• Tidak ada hasil yang ditemukan

khảo sát thực trạng sử dụng thuốc giảm đa sau mổ lấy

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "khảo sát thực trạng sử dụng thuốc giảm đa sau mổ lấy"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC GIẢM ĐA SAU MỔ LẤY THAI TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ

Trần Huyền Trân1, Thân Thị Mỹ Linh2, Huỳnh Thị Hồng Gấm2, Nguyễn Hải Anh 2, Huỳnh Ngọc Trinh1

TÓMTẮT

M đầu: Tỷ lệ mổ lấy thai (M T) ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Đau sau M T nếu không được kiểm soát tốt sẽ ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của sản phụ và khả năng chăm sóc trẻ sơ sinh.

Mục tiêu: Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc giảm đau (TGĐ) sau MLT và hiệu quả điều trị đau sau M T.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 329 sản phụ được chỉ định MLT tại khoa Sản N1, bệnh viện Từ Dũ từ 01/03/2020 đến 31/03/2020 qua ghi nhận thông tin trên hồ sơ bệnh án và phỏng vấn sản phụ sau MLT về điểm đau dựa trên thang điểm nhìn Visual Analog Scale (VAS) thời điểm trước khi dùng thuốc và sau khi dùng thuốc 2 giờ, 6 giờ vào các ngày hậu phẫu 2,3,4.

Kết quả: Đa số sản phụ được chỉ định diclofenac đường đặt trực tràng (89,67%); ngoài ra còn có paracetamol đường uống (9,42%) và nefopam tiêm truyền tĩnh mạch (0,91%). Hiệu quả giảm đau thể hiện rõ rệt tại thời điểm 2 giờ và 6 giờ sau khi dùng thuốc so với trước khi dùng thuốc (p 0,05). Điểm đau VAS giảm dần qua các ngày hậu phẫu, nhất là sau 2 ngày dùng thuốc. Chênh lệch điểm đau lúc vận động của nhóm sản phụ sử dụng diclofenac so với ban đầu cao hơn nhóm sử dụng paracetamol có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) chứng tỏ hiệu quả cao của diclofenac.

Kết luận: Việc d ng TGĐ sau MLT giúp sản phụ giảm đau rõ rệt sau 2 ngày dùng thuốc, nhất là diclofenac đường đặt trực tràng. Do đó, nên cân nhắc dùng diclofenac dạng phối hợp hoặc đơn trị liệu để giảm đau sau hậu phẫu MLT cho sản phụ.

Từ khóa: mổ lấy thai, thuốc giảm đau

ABSTRACT

INVESTIGATION ON CLINICAL USE OF POST-CESAREAN ANALGESICS AT TU DU HOSPITAL Tran Huyen Tran, Than Thi My Linh, Huynh Thi Hong Gam,

Nguyen Hai Anh Vu, Huynh Ngoc Trinh

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 158 - 163 Introduction: Caesarean section (CS) rate is increasing worldwide. Inadequate post-caesarean pain affects the health of pregnantwomen and their ability to take care of their babies.

Objectives: To investigate current analgesics use and their pain relief effects after CS.

Materials and methods: The cross-sectional descriptive study conducted on 329 women presenting for CS at the Department of Obstetrics N1, Tu Du Hospital from March 1, 2020 to March 31, 2020 by recording information from medical records and direct interview about pain score based on VAS visual scale (Visual Analog Scale) before taking analgesics, 2 hours and 6 hours after drug using on the days 2,3,4 post-caesarean.

Results: Most women were prescribed diclofenac rectal (89.67%); oral paracetamol (9.42%) and intravenous nefopam (0.91%) were also indicated. The analgesic effect was observed at 2 hours and 6 hours post-drug administration compared with baseline (p <0.05). VAS pain score gradually decreased over the days post-

1Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

2Bệnh viện Từ Dũ Thành phố Hồ Chí Minh

(2)

caesarean, especially after 2 days taking the drug. The difference in pain score from baseline at times of diclofenac using was significantly higher than that of paracetamol (p <0.05), demonstrating high efficiency of diclofenac.

Conclusion: The use of analgesics post-CS exhibited significant pain relief after 2 days of taking the drug, especially rectal diclofenac. Therefore, the use of diclofenac in combination or monotherapy should be considered for post-caesarean pain relief.

