KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ VITAMIN D Ở CÁC NHÓM TUỔI BẰNG PHƯƠNG PHÁP MIỄN DỊCH HÓA PHÁT QUANG
Nguyễn Tấn Hiệp1, Mai Thị Bích Chi1, Nguyễn Thị Băng Sƣơng1,2
TÓM TẮT4
Đặt vấn đề: Thiếu hụt Vitamin D là vấn đề thƣờng gặp trên thế giới. Thiếu vitamin D gây ra các bệnh về xƣơng khớp và các bệnh khác chẳng hạn nhƣ ung thƣ, bệnh tim mạch và đái tháo đƣờng. Con ngƣời đối mặt với nguy cơ thiếu hụt vitamin D do ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, chế độ ăn, hấp thu kém, dùng các thuốc chống động kinh và dùng glucocorticoid lâu dài. Ngày càng có nhiều bệnh nhân đƣợc khuyên uống bổ sung vitamin D hoặc dùng liều cao hơn thông qua điều trị để giảm nguy cơ mắc các bệnh về xƣơng khớp và bệnh mãn tính. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về tình trạng thiếu vitamin D ở ngƣời lớn, tuy nhiên tình trạng thiếu vitamin D tại Việt Nam chƣa có dữ liệu đầy đủ.
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ vitamin D trong các nhóm tuổi có nguy cơ thiếu hụt vitamin D.
Bƣớc đầu xây dựng dữ liệu nền về tình trạng vitamin D trên một số nhóm dân số Việt Nam.
Đối tƣợng-Phƣơng pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Chọn ngẫu nhiên 341 bệnh nhân đến khám sức khỏe tại Bệnh viện Đại học Y dƣợc TPHCM trong khoảng thời gian từ tháng 10/2021 đến 05/2022 và xác định nồng độ vitamin D bằng phƣơng pháp miễn dịch hóa phát quang trên máy Architect.
1Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
2Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Băng Sƣơng Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 20.5.2022
Ngày phản biện khoa học: 27.5.2022 Ngày duyệt bài: 2.6.2022
Kết quả: Giá trị vitamin D trung bình của dân số nghiên cứu là 25,54 ± 9,03 ng/ml trong đó, ở nam và nữ lần lƣợt là 27,07 ± 9,86 ng/ml và 24,42 ± 8,20 ng/ml. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D (≤
20 ng/ml) trong dân số nghiên cứu là 25,51%
trong đó 19,44% đối với nam và 29,95% đối với nữ. Nồng độ vitamin D trung bình cao nhất là 27,27 ± 7,82 ng/ml ở nhóm 40-49 tuổi. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D (≤ 20 ng/ml) cao nhất trong nhóm trên 80 tuổi chiếm 61,54% và thấp nhất ở nhóm 40-49 tuổi chiếm 10,61%. Nồng độ vitamin D trung bình thấp nhất là 24,21 ± 9,20 ng/ml tại Thành phố Hồ Chí Minh và cao nhất là 34,15 ± 14,92 ng/ml ở khu vực Bắc Trung Bộ. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D (≤ 20 ng/ml) cao nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 31,43% và không có sự thiếu hụt vitamin D ở khu vực Bắc Trung Bộ.
Kết luận: Nghiên cứu này bƣớc đầu cung cấp dữ liệu về mức độ vitamin D lƣu hành trong máu và tình trạng thiếu hụt vitamin D theo giới tính, theo nhóm tuổi và các khu vực sinh sống của đất nƣớc.
Từ khóa: thiếu vitamin D, 25-hydroxyvitamin D.
SUMMARY
SURVEY OF VITAMIN D
CONCENTRATION IN AGE GROUPS BY USING CHEMILUMINESCENT
IMMUNOASSAY
Background: Vitamin D deficiency is a common problem in the world. An inadequate level of vitamin D has been linked to a number of diseases including osteoporosis and osteomalacia
metabolic as well as cancers, cardiovascular diseases, and diabetes. Many people face a risk of vitamin D deficiency due to lack of appropriate sunlight exposure, reduced intake of dietary vitamin D, poor absorption, use of antiepileptic drugs and long-term glucocorticoids. An increasing number of patients are being advised to take vitamin D supplements or take higher doses during treatment to reduce risk of osteoarthritis and chronic disease. Nowadays, there are many studies on vitamin D deficiency in adults in the world, however, vitamin D deficiency in Vietnam has not yet had sufficient data.
Objective: To survey vitamin D levels among age groups at risk of vitamin D deficiency.
Initially establish baseline data on vitamin D status for selected population groups in Vietnam.
