KHẢO SÁT THỜI GIAN CỬA-BÓNG TRONG CAN THIỆP MẠCH VÀNH TIÊN PHÁT Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP ST CHÊNH LÊN TẠI
BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG CẦN THƠ NĂM 2017-2018
Võ Văn Thắng1*, Phạm Thanh Phong1, Nguyễn Trung Kiên21. Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, 2. Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
*Email: [email protected]
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: nghiên cứu năm 2016 tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ Thơ cho thấy thời gian cửa bóng trung bình trong can thiệp mạch vành tiên phát ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên là 195 phút, trong khi khuyến cáo cuả ACC/AHA, ESC 2017 là
<120 phút. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định thời gian cửa-bóng và các phân đoạn thời gian trong thời gian cửa-bóng sau khi cải tiến qui trình rút ngắn thời gian cửa-bóng ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 115 bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên nhập viện và chụp can thiệp mạch vành. Kết quả: Thời gian cửa-bóng là 153±35 phút. Thời gian khởi phát đến-bệnh viện: 6,1 giờ; thời gian nhập viện-đo điện tim:
4,87 phút; thời gian nhập viện-chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên: 17,62 phút;
thời gian bác sĩ cấp cứu-bác sĩ nội tim mạch: 35,21 phút; thời gian bác sĩ nội tim mạch-bác sĩ tim mạch can thiệp: 52,64 phút; thời gian nhập viện-có chỉ định can thiệp: 114,5 phút; thời gian bắt đầu làm thủ thuật-nong bóng: 20,86 phút. Kết luận: Cải tiến quy trình nhằm rút ngắn thời gian cửa - bóng trên bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp được can thiệp mạch vành tiên phát tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ đạt được kết quả bước đầu đáng khích lệ so với năm 2016.
Từ khóa: Nhồi máu cơ tim ST chênh lên, can thiệp mạch vành tiên phát, thời gian cửa-bóng.
ABSTRACT
THE STUDY OF DOOR-TO-BALLOON TIME OF ST SEGMENT ELEVATION ACUTE MYOCARDIAL INFARCTION PATIENTS UNDERWENT PRIMARY PERCUTANEOUS CORONARY INTERVENTIONS AT CAN THO CENTRAL
GENERAL HOSPITAL IN 2017-2018
Vo Van Thang1, Pham Thanh Phong1, Nguyen Trung Kien2 1. Can Tho Central Genneral Hospital 2. Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: A study at the Can Tho Central General Hospital in 2016 showed that the median door-to-balloon time in primary coronary intervention in patients with ST segment elevation acute myocardial infarction was 195 minutes, while the recommended by ACC/AHA, ESC 2017 <120 minutes. Objectives: Access door-to-balloon time and its time intervals after improving the strategies reduce door-to-balloon time of ST segment elevation acute myocardial infarction patients at can tho central general hospital. Materials and methods: cross – sectional study of 115 ST segment elevation acute myocardial infarction patients and primary Percutaneous Coronary Intervention.
Results: door-to-balloon time 153±35 mim1hours. The onset of illness comes to the hospital 6,1hours;
time to hospital until electrocardiogram 4.87 minutes; time to hospital until diagnosis ST segment elevation acute myocardial infarction 17.62 minutes, the time emergency doctor medical examination until cardiologist 35.21 minutes, the time cardiovascular examination until meeting cardiovascular interventions doctor 52.64 minutes, the time the patient was hospitalized until the intervention 114.5 minutes, a patient time start surgery until ballooned ball 20.86 minutes. Conclusion: Improving strategies to reduce door-to-balloon time in STEMI patients underwent PPCIs at Can Tho central general hospital got an initial successful result.