Keywords: cesarean section, analgesic

ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ năm 1990 đến 2014, tỷ lệ mổ lấy thai (MLT) trung bình toàn cầu tăng từ 6,7% đến 19,1%(1). Tại Việt Nam, tỷ lệ MLT năm 2002 khoảng 10%, 2008 là 30%(2) và 2014 là 35%(3). Tỷ lệ MLT ngày càng tăng trên toàn thế giới, việc quản lý các vấn đề sau MLT rất được chú trọng.

Mổ lấy thai (MLT) gây đau nặng cho sản phụ, có khoảng 78% sản phụ báo cáo đau vừa đến đau nặng trong vòng 24 giờ đầu sau MLT(4). Quản lý đau sau MLT tối ưu góp phần quan trọng trong việc giảm đau cấp tính và hạn chế tiến triển thành đau mạn tính(5). Đau không được điều trị có liên quan đến nguy cơ sử dụng opioid nhiều hơn, trầm cảm sau sinh và phát triển các cơn đau dai

dẳng(6-8). Hiện các thuốc chống viêm không

steroid (NSAID) và paracetamol thường được chỉ định trong chế độ giảm đau sau phẫu thuật MLT(9). Tuy nhiên, mỗi sản phụ khác nhau có ngư ng đau, nhu cầu và đáp ứng đối với các thuốc giảm đau khác nhau(10), trong khi đó, tại Việt Nam, có rất ít nghiên cứu về hiệu quả giảm đau sau MLT.

Mỗi năm, tại bệnh viện Từ Dũ có khoảng 28.000 trường hợp được MLT(11). Theo phác đồ điều trị giảm đau tại bệnh viện, ngày đầu sau MLT, sản phụ được chỉ định dùng opioid đường tiêm để giảm đau. Đối với các ngày hậu phẫu tiếp theo, sản phụ được chỉ định dùng thuốc giảm đau đường uống và/hoặc đường đặt trực tràng.

Tuy nhiên, bệnh viện chưa có nghiên cứu về đánh giá hiệu quả của thuốc giảm đau từ ngày hậu phẫu 2 sau MLT. Do đó, nghiên cứu này nhằm khảo sát thực trạng sử dụng thuốc giảm đau (T Đ) sau MLT và hiệu quả điều trị đau sau MLT tại bệnh viện Từ Dũ nhằm góp phần vào việc sử dụng T Đ hợp lý, an toàn và hiệu quả.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Sản phụ được chỉ định MLT và hồ sơ bệnh án tương ứng của sản phụ tại khoa Sản N1, bệnh viện Từ Dũ với c mẫu được tính theo công thức(12):

x

Trong đó:

Trị số z của phân phối chuẩn cho xác suất α/2.

Hệ số tin cậy ở mức xác suất 95% thì

=1,96.

P: tỷ lệ giảm đau chung cho các thuốc giảm đau. Theo nghiên cứu của Marcus H. và cộng sự về đau sau MLT thì tỷ lệ giảm đau sau khi dùng thuốc giảm đau sau MLT là 69% nên P = 0,69(13).

: sai số mong muốn, chọn =0,05.

Thay vào công thức, ta có c mẫu tương ứng là 329 sản phụ.

Tiến hành chọn ngẫu nhiên các sản phụ được chỉ định MLT thỏa tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ; mỗi ngày tiến hành thu thập hồ sơ bệnh án và phỏng vấn 13 – 14 sản phụ cho đến khi đủ 329 sản phụ.

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Sản phụ từ 18 tuổi trở lên, đồng ý tham gia vào nghiên cứu và trả lời đầy đủ mức độ đau ở các thời điểm trong các ngày hậu phẫu.

Tiêu chuẩn loại trừ

Sản phụ bị rối loạn tâm thần, khiếm khuyết về các giác quan nghe, nhìn, phát âm. Sản phụ có hồ sơ bệnh án ghi nhận tình trạng: nghiện hoặc phụ thuộc các opioid, heroin; đau mạn tính

(3)

trước mổ; sử dụng các thuốc opioid tác dụng dài, NSAID, aspirin hoặc paracetamol trong vòng 3 ngày trước khi mổ; có các biến chứng nặng liên quan đến gây mê và/hoặc phẫu thuật Phươ g pháp nghiên cứu

Sản phụ sau khi đồng ý và ký xác nhận vào phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập thông tin liên quan đến đặc điểm chung của sản phụ và cuộc phẫu thuật MLT, đặc điểm sử dụng T Đ. Sản phụ được phỏng vấn trực tiếp về mức độ đau lúc nghỉ và lúc vận động thông qua sử dụng thang đo VAS (Visual Analog Scale) để xác định các điểm đau.

