• Tidak ada hasil yang ditemukan

KHẢO SÁT ÂM ỐC TAI Ở TRẺ NGHE KÉM BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020-2021

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "KHẢO SÁT ÂM ỐC TAI Ở TRẺ NGHE KÉM BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020-2021"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

KHẢO SÁT ÂM ỐC TAI Ở TRẺ NGHE KÉM BẨM SINH

TẠI BỆNH VIỆN TAI MŨI HỌNG TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020-2021

Phan Trường Vương Phú1, Trần Thị Bích Liên2

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Nghe là một giác quan rất quan trọng ở trẻ em. Nghe kém bẩm sinh là những trẻ sinh ra đã bị nghe kém. Âm ốc tai cho thấy có nhiều ưu điểm trong việc chẩn đoán và đánh giá nghe kém ở trẻ.

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và kết quả đo âm ốc tai ở trẻ nghe kém bẩm sinh.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả hàng loạt ca với 102 trẻ nghe kém bẩm sinh đủ điều kiện tham gia nghiên cứu tại bệnh viện Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2020 đến năm 2021.

Kết quả: Lý do khám và phát hiện nghe kém thường gặp nhất là chậm nói (55,9%). Tuổi được chẩn đoán lần đầu trung bình 31,7 tháng. Âm ốc tai chưa đạt ở cả 2 tai là 100 trẻ, đạt ở cả 2 tai là 2 trẻ. Âm ồn càng cao khi tần số f2 càng thấp và thường có giá trị thấp các trẻ lớn tuổi hơn.

Kết luận: Độ tuổi phát hiện nghe kém bẩm sinh ở nước ta còn cao, đa phần nghe kém bẩm sinh do tổn thương tại ốc tai.

Từ khóa: nghe kém bẩm sinh, âm ốc tai

ABSTRACT

OTOACOUSTIS EMISSIONS IN CONGENITAL HEARING LOSS CHILDREN AT TOLARYNGOLOGY HOSPITAL OF HO CHI MINH CITY FROM 2020 TO 2021

Phan Truong Vuong Phu, Tran Thi Bich Lien

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 285-291 Background: Hearing is very important to children. Congenital hearing loss means hearing loss that is present at birth. Otoacoustic emission has a lot of advantages to diagnose and evaluate hearing loss in children.

Objectives: To describe clinical features and analyse otoacoustic emission results in congenital hearing loss children.

Methods: A series descriptive, prospective study was carried out on 102 children with confirmed diagnosis of congenital hearing loss at Otolaryngology Hospital of Ho Chi Minh City from 2020 to 2021.

Results: Speech delay is the most reason for going to doctor (55.9%). The first time to diagnose congenital hearing loss is 31.7 months. 100 children have “prefer” in otoacoustic emission results, when 2 children have “pass”

in both ears. Noise is high when we use low frequency. Older children have lower noise than younger children.

Conclusions: Children were diagnosed congenital hearing loss at the higher age. Most of them have abnormal cochlear.

Key words: congenital hearing loss, otoacoustic emission

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghe là một giác quan vô cùng quan trọng của con người, đặc biệt đối với trẻ em trong 5

năm đầu đời nếu chức năng nghe bị suy giảm sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ(1). Tuy nhiên, một số trẻ không may mắn bị nghe kém

1Trung Tâm Y Tế TP. Vĩnh Long 2Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

Tác giả liên lạc: BS. Phan Trường Vương Phú ĐT: 0783277027 Email: [email protected]

(2)

bẩm sinh, đó l| những trẻ bị khiếm khuyết về chức năng thính gi{c ngay từ khi được sinh ra.