Object-Method: Descriptive cross-sectional study was conducted with 341 patients randomly to have a physical examination at the University Medical Center in Ho Chi Minh City from October 2021 to May 2022 and determine the concentration of Vitamin D by using Chemiluminescent Immunoassay.
Results: The average vitamin D value of the study population was 25.54 ± 9.03 ng/ml, for men and women were 27.07 ± 9.86 ng/ml and 24.42 ± 8.20 ng/ml, respectively. The rate of vitamin D deficiency (≤ 20 ng/ml) in the study population was 25.51% with 19.44% and 29.95%
for men and women. The highest mean vitamin D concentration was 27.27 ± 7.82 ng/ml in the 40- 49 years group. The rate of vitamin D deficiency (≤ 20 ng/ml) is highest in the group of over 80 years, accounting for 61.54% and lowest in the group of 40-49 years, accounting for 10.61%.
The lowest average vitamin D concentration was 24.21 ± 9.20 ng/ml in Ho Chi Minh City and the highest was 34.15 ± 14.92 ng/ml in the North Central region. The rate of vitamin D deficiency
(≤ 20 ng/ml) was highest in Ho Chi Minh City, accounting for 31.43% and there was no vitamin D deficiency in the North Central region.
Conclusion: This study initially provided data on vitamin D levels in the blood and vitamin D deficiency by sex, age groups and regions of the country.
Key words: Vitamin D deficiency, 25- hydroxyvitamin D.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vitamin D đóng vai trò chủ yếu trong hoạt động của xƣơng khớp. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu đã cho thấy vitamin D cũng giúp điều chỉnh sự phát triển của tế bào và ngăn ngừa sự tiến triển của ung thƣ. Do đó, sự thiếu hụt vitamin D có thể góp phần vào sự tiến triển của bệnh ung thƣ, tim mạch, tiểu đƣờng, bệnh đa xơ cứng, viêm khớp dạng thấp và các tình trạng tự miễn dịch khác [2], [3], [4].
Vitamin D đƣợc tạo ra chủ yếu từ bức xạ UVB tác động lên da, kích thích chuyển hóa 7-dehydrocholesterol thành tiền vitamin D.
Một lƣợng nhỏ vitamin D đƣợc thu nhận thông qua chế độ ăn uống từ các nguồn động vật và thực vật. Tiền vitamin D đến gan và chuyển hóa thành 25-hydroxyvitamin D (25- OHD). Đây là dạng tuần hoàn chủ yếu trong máu và đƣợc dùng để đánh giá tình trạng vitamin D của cơ thể. Khi nồng độ 25-OHD dƣới 20 ng/ml thì đƣợc xem là thiếu vitamin D [1], [3].
Tình trạng thiếu hụt Vitamin D là vấn đề thƣờng gặp trên thế giới. Con ngƣời đối mặt với nguy cơ thiếu hụt vitamin D do ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, chế độ ăn, hấp thu kém, dùng các thuốc chống động kinh và dùng glucocorticoid lâu dài [4], [8]. Ngày càng có nhiều bệnh nhân đƣợc khuyên uống bổ sung vitamin D hoặc dùng liều cao hơn
thông qua điều trị để giảm nguy cơ mắc các bệnh về xƣơng khớp và bệnh mãn tính [6].
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về tình trạng thiếu vitamin D ở ngƣời lớn, tuy nhiên tình trạng thiếu vitamin D tại Việt Nam chƣa có dữ liệu đầy đủ. Do đó, nghiên cứu đƣợc tiến hành để xác định mức độ vitamin D theo nhóm tuổi, giới tính và nơi cƣ trú để bƣớc đầu xây dựng dữ liệu nền về tình trạng vitamin D tại Việt Nam.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Gồm 341 bệnh nhân đƣợc chọn ngẫu nhiên đến khám sức khỏe tại bệnh viện Đại học Y dƣợc Tp.HCM trong khoảng thời gian từ tháng 10/2021 đến 05/2022.
Cỡ mẫu: 341 ngƣời.
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Nghiên cứu đặc điểm chung: phân tích mối liên quan giữa giới tính, nhóm tuổi và nơi cƣ trú và hàm lƣợng vitamin D.
Phƣơng pháp đo lƣờng vitamin D: nồng độ vitamin D trong máu đƣợc định lƣợng bằng phƣơng pháp miễn dịch hóa phát quang trên máy Architect.
Xử lý kết quả: phƣơng pháp thống kê y học SPSS.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng số 341 bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên đƣợc đƣa vào nghiên cứu. Bảng 1 cho thấy các đặc điểm của dân số nghiên cứu. Những ngƣời tham gia nghiên cứu là phụ nữ chiếm 57,78%. Nhóm tuổi đƣợc chia theo từng khoảng 10 năm. Có 41,05% ngƣời tham gia nghiên cứu sống tại Thành phố Hồ Chí Minh và 58,95% ở các tỉnh thành khác trong nƣớc bao gồm miền Trung và miền Nam.