Tình hình sử dụng thuốc giả đau sau phẫu thuật mổ lấy thai

Thống kê các loại thuốc giảm đau được chỉ định. Ghi nhận các biến cố bất lợi trong quá trình sử dụng T Đ.

Hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật mổ lấy thai Dược sĩ trực tiếp phỏng vấn và ghi nhận điểm đau VAS của sản phụ trước khi dùng thuốc (T0), sau khi dùng thuốc 2 giờ (T2), 6 giờ (T6) vào ngày hậu phẫu 2, hậu phẫu 3 và hậu phẫu 4 sau phẫu thuật MLT. Điểm đau được ghi nhận theo thang điểm 10 của thước đo VAS theo các mốc thời gian.

Mức độ đau được chia thành 4 mức độ dựa trên điểm đau VAS: không đau (0 điểm), đau nhẹ (1-3 điểm), đau trung bình (4-6 điểm) và đau nặng (7-10 điểm)(14).

Xử lý thống kê

Tất cả các phép kiểm thống kê được xử lý bằng phần mềm SPSS 20. Các kết quả được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

KẾT QUẢ

Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1. Tổng cộng có 329 bệnh nhân, phần lớn sản phụ trong độ tuổi 21 - 39 tuổi với tuổi trung bình là 30,5 ± 5,4 tuổi. Sản phụ chưa từng MLT chiếm tỷ lệ cao nhất (71,4%). Đa số sản phụ sinh con đủ tháng

và trẻ có cân nặng bình thường. Sản phụ được chỉ định MLT trong quá trình chuyển dạ gấp 1,5 lần so với số sản phụ được MLT chủ động.

Tất cả các sản phụ đều được rạch da theo đường ngang và mổ mở ngang đoạn dưới tử cung để lấy thai với phương pháp vô cảm chủ yếu là gây tê tủy sống. Thời gian MLT trung vị là 50 (45, 60) phút.

Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (N = 329)

Đặc điểm Giá trị

Tuổi sản phụ (năm), mean ± SD 30,5 ± 5,4 Tiền sử MLT, n (%) Chưa từng MLT 235 (71,4) 1 lần 70 (21,3) 2 lần 24 (7,3) Tuổi thai (tuần), median (IQR1, IQR3) 39 (37, 40) Cân nặng trẻ lúc sinh (g), mean ± SD 2975 ± 630,2

Chỉ định MLT chủ động, n (%) 236 (39,5) Chỉ định MLT trong quá trình chuyển dạ, n (%) 361 (60,5)

Phương pháp vô cảm, n (%)

Tê tủy sống 175 (53,2) Mê nội khí quản 91 (27,6) Tê thất bại chuyển

mê nội khí quản 17 (5,2) Tê ngoài màng cứng 46 (14) Thời gian mổ, median (IQR1, IQR3) 50 (45, 60)

Mean: trung bình, median: trung vị, IQR : khoảng tứ phân vị, SD: độ lệch chuẩn

Tình hình sử dụng thuốc giả đa sau MLT Có 3 thuốc được chỉ định để giảm đau sau MLT tại bệnh viện, bao gồm: diclofenac đường đặt trực tràng, paracetamol đường uống, nefopam đường tiêm truyền tĩnh mạch (Bảng 2).

Trong các thuốc được chỉ định, diclofenac là thuốc được chỉ định nhiều nhất ở cả 3 ngày hậu phẫu. Ở ngày hậu phẫu 2, tất cả các sản phụ đều được sử dụng thuốc giảm đau trong khi ở ngày hậu phẫu 3, có 3 sản phụ không sử dụng thuốc. Ở ngày hậu phẫu 4, hầu hết sản phụ không sử dụng thuốc. Chỉ có 2 sản phụ sử dụng diclofenac (0,6%) có ghi nhận biến cố bất lợi bao gồm các triệu chứng: ngứa, phù toàn thân, sưng mí mắt.