Keywords: ST-segment elevation myocardial infarction, Primary Percutaneous Coronary Intervention, Door- to- balloon time.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên là một cấp cứu nội khoa do huyết tắc động mạch vành trong đa số các trường hợp. Khoảng một phần ba số bệnh nhân nhồi máu cơ tim sẽ chết, trong đó khoảng 50% số bệnh nhân chết trong giờ đầu. Tuy nhiên tỷ lệ này có thể hạ thấp khi chuyển nhanh đến bệnh viện, tái thông động mạch vành nhanh, điều trị rối loạn nhịp thất kịp thời và điều chỉnh các rối loạn huyết động một cách hiệu quả [6]. Trong đó thời gian cửa-bóng trong can thiệp động mạch vành cấp cứu đóng vai trò quan trọng đối với sự sống còn của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên. Đây là một trong những tiêu chuẩn vàng đánh giá chất lượng điều trị tại các trung tâm có can thiệp động mạch vành qua da cấp cứu. Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ là Bệnh viện đa khoa hạng I trực thuộc Trung ương, hàng năm bệnh viện tiếp nhận và điều trị khoảng 500 trường hợp hội chứng vành cấp, trong đó lượng bệnh nhân nhồi máu cơ tim ST chênh lên chiếm tỷ lệ cao. Bệnh viện đã triển khai kỹ thuật can thiệp động mạch vành qua da cho những bệnh nhân bị bệnh động mạch vành đặc biệt là những bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên được can thiệp động mạch vành qua da cấp cứu. Tuy nhiên theo khảo sát năm 2016 thời gian cửa-bóng tại bệnh viện trong can thiệp động mạch vành tiên phát ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên là 195 phút [4], trong khi khuyến cáo ESC năm 2017 là ≤120 phút. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu như sau:
1. Xác định thời gian cửa-bóng và các phân đoạn thời gian trong thời gian cửa-bóng sau khi cải tiến qui trình rút ngắn thời gian cửa-bóng ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ năm 2017-2018.
2. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến thời gian cửa-bóng.
II. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Tất cả bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên với điện tâm đồ thỏa theo tiêu chuẩn ESC/ACCF/AHA/WHF (2012), vào viện trong 24 giờ đầu sau khởi phát triệu chứng đau thắt ngực, được chụp can thiệp động mạch vành qua da cấp cứu tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ t 6/2017 đến 6/2018.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có thời gian khởi phát triệu chứng không được biết rõ, chỉ chụp động mạch vành mà không có can thiệp động mạch vành, mới bị tai biến mạch máu não hoặc xuất huyết tiêu hóa trong vòng 3 tháng, tiền sử dị ứng thuốc cản quang, rối loạn đông máu nặng, bệnh nhân suy thận hoặc suy gan nặng.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.
- Cỡ mẫu và phƣơng pháp chọn mẫu: chọn mẫu toàn bộ 105 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên nhập viện và chụp can thiệp mạch vành.
- Nội dung nghiên cứu:
+ Thời gian cửa bóng là khoảng thời gian tính t khi bệnh nhân nhập khoa cấp cứu đến khi được phục hồi dòng chảy mạch vành bằng nong bóng hoặc đặt stent.
+ Các phân đoạn thời gian cửa bóng và một số yếu tố ảnh hưởng thời gian cửa bóng.
- Phƣơng pháp thu thập mẫu: huấn luyện đội ngũ Bác sĩ khoa cấp cứu về kiến thức khám chẩn đoán nhanh và tầm quan trọng của thời gian cửa-bóng; xử lý cấp cứu ưu tiên và đo ngay điện tâm đồ trong vòng 10 phút khi bệnh nhân có triệu chứng đặc hiệu và chẩn đoán nhanh không cần đợi xét nghiệm men tim; Khoa cấp cứu nhanh chóng làm các xét nghiệm cần thiết và tiến hành giải thích cho thân nhân bệnh nhân về chỉ định can thiệp mạch vành cấp cứu; Khoa cấp cứu khởi động ê-kíp can thiệp mạch vành nhanh sau khi có chẩn đoán,bỏ qua giai đoạn hội chẩn với bác sĩ nội tim mạch; Ê-kíp can thiệp có mặt để tiếp nhận bệnh nhân trong khoảng 20-30 phút sau khi nhận cuộc gọi; Cải tiến thủ tục hành chánh như: trình ký
duyệt lãnh đạo sớm; Sau khi hoàn thành thủ tục hội chẩn, khoa cấp cứu chuyển bệnh nhân nhanh lên phòng thông tim; Bố trí điều dưỡng trực nội trú tại phòng can thiệp.