Không nghe được sẽ không nói được, không diễn đạt được ý nghĩ của trẻ, làm trẻ bị tách biệt khỏi xã hội(2). Nguyên nhân gây nghe kém bẩm sinh có thể do gen hoặc các yếu tố mắc phải trong quá trình mẹ mang thai như nhiễm Rubella, Cytomegalovirus, hay sử dụng các loại thuốc gây ngộ độc thính gi{c< Trẻ nghe kém bẩm sinh sẽ không nghe được âm thanh ngay từ lúc ch|o đời, do vậy việc phát hiện sớm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc can thiệp phục hồi chức năng thính gi{c v| ngôn ngữ cho trẻ. V|o năm 1978, David K l| người đầu tiên đưa ra kh{i niệm âm ốc tai(3). Âm ốc tai phản ánh sự hoạt động của tế bào lông ngoài, là những tế bào nhạy cảm nhất của cơ quan Corti. Kể từ khi ra đời, việc đo }m ốc tai cho thấy có nhiều ưu điểm trong việc chẩn đo{n v| đ{nh gi{ sức nghe ở trẻ em. Đặc biệt ở trẻ nghe kém bẩm sinh, âm ốc tai còn giúp nhận định sơ bộ nghe kém là do c{c nguyên nh}n trước ốc tai hay sau ốc tai, giúp ích cho việc lựa chọn phương pháp phục hồi chức năng thính gi{c phù hợp cho trẻ. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài này với 2 mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng ở trẻ nghe kém bẩm sinh, phân tích kết quả đo }m ốc tai ở trẻ nghe kém bẩm sinh.

ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu

102 trẻ nghe kém bẩm sinh đến khám tại khoa Thính học bệnh viện Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh từ 08/2020 đến 05/2021.

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Trẻ em từ 15 tuổi trở xuống;

Được chẩn đo{n nghe kém bẩm sinh;

Không có yếu tố gây nghe kém mắc phải sau sinh theo khuyến cáo của Kenna MA 2015(4):

+ Từng mắc những bệnh lý có thể gây khiếm thính như: sởi, quai bị, viêm não, viêm màng não, viêm tai giữa.

+ Nghe kém sau các chấn thương đầu, chấn thương tai, sử dụng thuốc gây ngộ độc thính

giác, hóa trị, xạ trị vùng đầu mặt, chấn thương }m thanh, điếc thần kinh gi{c quan đột ngột.

+ Trẻ sơ sinh phải nằm hồi sức trên 5 ngày, trẻ sinh non, nhẹ cân, sinh ngạt, bệnh màng trong, phải thở máy, dùng các thuốc độc cho tai, vàng da nhân, lọc máu.

Được đo }m ốc tai méo tiếng.

Người nhà bệnh nh}n đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ

Bệnh nhân hiện đang có bệnh lý viêm nhiễm ở tai ngoài hoặc tai giữa.

Đã phẫu thuật cấy ốc tai điện tử.

Đã phẫu thuật tai giữa.

Có các yếu tố gây nghe kém mắc phải sau sinh theo khuyến cáo của Kenna MA.

Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu tiến cứu, mô tả hàng loạt ca.

Phương pháp thực hiện

X{c định nghe kém bẩm sinh:

- Khi bệnh nhi đến khám vì các vấn đề liên quan đến thính gi{c, người l|m đề tài trực tiếp tham gia khám bệnh, ghi nhận tiền sử, bệnh sử, triệu chứng cơ năng, thực thể. Thăm kh{m tai sơ bộ bằng đèn soi tai để kiểm tra tình trạng ống tai ngoài và tai giữa. C{c trường hợp khó đ{nh gi{

bằng đèn soi tai sẽ được chỉ định nội soi chẩn đo{n. Nếu ống tai ngoài có nhiều ráy tai thì trẻ cần được lấy sạch trước khi tiến hành các nghiệm ph{p thăm dò chức năng thính học.

- Đối với trẻ đã được chẩn đo{n nghe kém bẩm sinh: Bệnh nh}n đến khoa Thính học bệnh viện Tai mũi họng thành phố Hồ Chí Minh khám và làm các nghiệm ph{p thăm dò chức năng thính gi{c nhằm mục đích gi{m định y khoa (làm thủ tục hưởng các chính sách của nhà nước, đi học tại c{c trường dành riêng cho trẻ khiếm thính) hoặc gia đình có ý định khám và cấy ốc tai điện tử cho trẻ.