Hi u quả giả đa sa phẫu thuật mổ lấy thai Điể đau VAS sau phẫu thuật MLT

Điểm đau VAS sau phẫu thuật MLT của mẫu nghiên cứu được trình bày trong Bảng 3.

Nhìn chung sau khi dùng T Đ, điểm đau VAS tại thời điểm T2, T6 đều giảm đáng kể lúc nghỉ cũng như lúc vận động vào các ngày hậu

(4)

phẫu và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với trước khi dùng thuốc (p < 0,05).

Trước khi dùng thuốc ngày 4 vào lúc nghỉ và lúc vận động, điểm đau của sản phụ dùng và sản phụ không dùng thuốc giảm đau không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Sau khi dùng thuốc giảm đau 2 giờ, 6 giờ, sản phụ ít đau hơn sản phụ không dùng thuốc (vào cùng thời điểm) (p < 0,05)

Tha đổi điể đau trư c và sau khi dùng diclofenac so v i paracetamol

Thay đổi điểm đau trước và sau khi dùng diclofenac so với paracetamol của mẫu nghiên cứu được trình bày trong Bảng 4.

Ngày thứ 2 và 3 sau MLT, chênh lệch điểm đau l c vận động của sản phụ trước và sau khi dùng thuốc ở thời điểm 2 giờ và 6 giờ khác biệt

có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) gợi ý khả năng giảm đau của diclofenac tốt hơn paracetamol.

Mức độ giảm đau lúc vận động vào ngày hậu phẫu 4 và lúc nghỉ ở các ngày hậu phẫu 2, 3, 4 không khác biệt giữa nhóm sản phụ dùng diclofenac và nhóm dùng paracetamol (p > 0,05).

Bảng 2. Các loại thuốc giảm đau được chỉ định sau MLT (N = 329)

Ngày hậu phẫu Tên thuốc giảm đau Số sản phụ % 2

Diclofenac 295 89,7

Paracetamol 31 9,4

Nefopam 3 0,9

3

Không dùng thuốc 3 0,9 Diclofenac 293 89,1

Paracetamol 31 9,4

Nefopam 2 0,6

4

Không dùng thuốc 279 84,8

Diclofenac 48 14,6

Paracetamol 2 0,6

Bảng 3. Điểm đau VAS sau phẫu thuật MLT (N = 329)

Thời điểm nghiên cứu

Lúc vận động Lúc nghỉ

dùng thuốc Không

dùng thuốc P Có dùng thuốc Không dùng

thuốc P

Mean ± SD Mean ± SD

Hậu phẫu ngày 2

T0 5,97 ± 1,45 3,85 ± 1,46 ()

T2 3,60 ± 1,35 1,84 ± 1,00 ()

T6 3,30 ± 1,28 1,60 ± 0,91 ()

Hậu phẫu ngày 3

T0 4,07 ± 1,28 2,19 ± 1,06 ()

T2 2,22 ± 0,99 1,01 ± 0,64 ()

T6 2,00 ± 0,86 0,85 ± 0,52 ()

Hậu phẫu ngày 4

T0 2,44 ± 0,94 2,4 ± 1,03 0,8 1,10 ± 0,59 1,07 ± 0,60 0,78

T2 1,10 ± 0,83 2,21 ± 0,97 < 0,001 0,23 ± 0,48 0,96 ± 0,55 < 0,001 T6 1,00 ± 0,80 2,18 ± 0,97 < 0,001 0,19 ± 0,39 0,95 ± 0,55 < 0,001

Mean: trung bình, SD: độ lệch chuẩn; () p < 0,05: So sánh từng cặp điểm đau lúc nghỉ và lúc vận động tại các thời điểm tương ứng.