Bảng 1: Đặc điểm của dân số nghiên cứu
Thông số n=341 (%)
Giới tính Nam 144 (42,22)
Nữ 197 (57,78)
Nhóm tuổi (năm) 18-19 2 (0,59)
20-29 24 (7,03)
30-39 79 (23,67)
40-49 66 (19,35)
50-59 55 (16,12)
60-69 62 (18,18)
70-79 27 (7,91)
80+ 26 (7,62)
Nơi sinh sống TP.HCM 140 (41,05)
Tỉnh, thành khác 201 (58,95)
Bắc Trung Bộ 2 (0,59)
Duyên hải Nam Trung Bộ 16 (4,69)
Trung Tây Nguyên 17 (4,98)
Đông Nam Bộ 66 (19,35)
Tây Nam Bộ 100 (29,33)
Mối liên quan giữa hàm lƣợng vitamin D và giới tính. Trong tổng số 341 bệnh nhân đến khám bệnh, có 144 có bệnh nhân nam và 197 bệnh nhân nữ với tỉ lệ tƣơng ứng lần lƣợt là 42,22% và 57,78%. Tỉ lệ bệnh nhân nữ/nam là 1,37/1. Giá trị vitamin D của dân số nghiên cứu là 25,54 ± 9,03 ng/ml trong đó, ở nam và nữ lần lƣợt là 27,07 ± 9,86 ng/ml và 24,42 ± 8,20 ng/ml. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D (≤ 20 ng/ml) trong dân số nghiên cứu là 25,51% trong đó 19,44% đối với nam và 29,95% đối với nữ.
Mối liên quan giữa hàm lƣợng vitamin D và nhóm tuổi
Tuổi trung bình của nhóm tham gia
nghiên cứu là 51,24 ± 17,21 tuổi với độ tuổi dao động từ 18 đến 100 tuổi và nhóm tuổi đại diện nhất là 30-39 tuổi chiếm 23,67%.
Không có sự chênh lệch đáng kể ở độ tuổi trung bình giữa nam (51,318 ± 17,02 tuổi) và nữ (51,19 ± 17,40 tuổi). Nồng độ vitamin D trung bình thấp nhất là 18,06 ± 8,09 ng/ml và 19,65 ± 6,58 ng/ml ở nhóm trên 80 tuổi và nhóm 18 tuổi. Nồng độ vitamin D trung bình cao nhất là 27,27 ± 7,82 ng/ml ở nhóm 40-49 tuổi. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D (≤ 20 ng/ml) cao nhất trong nhóm trên 80 tuổi chiếm 61,54% và thấp nhất ở nhóm 40-49 tuổi chiếm 10,61%. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D theo nhóm tuổi đƣợc trình bày trong Hình 1.
Hình 1: Tỉ lệ (%) thiếu hụt vitamin D theo nhóm tuổi Mối liên quan giữa hàm lƣợng vitamin
D và nơi cƣ trú. Kết quả khảo sát hàm lƣợng vitamin D đƣợc thực hiện trên 341 ngƣời, trong đó có 140 ngƣời sống tại Thành phố Hồ Chí Minh và 201 ngƣời ở các tỉnh thành khác trong nƣớc chiếm tỉ lệ lần lƣợt là 41,05% và 58,95%. Trong số các tỉnh thành khác chủ yếu sống ở khu vực miền Nam bao gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ chiếm 82,59% và khu vực miền Trung bao gồm Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ và
Trung Tây Nguyên chiếm 17,41%.
Nồng độ vitamin D trung bình thấp nhất là 24,21 ± 9,20 ng/ml tại Thành phố Hồ Chí Minh và cao nhất là 34,15 ± 14,92 ng/ml ở khu vực Bắc Trung Bộ. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D (≤ 20 ng/ml) cao nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 31,43% và không có sự thiếu hụt vitamin D ở khu vực Bắc Trung Bộ. Nồng độ và tỉ lệ thiếu hụt vitamin D theo khu vực sinh sống đƣợc trình bày trong Hình 2.
Hình 2: Nồng độ và tỉ lệ (%) thiếu hụt vitamin D theo khu vực sinh sống
Chỉ có vùng duyên hải Nam Trung Bộ tỉ lệ nam thiếu vitamin D (14,29%) cao hơn nữ (11,11%). Ngƣợc lại, tỉ lệ thiếu hụt vitamin D ở nữ cao hơn nam ở các khu vực còn lại, trong đó nữ giới ở Thành phố Hồ Chí Minh thiếu hụt vitamin cao nhất chiếm 34,94%. Tỉ lệ thiếu hụt vitamin D giữa nam và nữ theo khu vực sinh sống đƣợc trình bày trong Hình 3.