- Đối với trẻ chưa được chẩn đo{n nghe kém bẩm sinh, bệnh nh}n đến khám vì các dấu hiệu

(3)

có liên quan đến nghe kém thì sẽ được làm các nghiệm ph{p thăm dò chức năng thính gi{c để chẩn đo{n x{c định, bao gồm:

+ Với các trẻ lớn hơn bằng 2 tuổi, hợp tác và hiểu c{ch đo có thể đ{nh gi{ sức nghe bằng đo thính lực đơn }m hoặc thính lực đồ chơi.

+ Với những trẻ nhỏ 2 tuổi hoặc những trẻ có kết quả đo thính lực đơn }m, thính lực đồ chơi không phù hợp lâm sàng sẽ được đo điện thính giác thân não (ABR) để ước lượng mức độ nghe kém.

- Sàng lọc nghe kém bẩm sinh bằng cách hỏi lại tiền sử, bệnh sử lúc mẹ mang thai:

+ Các bệnh mẹ mắc phải lúc mang thai như Rubella, giang mai, Cytomegalovirus, Herpes<) hay dùng thuốc trong thai kỳ (aminoglycoside, thuốc chống ung thư, thuốc lợi tiểu<) đã được chứng minh có thể gây khiếm thính cho trẻ.

+ Loại trừ c{c trường hợp đã được chẩn đo{n nghe kém mắc phải hoặc có yếu tố nguy cơ g}y nghe kém mắc phải sau sinh theo Kenna MA (2015).

Ngoài ra, các bệnh nhân (BN) còn được làm các nghiệm ph{p thăm dò chức năng thính gi{c kh{c: nhĩ lượng đồ, phản xạ cơ b|n đạp, âm ốc tai.

Các bước đo âm ốc tai méo tiếng

Bước 1: Chọn núm tai vừa với kích thước ống tai ngoài của trẻ.

Bước 2: Đối với trẻ hợp tác tốt, hướng dẫn trẻ ngồi yên, không nói chuyện hay cử động khi đo;

đối với trẻ ≤12 th{ng tuổi thì hướng dẫn người nhà ru bé ngủ tự nhiên và chỉ tiến h|nh đo khi trẻ đã ngủ say; đối với trẻ > 12 tháng tuổi và không hợp tác tốt thì cho bé uống thuốc ngủ, chỉ tiến h|nh đo khi trẻ ngủ.

Bước 3: Tiến h|nh đo: người đo khởi động máy, kéo nhẹ dái tai trẻ theo hướng ra sau và lên trên, sau đó đưa núm tai v|o ống tai ngoài của trẻ sao cho thật vừa vặn và tiến hành bấm nút đo. M{y sẽ tự động đo 4 tần số f2 ở 2000 Hz, 3000 Hz, 4000 Hz và 5000 Hz, mỗi tần số được đo trong vòng 2 đến 4 giây, tỷ lệ L1/L2 được

phần mềm tự động biến thiên sao cho >1.

Bước 4: Ghi nhận các chỉ số: Biên độ âm ốc tai (DP), âm ồn (NF), tỷ lệ tín hiệu trên âm ồn (SNR).

Sau khi tiến hành hỏi tiền sử, bệnh sử, thăm khám và thực hiện các nghiệm ph{p thăm dò chức năng thính học, tiến hành chọn bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu.

Phân tích số liệu

Sử dụng thống kê mô tả để mô tả c{c đặc tính bằng số liệu được thu thập từ nghiên cứu.

Các biến số được kiểm định tính phân phối, mô tả bởi số trung bình, độ lệch chuẩn và các giá trị cực đại.

Sử dụng kiểm định ANOVA để so sánh nhiều biến định lượng.

Dựa vào kết quả thu được, chúng tôi tiến hành so sánh với các nghiên cứu kh{c đã được công bố trong nước và trên thế giới. Từ đó, chúng tôi đưa ra những nhận xét và kết luận về sự tương đồng cũng như sự khác biệt.