- Phƣơng pháp xử lý số liệu: sử dụng phần mềm thống kê SPSS 22.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong 115 bệnh nhân nam giới chiếm 72,38%; nhóm tuổi ≤75 chiếm 81,90%, 56-60 tuổi chiếm 29,5%, 56-60 tuổi chiếm 36,2% và 71-80 tuổi chiếm 16,2%. Thời gian trung bình t khi khởi phát đến lúc nhập viện là 6,14±3,62 giờ, tương đương 366 phút±217 phút.
3.1. Thời gian cửa-bóng và các phân đoạn thời gian
Thời gian cửa-bóng trung bình là 153,35±33,80 phút. Thời gian cửa-bóng ngắn nhất là 90 phút, dài nhất là 330 phút. Thời gian cửa bóng được rút ngắn ≤120 phút chiếm tỷ lệ 21% ở 22 bệnh nhân, thời gian trên 120 phút chiếm tỷ lệ cao 79%.
Trung bình các phân đoạn thời gian: thời gian bệnh nhân nhập viện và tiến hành đo điện tâm đồ là 4,87±2,50 phút, nhập viện-phòng can thiệp 132,21±35,83 phút, thời gian t đâm kim đến nong bóng là 20,86±7,89 phút.
3.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến thời gian cửa-bóng Bảng 1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thời gian cửa-bóng
Đặc tính
Thời gian cửa-bóng
p
>120 phút n (%)
≤120 phút n (%)
Giới Nam 61 (80,3) 15 (19,7)
0,62
Nữ 22 (75,9) 7 (24,1)
Thời gian nhập viện
Ngày nghỉ và ngày lễ 30 (88,2) 4 (11,8)
0,109
Giờ hành chính 53 (74,6) 18 (25,4)
Nghề nghiệp Lao động chân tay 46 (74,2) 16 (25,8)
0,142
Lao động trí óc 37 (86) 6 (14)
Nhóm tuổi >75 tuổi 14 (73,7) 5 (26,3)
0,54
≤75 tuổi 69 (80,2) 17 (19,8)
Đái tháo đường Có 12 (85,7) 2 (14,3)
0,729
Không 71 (78) 20 (22)
Giờ nhồi máu >6 giờ 30 (83,3) 6 (16,7)
0,436
≤6 giờ 53 (76,8) 16 (23,2)
Killip Killip III-IV 5 (83,3) 1 (16,7)
Killip I-II 78 (78,8) 21 (21,2) 1,0
Kết quả điện tâm đồ
Vùng nhồi máu nguy cơ nặng
33 (82,5) 7 (17,5)
0,495 Vùng nhồi máu nguy cơ nhẹ 50 (76,9) 15 (23,1)
Động mạch vành thủ phạm
Nhóm nguy cơ cao 63 (79,7) 16 (20,3)
0,759 Nhóm nguy cơ thấp 20 (76,9) 6 (23,1)
Nhận xét: chưa ghi nhận mối liên quan có ý nghĩa giữa một số yếu tố ảnh hưởng và thời gian cửa-bóng.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Thời gian cửa-bóng và các phân đoạn thời gian trong thời gian cửa-bóng sau khi cải tiến qui trình rút ngắn
Khoảng thời gian t khởi phát triệu chứng đến bệnh viện của nghiên cứu chúng tôi là 366 phút±217 phút. Thời gian t khởi phát triệu chứng đến bệnh viện của Trần Chí Dũng là 240 phút [4]. Thời gian t khi nhập viện đến khi đo điện tâm đồ là 4,87phút. Thời gian này trong nghiên cứu của Trần Chí Dũng nghiên cứu năm 2016 là 10 phút [4]. Theo nghiên cứu Huỳnh Trung Cang năm 2010 thời gian này là 5 phút [2], tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi. Các kết quả cho thấy, công tác khám bệnh, cấp cứu bệnh nhân về bệnh lý tim mạch được khẩn trương chăm sóc, dùng các phương tiện chẩn đoán như điện tâm đồ để xác định mức độ bệnh cũng như tình trạng bệnh để có hướng xử trí kịp thời.