Hình 3: Tỉ lệ (%) thiếu hụt vitamin D giữa nam và nữ theo khu vực sinh sống
IV. BÀN LUẬN
Tình trạng thiếu hụt Vitamin D là vấn đề thƣờng gặp trên thế giới. Tình trạng thiếu hụt vitamin D thƣờng xảy ra ở nữ giới. Tại Áo, có khoảng 4% phụ nữ thiếu vitamin D, trong khi tỉ lệ này tại Malysia là 71%. Kết quả
nghiên cứu cho thấy 29,95% phụ nữ Việt Nam thiếu vitamin D thấp hơn nhiều so với Malyasia [3], [5], [7]. Nguyên nhân có thể là do phụ nữ Việt Nam tiếp xúc với ánh nắng nhiều hơn hoặc do chế độ ăn, bổ sung vitamin D.
Tình trạng vitamin D theo nhóm tuổi cho thấy mức vitamin D trung bình là 24,04 ng/ml và có sự giảm theo độ tuổi. Tuy nhiên, đối với nhóm 18-19 tuổi vì số mẫu quá ít (2 mẫu) nên cho kết quả dƣới ngƣỡng cũng chƣa phản ánh đƣợc mức vitamin D ở nhóm này. Đối với các nhóm tuổi còn lại, kết quả tƣơng tự nhƣ một nghiên cứu đƣợc thực hiện tại Mỹ năm 2000-2004 [3].
Kết quả điều tra vi chất ở 19 tỉnh của Việt Nam năm 2010 cho thấy, khẩu phần vitamin D hàng ngày chỉ cung cấp 8,0% nhu cầu khuyến nghị của phụ nữ. Tỉ lệ thiếu vitamin D là 59,3% phụ nữ ở thành thị, 56,2% phụ nữ nông thôn [8]. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thiếu hụt vitamin D của phụ nữ tại thành phố Hồ Chí Minh là 34,94% và phụ nữ ở tỉnh thành khác là 26,32%. Kết quả cho thấy có sự cải thiện về tình trạng thiếu vitamin D ở phụ nữ. Đối tƣợng cƣ trú ở Thành phố Hồ Chí Minh có mức vitamin D trung bình là 24,21 ng/ml thấp hơn so với các vùng khác của đất nƣớc. Kết quả này tƣơng tự nhƣ nghiên cứu tại Bangkok, Thái Lan [3], [7].
Trong khu vực đối tƣợng sinh sống ở đô thị, vitamin D lƣu hành trong máu thấp hơn, điều này có thể phản ánh ít thời gian ra ngoài trời hoặc do che chắn khi ra ngoài trời hoặc do tình hình ô nhiễm không khí.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này bƣớc đầu cung cấp dữ liệu về mức độ vitamin D lƣu hành trong máu và tình trạng thiếu hụt vitamin D theo giới tính, theo nhóm tuổi và các khu vực sinh
sống của đất nƣớc. Để có thể xây dựng dữ liệu nền về tình trạng vitamin D tại Việt Nam, chúng tôi đề nghị tiến hành nghiên cứu trên dân số rộng hơn, đánh giá so sánh mối liên quan giữa vitamin D và tình trạng sức khỏe.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự (2010),
“Thiếu vitamin D trong cộng đồng: thực trạng và yếu tố nguy cơ”, Thời sự Y học, (46), tr. 3- 10.
2. Amrein Karin, et al. (2020), “Vitamin D deficiency 2.0: an update on the current status worldwide”, European Jour of Clin Nutrition, 74(11), p. 1498-1513.
3. Edwards M. H., et al. (2014), “The global epidemiology of vitamin D status”, J Aging Res Clin Prac, 3(3), p148-58.
4. Holick M. F. (2007), “Vitamin D deficiency”, N Engl J Med, p. 266-357.
5. Hawkins R. C. (2009), “25-OH vitamin D3 concentrations in Chinese, Malays and Indian”, Clin Chem, 55, p. 1749-1751.
6. Kauffman J. M. (2009), “Benefits of Vitamin D Supplementation”, J of Amer Phys and Surg, 14(2), p. 38-45.
7. Malhotra N., Ambrish M. (2009), “Vitamin D status in Asia”, International Osteoporosis Foundation, p. 1-3.
8. Rucker D., et al. (2002), “Vitamin D insufficiency in a population of healthy western Canadians”, Can Med, 166(12), p.
1517-1524