Y đức

Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, số: 479/HĐĐĐ-ĐHYD ngày 20/08/2020.

KẾT QUẢ

Từ 08/2020 đến 05/2021, chúng tôi ghi nhận được 102 trẻ nghe kém bẩm sinh thỏa mãn các tiêu chuẩn nghiên cứu.

Một số đặc điểm thống kê

Độ tuổi trung bình của trẻ nghe kém bẩm sinh trong nghiên cứu là 65,0 ± 40,7 tháng tuổi (5,4 ± 3,4 tuổi), tuổi thấp nhất là 11 tháng tuổi, cao nhất là 168 tháng tuổi (14 tuổi).

Trẻ nam chiếm tỷ lệ 52,9%, trẻ nữ chiếm 47,3%.

Đặc điểm lâm sàng

Có 7 trẻ được sinh ra trong gia đình tiền sử nghe kém bẩm sinh (6,9%). Tuổi được chẩn đo{n nghe kém lần đầu trung bình l| 31,7 th{ng (hơn 2,5 tuổi), sớm nhất là 2 tháng và trễ nhất là 108

(4)

tháng (9 tuổi). Lý do đi kh{m chiếm tỷ lệ cao nhất là chậm nói (55,9%), không phản ứng âm thanh (32,3%), nói ngọng (6,8%), nghi ngờ nghe kém (2%), sàng lọc sơ sinh không đạt (2%), học kém (1%). Tim bẩm sinh là loại dị tật kèm theo có tỷ lệ cao nhất (4,9%), kế đến là mắt xanh (2,9%), tật khúc xạ bẩm sinh (2,0%), đục thủy tinh thể (2,0%), tim bẩm sinh kèm đục thủy tinh thể (1,0%). Đa phần trẻ không có dị tật hay bệnh lý kèm theo (86,2%).

Kết quả thăm dò chức năng thính giác

Tất cả c{c trường hợp trong nghiên cứu đều có kết quả đo nhĩ lượng đồ type A và phản xạ cơ b|n đạp âm tính.

Có 41 trẻ hợp tác tốt và hiểu c{ch đo được tiến h|nh đo thính lực đơn }m hoặc thính lực đồ chơi cho kết quả ngưỡng nghe trung bình đơn }m (PTA) trung bình ở tai trái là 91,8 dB và ở tai phải là 90,4 dB. Có 80 trẻ được đo điện thính gi{c th}n não, trong đó có 60 tai tr{i v|

60 tai phải không xuất hiện sóng V khi cường độ kích thích >110 dB.

Sau khi đo thính lực và/hoặc đo điện thính giác thân não, chúng tôi tiến h|nh ph}n độ nghe

kém cho trẻ. Đa phần các trẻ điếc sâu với tai trái chiếm tỷ lệ 77,5%, tai phải chiếm tỷ lệ 76,5%.

Không có trường hợp nào nghe kém nhẹ hoặc rất nhẹ trong nghiên cứu (Bảng 1).

Bảng 1: Phân bố mức độ nghe kém

Độ nghe kém

Tai trái (N=102) Tai phải (N=102) Số

lượng Tỷ lệ (%)

Số

lượng Tỷ lệ (%)

Rất nhẹ 0 0 0 0

Nhẹ 0 0 0 0

Trung bình 3 2,9 4 3,9

Trung bình – nặng 7 6,9 6 5,9

Nặng 13 12,7 14 13,7

Điếc sâu 79 77,5 78 76,5

Có 100 trường hợp (98,0%) cho kết quả đo âm ốc tai Không đạt v| 2 trường hợp (2,0%) cho kết quả Đạt trong nghiên cứu của chúng tôi.

Về kết quả đo }m ồn cho thấy âm ồn có xu hướng giảm dần theo sự gia tăng của tần số (Hình 1).