Thời gian t lúc nhập viện đến lúc chẩn đoán có ST chênh lên trong nghiên cứu của chúng tôi là 17,62 phút. Có thể rút ngắn thời gian này lại nếu thời gian đo điện tim ngắn khi có triệu chứng nghi ngờ, kỹ thuật viên y tế, bác sĩ đọc kết quả điện tim nhanh, chẩn đoán được có ST chênh lên hay không. Theo nghiên cứu tổng kết của Huỳnh Trung Cang năm 2010, thời gian này dao động t 8-20 phút [2]. Do đó, thời gian này có thể rút ngắn xuống trong quá trình xử trí ban đầu. Thời gian t khi bác sĩ cấp cứu đến bác sĩ nội tim mạch trong nghiên cứu chúng tôi là 35,21 phút. Theo nghiên cứu Trần Chí Dũng thời gian này dao động t 5-125 phút [4]. Nghiên cứu của Huỳnh Trung Cang là 0-85 phút [1]. Các kết quả nghiên cứu này cho thấy thời gian này có thể rút ngắn xuống 0 phút, có thể do tại bệnh viện tuyến có can thiệp tim mạch bác sĩ trực cấp cứu cũng chính là bác sĩ đã được đào tạo qua tim mạch. Thời gian t khi bác sĩ tim mạch khám đến khi bác sĩ tim mạch can thiệp thực hiện là 52,64 phút. Theo Trần Chí Dũng thời gian này là 22,5 phút [4]. Nghiên cứu của Huỳnh Trung Cang thời gian này dao động t 15-50 phút[1]. Người lãnh đạo phải bố trí vật lực phòng cấp cứu và khoa tim mạch phải gần nhau để thuận tiện hỗ trợ nhanh, không để quãng đường di chuyển kéo dài thời gian tiếp cận bệnh nhân và thực hiện can thiệp tim mạch.
Thời gian t khi nhập viện đến khi có chỉ định can thiệp của chúng tôi là 114,5 phút.
Đây là thời gian tổng t khi bệnh nhân nhập viện được thực hiện các công tác tiếp nhận, chẩn đoán, đo điện tim, mời bác sĩ tim mạch, mời bác sĩ tim mạch can thiệp nên thời gian là tổng của các khoảng cộng dồn lại. Nghiên cứu của chúng tôi thời gian t khi nhập viện đến phòng can thiệp là 132,21 phút. Kéo dài thời gian có thể do quy trình giấy tờ, thủ tục hành chính, lệ phí, chuẩn bị bệnh nhân, bác sĩ can thiệp tim mạch chuẩn bị thực hiện. Nghiên cứu của Trần Chí Dũng thời gian này là 100 phút [4], Huỳnh Trung Cang dao động t 42-160 phút [2].
Khắc phục được các yếu tố chủ quan này sẽ rút ngắn thời gian cửa-bóng xuống tối đa cho người bệnh.
Thời gian kim-nong bóng của chúng tôi là 20,86 phút. Nghiên cứu của Trần Chí Dũng là 20-120 phút [4], Huỳnh Trung Cang là 9-80 phút [2], Hoàng Quốc Hòa là 46,6 phút [5].
