có APGAR 1 phút trên 7 điểm. Trong bối cảnh kĩ thuật đốt laser các thông nối mạch máu chưa được áp dụng rộng rãi và các cặp TMST điều trị mong đợi có nguy cơ kết thúc thai kỳ sớm, tỉ lệ trẻ sinh sống cũng rất thấp, thì “phương pháp kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực có thể giúp cải thiện tỉ lệ sinh sống tối thiểu của 1 bé trong cặp TMST nếu thực hiện đúng thời điểm”.
Cuối cùng, nghiên cứu này là đề tài mới và chưa được thực hiện nhiều tại Việt Nam, nên có thể là một tài liệu tham khảo có giá trị cho các nghiên cứu tương tự trong nước. Đồng thời, nghiên cứu sẽ tạo tiền đề cho các nghiên cứu sâu hơn và dài hơn về việc phát hiện, quản lý và theo dõi các thai kỳ song thai 1 nhau, 2 ối có hoặc không có biến chứng. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế như: thiết kế nghiên cứu là báo cáo loạt ca nên chỉ dừng lại ở mô tả tỉ lệ, việc tìm ra các mối liên quan hay tiên lượng giữa các biến số chưa thực sự có sức mạnh thống kê cao, mẫu nghiên cứu nhỏ nên không đại diện
hoàn toàn cho quần thể nghiên cứu. Bên cạnh đó, các trường hợp loại ra khỏi nghiên cứu do không ghi nhận được các kết quả siêu âm tại 20 – 22 tuần hay 28 – 30 tuần có thể ảnh hưởng một phần đến kết quả nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Thực hiện từ 01/2018 đến 01/2019, nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ xuất hiện các biến chứng đặc hiệu của song thai 1 nhau, 2 ối (n=81) là 48,8%, được chẩn đoán ở khoảng 23 tuần. Trong đó, truyền máu song thai và thai chậm tăng trưởng chọn lọc là các biến chứng thường gặp nhất.
Khoảng 24% trường hợp xuất hiện các bất thường giải phẫu, chủ yếu tại tim và não. Đồng thời, nghiên cứu ghi nhận 19 cặp song thai được thực hiện kẹp tắc dây rốn bằng đốt lưỡng cực với tỉ lệ thành công giúp kéo dài thai kỳ và đạt tỉ lệ sinh ngả âm đạo chiếm 63,2%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chalouhi GE, Stirnemann JJ, et al (2010). Specific complications of monochorionic twin pregnancies: twin-twin transfusion syndrome and twin reversed arterial perfusion sequence. Semin Fetal Neonatal Med, 15(6):349-56.
2. Cordero L, Franco A, Joy SD, O'Shaughnessy RW (2005).
Monochorionic Diamniotic Infants Without Twin-to-Twin Transfusion Syndrome. Journal of Perinatology, 25(12):753-758.
3. Ashwal E, Yinon Y, Fishel-Bartal M, et al (2016). Twin Anemia- Polycythemia Sequence: Perinatal Management and Outcome.
Fetal Diagnosis and Therapy, 40(1):28-34.
4. Ayesha A, Saima R (2019). Timing and Mode of Delivery in Twin Pregnancy. EC Gynaecology 8(11):71-75.
5. Hack KE, Derks JB, Elias SG, et al (2011). Perinatal mortality and mode of delivery in monochorionic diamniotic twin pregnancies
≥ 32 weeks of gestation: a multicentre retrospective cohort study.
BJOG, 118(9):1090-7.
6. Emery SP, Hasley SK, Catov JM, Miller RS, Moon-Grady AJ, et al (2016). North American Fetal Therapy Network: intervention vs expectant management for stage I twin-twin transfusion syndrome. American Journal of Obstetrics & Gynecology, 215(3):346.e1-346.e7.
7. Ishii K, Chmait RH, Martínez JM, Nakata M, Quintero RA (2004). Ultrasound assessment of venous blood flow before and after laser therapy: approach to understanding the pathophysiology of twin–twin transfusion syndrome.
Ultrasound in Obstetrics & Gynecology, 24(2):164-168.
8. Wang J, Luo J, Yang J, et al (2019). Analysis of clinical characteristics of discordant structural malformations in one of monochorionic diamnionic twins. Zhonghua Fu Chan Ke Za Zhi, 54:87-92.
9. Springer S, Mlczoch E, Krampl-Bettelheim E, Mailath-Pokorny M, Ulm B, et al (2014). Congenital heart disease in monochorionic twins with and without twin-to-twin transfusion syndrome. Prenat Diagn, 34(10):994-9.
10. Lanna MM, Rustico MA, Dell'Avanzo M, Schena V, Faiola S, et al (2012). Bipolar cord coagulation for selective feticide in complicated monochorionic twin pregnancies: 118 consecutive cases at a single center. Ultrasound Obstet Gynecol, 39(4):407-13.
11. Nakata M, Chmait RH, Quintero RA (2004). Umbilical cord occlusion of the donor versus recipient fetus in twin–twin transfusion syndrome. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology, 23(5):446-450.
12. Cristina RA, D'Addario V (2009). Umbilical cord occlusion for selective feticide in complicated monochorionic twins: a systematic review of literature. American Journal of Obstetrics &
Gynecology, 200(2):123-129.
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021