SNR nhỏ nhất ở tần số 3000 Hz ở cả hai tai. Ở tai trái, SNR cao nhất ở tần số 5000 Hz, đối với tai phải, SNR cao nhất ở 4000 Hz (Bảng 2).

Hình 1: Trung bình âm ồn theo tần số Bảng 2: SNR trung bình theo tần số

Tần số (Hz)

Tai trái Tai phải

Trung bình Độ lệch chuẩn Min Max Trung bình Độ lệch chuẩn Min Max

2000 1,0 5,8 -19,3 15,5 0,1 5,9 -17,1 13,5

3000 -0,6 5,6 -14,8 12,8 -0,7 5,1 -13,8 13,2

4000 1,3 5,0 -15,8 17,2 1,2 4,7 -9,2 11,6

5000 1,7 4,2 -4,5 17,2 0,7 4,1 -10,7 17,2

(5)

Bảng 3: SNR trung bình theo nhóm tuổi tai trái

Tần số (Hz)

Tuổi 2000 3000 4000 5000 Trung bình

< 2 0,1 -1,7 0,3 3,5 0,6

2 – 6 1,0 0,0 2,1 1,7 1,2

6 – 10 1,9 -0,5 0,2 0,8 0,6

>10 -0,1 -1,6 2,6 0,7 0,4

P (ANOVA) 0,7 0,7 0,3 0,2 0,7

Bảng 4: SNR trung bình theo nhóm tuổi tai phải

Tần số (Hz)

Tuổi 2000 3000 4000 5000 Trung bình

< 2 -0,2 -2,0 0,7 -0,7 -0,6

2 – 6 -0,7 -0,5 1,5 1,2 0,4

6 – 10 2,7 -0,3 0,4 1,5 1,1

>10 -3,0 -0,6 3,0 -0,7 -0,3

p (ANOVA) 0,2 0,7 0,4 0,2 0,2

Ở cả 2 tai, sử dụng kiểm định ANOVA thấy không có sự khác biệt SNR giữa các nhóm tuổi trong mỗi tần số (Bảng 3, Bảng 4).

BÀN LUẬN

Một số đặc điểm thống kê

Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của một số tác giả kh{c như Nguyễn Xuân Nam (40,7 tháng), Phạm Đình Nguyên (45,86 th{ng)(2,5). Sự khác biệt này do đề t|i được thực hiện tại bệnh viện Tai Mũi Họng Thành phố Hồ Chí Minh, nơi đ}y có chức năng gi{m định khiếm thính, do đó, nhiều trẻ nghe kém bẩm sinh ở tuổi đi học đến làm các nghiệm ph{p thăm dò chức năng nghe để làm thủ tục theo học c{c trường phục hồi chức năng.

Tỷ lệ bé trai cao hơn bé g{i trong nghiên cứu, điều này là phù hợp với tỷ suất sinh tự nhiên ở nước ta.

Đặc điểm lâm sàng

Tỷ lệ nghe kém bẩm sinh có yếu tố gia đình l| không cao. Do đó nếu chúng ta chỉ thực hiện tầm soát khiếm thính ở những trẻ có tiền sử gia đình sẽ rất dễ bỏ sót, làm chậm trễ quá trình chẩn đo{n v| can thiệp phục hồi chức năng thính giác cho trẻ.

Đa phần người nhà chỉ đưa bé đi kh{m khi nhận thấy bé chậm nói, chiếm 55,9%. Tỷ lệ phát

hiện nghe kém do nhận thấy bé không phản ứng âm thanh chỉ chiếm 32,3%. Điều này cho thấy người nh| thường ít chú ý đến việc phản xạ với âm thanh của trẻ, chỉ nhận ra bất thường khi đến tuổi tập nói mà trẻ vẫn chưa nói theo được, thường là sau 2 tuổi.