Khoảng thời gian này tương đối phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi, đây là khoảng thời gian ê kíp can thiệp mạch vành tiến hành kỹ thuật đặt kim và nong bóng. Thời gian này ít bị các yếu tố chủ quan tác động. Thời gian này kéo dài có thể do cơ địa người bệnh, các bệnh phối hợp, tuổi cao, động mạch vành thủ phạm gây ra triệu chứng trên bệnh nhân. Đây là những yếu tố khách quan, do đó, công tác khám, chẩn đoán bệnh ban đầu càng chuẩn xác thì tiên lượng bệnh nhân tốt, thời gian này sẽ rút ngắn được nhiều.
Thời gian cửa-bóng của chúng tôi là 153,35 phút. Nghiên cứu của Trần Chí Dũng là 85-325 phút (trung bình 195 phút) [4], Huỳnh Trung Cang là 95-245 phút (trung bình 135 phút) [2], Hoàng Quốc Hòa là 145,9 phút [5]. Thời gian này là thời gian tổng t khi bệnh nhân nhập việc đến khi nong được bóng và thiết lập dòng chảy cho bệnh nhân. Dùng phép kiểm Kolmogorov Smirnov cho giá trị p<0,001, nên thời gian này có ý nghĩa trong toàn bộ mẫu nghiên cứu. Theo Andersen HR trong nghiên cứu DANAMI-II, giá trị trung bình của thời gian cửa–bóng là 198 phút [7]. Phân tích t ng phân đoạn thời gian, có nhiều yếu tố chủ quan tác động kéo dài thời gian cửa-bóng bên cạnh một số yếu tố khách quan tác động đến thời gian này. Do đó, trong nghiên cứu này chúng tôi thực hiện đúng quy trình cấp cứu, đồng thời tác động đến các yếu tố mang tính chủ quan và khách quan để hạn chế để thời gian cửa- bóng kéo dài hơn. Theo Victor A. Abrich nghiên cứu 412 bệnh nhân nhồi máu cwo tim có St chênh lên t 2006-2012 cho thấy có 60% bệnh nhân đạt thời gian cửa bóng dưới 90 phút [10].
Thời gian cửa bóng rút ngắn dưới 120 phút chiếm tỷ lệ 21%. Theo Hoàng Quốc Hòa [5], quy trình cấp cứu được cải thiện, tác động đến các yếu tố chủ quan và khách quan góp phần rút ngắn thời gian cửa-bóng. Thời gian này có cải thiện rõ rệt, trung bình thời gian cửa- bóng giảm đều theo t ng quý, quý sau thấp hơn quý trước: t 146 phút năm 2009 còn 94 phút quý 1 năm 2011. Tapan Ghose nghiên cứu ngẫu nhiên các bệnh nhân nhồi máu cơ tim thành trước được xác định bởi điện tâm đồ cho thấy thời gian cửa bóng trung bình là 36,46 phút [9].
Hyun Kuk Kim nghiên cứu 8.040 bệnh nhân được thực hiện can thiệp mạch vành qua da tại cơ quan quản lý nhồi máu cơ tim cấp Hàn Quốc t 2008 đến 2011 cho thấy thời gian cửa-
bóng dưới 90 phút chiếm tỷ lệ 79,9% [8]. Các kết quả cho thấy mục tiêu hiện nay là rút ngắn thời gian cửa-bóng nhiều thì hiệu quả điều trị bệnh tăng lên.
4.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến thời gian cửa-bóng
Thời gian rút ngắn cửa-bóng ≤120 phút ở nam là 19,7%, ở nữ là 24,1%. Việc rút ngắn thời gian cửa-bóng tùy thuộc vào các yếu tố liên quan như bệnh kèm theo, độ tuổi và tình trạng bệnh mạch vành thực sự của t ng người bệnh. Thời gian rút ngắn cửa-bóng ≤120 phút ở những bệnh nhân nhập viện trong giờ hành chính đạt hiệu quả cao hơn. Kết quả phần nào chứng minh việc rút ngắn thời gian cửa-bóng đòi hỏi phải xác định chính xác những yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến thời gian cửa-bóng trong giờ hành chính và ngoài giờ hành chính.