Độ tuổi trung bình được chẩn đo{n nghe kém lần đầu trong nghiên cứu của chúng tôi tương đối cao. Đa phần trẻ được chẩn đo{n sau 2 tuổi, điều n|y dẫn đến việc thực hiện c{c can thiệp phục hồi chức năng thính gi{c thường chậm trễ, g}y ảnh hưởng lớn đến khả năng ph{t triển ngôn ngữ v| c{c kĩ năng xã hội kh{c của trẻ. Với các nghiên cứu được thực hiện tại một số quốc gia phát triển, thời điểm phát hiện nghe kém thường sớm hơn ở nước ta như nghiên cứu của Kennedy CR tiến h|nh tại Anh thì tất cả c{c trường hợp nghe kém được ph{t hiện trước 9 th{ng tuổi đều do chương trình tầm so{t khiếm thính ở trẻ sơ sinh(6).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 88 trẻ (86,3%) nghe kém nhưng không có bất kì dị tật hay bệnh lý kèm theo. Dị tật chiếm tỷ lệ cao nhất l| tim bẩm sinh với 5 trẻ mắc phải (4,9%). Có 3 trường hợp m|u mắt xanh bất thường, kèm theo khoảng c{ch 2 mắt xa nhau. Đ}y l| những đặc điểm thường gặp trong hội chứng Waardenburg – một hội chứng do đột biến gen trội trên nhiễm sắc thể thường, tuy nhiên cả 3 trường hợp đều chưa được l|m c{c xét nghiệm về di truyền để chẩn đo{n x{c định.

Kết quả thăm dò chức năng thính giác

Có 41 trẻ được đo thính lực đơn }m. Ở trẻ em, việc đo thính lực }m đơn có phần khó khăn hơn người lớn, đặc biệt l| ở trẻ nghe kém. Trẻ thường không tập trung v| mau nh|m ch{n. Vì vậy đòi hỏi người đo cần kiên nhẫn v| có kinh nghiệm để kết quả chính x{c. Ở trẻ nhỏ hơn 2 tuổi hoặc trẻ không hợp t{c để đo thính lực đơn âm, khi có nghi ngờ nghe kém sẽ được tiến hành đo điện thính gi{c th}n não. Cường độ kích thích

(6)

làm xuất hiện sóng V sẽ gián tiếp cho chúng ta biết ngưỡng nghe của bệnh nh}n. Ngo|i ra đo điện thính giác thân não kết hợp với âm ốc tai cũng giúp gợi ý vị trí tổn thương (tại ốc tai hoặc sau ốc tai) ở những trường hợp nghe kém, từ đó đưa ra được chẩn đo{n v| hướng can thiệp phục hồi chức năng thính gi{c phù hợp. Sau khi đo thính lực đơn }m v|/hoặc điện thính giác thân não, chúng tôi ph}n độ nghe kém cho trẻ được kết quả ở tai tr{i có 12,7% nghe kém mức độ nặng v| 77,5% nghe kém ở mức độ s}u, đối với tai phải, tỷ lệ nghe kém mức độ nặng v| s}u lần lượt l| 13,7% v| 76,5%. Có thể thấy, đa phần c{c trẻ nghe kém bẩm sinh đến kh{m có ph}n độ nghe kém từ mức nặng trở lên. Với ph}n độ nghe kém c|ng cao thì sẽ c|ng ít sự lựa chọn trong việc phục hồi chức năng thính gi{c cho trẻ.

Chỉ 2 bệnh nhân (2,0%) cho kết quả âm ốc tai đạt (pass) cả tai tai. Âm ốc tai đ{nh gi{ c{c chức năng nghe trước thần kinh, nó vẫn xuất hiện trong trường hợp tổn thương sau ốc tai. Do đó, với hai trường hợp nghe kém bẩm sinh có kết quả đo }m ốc tai đạt chúng tôi nghi ngờ nguyên nhân nghe kém là do các bất thường bẩm sinh sau ốc tai.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, cường độ âm ồn (NF – noise floor) lớn nhất ghi nhận được khi đo ở tần số f2 = 2000 Hz v| có xu hướng giảm dần khi tần số f2 tăng. Âm ồn có thể được sinh ra do sự cử động, nhịp thở, trẻ nuốt nước bọt lúc đo. Ngo|i ra nó còn do }m thanh của môi trường xung quanh. Một số nghiên cứu cũng cho kết quả cường độ âm ồn giảm khi tăng tần số f2 như nghiên cứu của Gorga MP, Lasky

RE(7,8). Các tác giả giải thích rằng âm ồn sinh ra

do sự vận động hoặc khi trẻ thở có năng lượng cao hơn ở các tần số thấp. Ngoài ra, tần số 2000 Hz, 3000 Hz cũng l| tần số hội thoại nên có thể đo được âm ồn do tiếng nói xung quanh trẻ.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tín hiệu trên âm ồn (SNR – Signal to noise ratio) nhỏ

nhất ở tần số 3000 Hz ở cả hai tai, trong khi SNR cao nhất ở tần số 5000 Hz đối với tai trái và ở 4000 Hz đối với tai phải. SNR được tính bằng cách lấy biên độ âm méo (DP – Distortion product) trừ đi NF. Nó l| trị số có giá trị v| đ{ng tin cậy trong phép đo do đã loại bỏ sự ảnh hưởng của âm ồn. Kết quả đo }m ốc tai được kết luận dựa vào SNR. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số SNR theo từng nhóm tuổi không tuân theo một quy luật nào. Có thể giải thích kết quả này do ở trẻ nghe kém bẩm sinh, vị trí và mức độ tổn thương tế b|o lông cũng không có quy luật nhất định.

KẾT LUẬN

Đa phần việc phát hiện và chẩn đo{n x{c định nghe kém bẩm sinh ở trẻ còn trễ (31,7 th{ng), người nh| chưa quan t}m đến các phản xạ với âm thanh của trẻ do đó chủ yếu đến khám và làm các xét nghiệm thăm dò chức năng thính học khi thấy trẻ chậm nói (55,9%).

Đa phần trẻ nghe kém bẩm sinh có dấu hiệu tổn thương tại ốc tai với kết quả 100/102 trẻ có kết quả âm ốc tai không đạt. Âm ồn có xu hướng giảm khi độ tuổi và tần số tăng. Chỉ số SNR theo nhóm tuổi và tần số không có quy luật nhất định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Madana J, Kalaiarasi R, Deeke Y (2011). Microbiological profile with antibiotic sensitivity pattern of cholesteatomatous chronic suppurative otitis media among children. International Journal of Pediatric Otorhinolaryngology, 75(9):1104-1108.

2. Nguyễn Xuân Nam (2017). Nghiên cứu thăm dò chức năng nghe, chẩn đo{n hình ảnh v| đ{nh gi{ kết quả thính lực của trẻ em cấy điện cực ốc tai. Luận Văn Tiến Sĩ Y Học, Đại học Y Hà Nội.

3. David K, Qui W, Hamernik RP (2004). The use of distortion product otoacoustic emissions in the estimation of hearing and sensory cell loss in noise-damaged cochleas. Hearing Research, 187(1-2):12-24.

4. Kenna MA (2015). Acquired hearing loss in children.

Otolaryngologic Clinics of North America, 48(6):933-953.

5. Phạm Đình Nguyên (2018). Nghiên cứu khiếm thính không mắc phải ở trẻ em. Luận Văn Tiến Sĩ Y Học, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.

(7)

6. Kennedy CR, McCann DC, Campbell MC (2006). Language ability after early detection of permanent childhood hearing impairment. New England Journal of Medicine, 354(20):2131-2141.

7. Gorga MP, Norton SJ, Sininger YS (2000) Identification of neonatal hearing impairment: distortion product otoacoustic emissions during the perinatal period. Ear and Hearing, 21(5):400-424.

8. Lasky RE (1998). Distortion product otoacoustic emissions in human newborns and adults. Journal of the Acoustical Society of America, 103(2):981-991.

Ngày nhận bài báo: 07/12/2021

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022

Referensi

Dokumen terkait