Thời gian rút ngắn cửa-bóng ≤120 phút ở nhóm lao động chân tay chiếm 16 trường hợp, nhóm lao động trí óc chiếm 6 trường hợp. Ở thời gian cửa-bóng ≤120 phút thì nhóm lao động chân tay nhiều hơn nhóm lao động trí óc, điều này có thể do nhóm lao động chân tay có sự tuân thủ nghiên túc các y lệnh của người điều trị, còn nhóm lao động trí óc thường đi khám các phòng khám tư, khi bệnh trở nặng mới nhập viện để được điều trị thì khoảng thời gian vàng làm tăng hiệu quả điều trị của tim mạch can thiệp sẽ giảm dần. Ở nhóm tuổi ≤75 tuổi có 17 trường hợp thời gian rút ngắn cửa-bóng ≤120 phút, nhóm >75 tuổi chỉ có 5 trường hợp.
Điều này cho thấy yếu tố tuổi có ảnh hưởng đến thời gian rút ngắn cửa-bóng. Tuổi tác ảnh hưởng đến cấu trúc mạch vành, các bệnh lý kèm theo khi tuổi càng cao, sẽ cản trở rút ngắn thời gian cửa-bóng đạt hiệu quả ≤120 phút. Bệnh nhân có bệnh lý đái tháo đường kèm theo sẽ là yếu tố cản trở rút ngắn thời gian cửa-bóng, do bệnh lý đái tháo đường sẽ ảnh hưởng đến các mạch máu lớn và mạch máu nhỏ gây xơ tắc mạch khó tiếp cận can thiệp. Chính điều này làm tình trạng bệnh nhân bệnh mạch vành nặng hơn, thời gian can thiệp nong bóng sẽ kéo dài hơn, đưa thời gian cửa-bóng rút ngắn khó khăn hơn.
Thời gian nhồi máu ≤6 giờ có 23,2% đạt được thời gian rút ngắn cửa-bóng ≤120 phút, với giờ nhồi máu >6 giờ thì chỉ có 6 trường hợp được rút ngắn thời gian cửa-bóng. Do đó, thời gian nhồi máu càng ngắn thì khả năng rút ngắn thời gian cửa-bóng càng đạt hiệu quả cao.
Trong nghiên cứu, chúng tôi phân độ killip thành hai nhóm: nhóm killip I-II và nhóm killip III-IV. Nhóm killip I-II có 21 bệnh nhân đạt rút ngắn thời gian cửa-bóng ≤120 phút và killip III-IV chỉ có 1 bệnh nhân có thời gian cửa-bóng ≤120 phút. Kết quả chứng minh phân độ killip thuộc killp III, killip IV sẽ hạn chế việc rút ngắn thời gian cửa-bóng. Kết quả điện tâm đồ có vùng nhồi máu nguy cơ nhẹ sẽ đạt được hiệu quả rút ngắn thời gian cửa bóng ≤120 phút nhiều hơn nhóm có nguy cơ cao. Tuy nhiên, ở thời gian cửa-bóng >120 phút, nhóm điện tâm đồ có nguy cơ thấp cũng chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm nguy cơ cao. Điều này chứng tỏ phân nhóm nguy cơ điện tâm đồ không có ý nghĩa trong việc rút ngắn thời gian cửa-bóng dưới 120 phút. Không cho thấy có mối tương quan giữa phân độ nhóm động mạch vành thủ phạm với kết quả rút ngắn thời gian cửa-bóng. Ngoài ra, có nhiều nguyên nhân gây kéo dài thời gian cửa-bóng và các nguyên nhân này ảnh hưởng đến t ng phân đoạn thời gian. Giai đoạn t lúc vào bệnh viện đầu tiên đến lúc chuyển viện có các nhóm nguyên nhân làm kéo dài thời gian:
không chẩn đoán được điện tâm đồ, chậm trễ trong chẩn đoán xác định để có chỉ định kịp thời, tình trạng các bệnh lý kèm theo, chờ đợi phương tiện vận chuyển bệnh nhân và các nguyên nhân khác. Bên cạnh đó, ở những bệnh nhân nhập viện tại nơi có PCI đến lúc nong bóng gồm các nhóm nguyên nhân: do đội ngũ phòng can thiệp, do quá trình can thiệp phức tạp, do sốc tim hoặc ng ng tim trong phòng can thiệp, tiếp cận động mạch khó, khó xác định động mạch thủ phạm và các nguyên nhân khác.
V. KẾT LUẬN
- Thời gian cửa-bóng trung bình là 153±35 phút. Trong đó: Thời gian khởi phát đến- bệnh viện: 6,1 giờ; Thời gian nhâp viện-đo điện tim: 4,87 phút; Thời gian nhập viện-chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên: 17,62 phút; Thời gian bác sĩ cấp cứu-bác sĩ nội tim mạch: 35,21 phút; Thời gian bác sĩ nội tim mạch-bác sĩ tim mạch can thiệp: 52,64 phút; Thời gian nhập viện-có chỉ định can thiệp: 114,5 phút; Thời gian bắt đầu làm thủ thuật-nong bóng:
20,86 phút.
- Chưa ghi nhận được sự liên quan có ý nghĩa giữa một số yếu tố ảnh hưởng và thời gian cửa-bóng ≤120 phút.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Trung Cang (2014), "Kết quả 2 năm can thiệp động mạch vành tại Bệnh viện Kiên Giang", Hội nghị khoa học tim mạch can thiệp TP. HCM, tr. 2018-2020.
2. Huỳnh Trung Cang, Võ Thành Nhân (2010), "Tính hiệu quả và an toàn thủ thuật can thiệp động mạch vành qua da tại bệnh viện Chợ Rẫy", Tạp chí Y học Tp. HCM, Tập 14(phụ bản số 1), tr. 10-18.
3. Đỗ Xuân Chiến (2013), Nghiên cứu thời gian cửa-bóng (Door-to-balloon time) trong can thiệp động mạch vành qua da thì đầu ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp, Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. Trần Chí Dũng (2016), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, các yếu tố liên quan thời gian cửa - bóng và đánh giá kết quả can thiệp động mạch vành qua da cấp cứu ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên tại Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ.
5. Hoàng Quốc Hòa, Nguyễn Đỗ Anh (2012), "Rút ngắn thời gian Cửa - Bóng trong can thiệp mạch vành tiên phát ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên tại bệnh viện Nhân dân Gia Định", Báo cáo hội nghị loạn nhịp tim thành phố Hồ Chí Minh.
6. Võ Thành Nhân (2009), Điều trị nhồi máu cơ tim cấp, Điều trị học nội khoa, Nhà xuất bản y học, tr. 73-85.
7. Andersen HR, Nielsen TT, Vesterlund T, et al (2003), "Danish multicenter randomized study on fibrinolytic therapy versus acute coronary angioplasty in acute myocardial infarction: rationale and design of the DANish trial in Acute Myocardial Infarction-2 (DANAMI-2)", Am Heart J, 146, pp. 234–241.
8. Hyun Kuk Kim, Myung Ho Jeong (2017), "Relationship between time to treatment and mortality among patients undergoing primary percutaneous coronary intervention according to Korea Acute Myocardial Infarction Registry", Journal of Cardiology, 69(2017), pp. 377–382.
9. Tapan Ghose, Ranjan Kachru, Abid Hussain, Upendra Kaul (2013), "Direct Culprit Vessel PCI Followed by Contra Lateral Angiography by Transradial Route in Acute Myocardial Infarction - Direct Prospective Pilot Study", The American Journal of Cardiology, 111(7), pp. 4B.
10. Victor A. Abrich, Roxann Rokey, Satya S.V. Bhupathi (2014), "Variability of Door-to-Device Times at a Rural Tertiary Care Center", Clinical Medicine &
Research, 12(3-4), pp. 138-146.
(Ngày nhận bài:01/07/2019 - Ngày duyệt đăng bài: 10/9/2019)