Bảng 4. Thay đổi điểm đau trước và sau khi dùng diclofenac so với paracetamol (N = 329)

Thời điểm nghiên cứu Diclofenac Paracetamol

Mean ± SD Mean ± SD P

Lúc vận động

Hậu phẫu ngày 2 T0-T2 2,41 ± 0,97 1,97 ± 1,14() 0,02 T0-T6 2,74 ± 1,09 2,1 ± 1,04() 0,02 Hậu phẫu ngày 3 T0-T2 1,85 ± 0,98 1,39 ± 0,92() 0,01 T0-T6 2,08 ± 1,02 1,68 ± 0,70() 0,04

Hậu phẫu ngày 4 T0-T2 1,33 ± 1,08 0,5 ± 0,71() 0,29

T0-T6 1,44 ± 1,15 1,00 ± 1,41() 0,60

Lúc nghỉ

Hậu phẫu ngày 2 T0-T2 2,02 ± 1,09 1,90 ± 1,14() 0,56 T0-T6 2,28 ± 1,18 2,03 ± 1,08() 0,29 Hậu phẫu ngày 3 T0-T2 1,17 ± 0,87 1,03 ± 0,91() 0,39 T0-T6 1,34 ± 0,93 1,39 ± 0,62(() 0,79 Hậu phẫu ngày 4 T0-T2 0,88 ± 0,70 0,5 ± 0,71() 0,46 T0-T6 0,92 ± 0,68 0,5 ± 0,71() 0,40

Mean: trung bình, SD: độ lệch chuẩn; () So sánh từng cặp điểm đau trung bình của diclofenac và paracetamol tại các thời điểm hậu phẫu ngày thứ 2,3,4

(5)

BÀN LUẬN

Đặc điểm của mẫu nghiên cứu

Tuổi trung bình của sản phụ MLT trong nghiên cứu khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của Jasim H. và cộng sự (2017)(15). Phần lớn sản phụ chưa từng MLT trước đó với tuổi thai trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả nghiên cứu của Eisenach JC. và cộng sự (2008)(16). Thời điểm sinh hay MLT rất quan trọng cho sức khỏe trẻ sơ sinh, hạn chế tối đa các biến chứng khi trẻ sinh thiếu tháng. Phương pháp vô cảm trong phẫu thuật MLT được lựa chọn trong nghiên cứu là gây tê tủy sống, khá tương đồng theo nghiên cứu của Marcus H. và cộng sự (2014)(13). Gây tê tủy sống là phương pháp vô cảm thường áp dụng vì dễ thực hiện và nhanh chóng, mang lại hiệu quả vô cảm tối ưu, mức độ dãn cơ tốt, giúp bác sĩ sản khoa bắt em bé dễ dàng và hạn chế tối đa các sang chấn. Ngoài ra, hiệu quả giảm đau k o dài sau MLT do thuốc tê còn tác dụng, sản phụ cũng ít gặp buồn nôn, nôn ói và đau họng do không có đặt ống nội khí quản như khi gây mê toàn thân(17). Theo Jasim H. và cộng sự, gây mê toàn thân còn có thể dẫn đến gia tăng cường độ đau sau MLT(15). Thực trạng sử dụng thuốc giả đa (TGĐ) sau MLT và hi u quả điều trị đa sa M T.

Paracetamol và diclofenac là hai loại T Đ được sử dụng nhiều nhất trong chăm sóc giảm đau hậu phẫu MLT tại Bệnh viện Từ Dũ. Kết quả này phù hợp với khuyến cáo của Hiệp hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) 2018 về việc lựa chọn T Đ sau MLT(18). NSAID và paracetamol có hiệu quả cao trong kiểm soát cơn đau cấp tính sau phẫu thuật nên thường được thêm vào chế độ giảm đau sau MLT cùng với thuốc opioid để cải thiện cơn đau sau MLT và giảm nhu cầu opioid(9,19). Mặt khác, NSAID có tác dụng giảm đau tốt và cải thiện tốc độ hồi phục rõ rệt của bệnh nhân(19).

Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng thang điểm VAS là thang đo thường dùng nhất và đơn giản(14). Kết quả thu được cho thấy điểm đau VAS của sản phụ giảm dần qua các ngày hậu phẫu 2, 3, 4 từ trung bình 6 điểm (lúc vận động) và 4 điểm (lúc nghỉ) xuống 1 điểm (lúc vận động) và 0 điểm (lúc nghỉ). Jasim H. và cộng sự chứng minh rằng có sự khác biệt giữa cơn đau trung bình khi nghỉ ngơi và khi vận động vào thời điểm 24 và 48 giờ sau khi phẫu thuật, tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi(15). Chất lượng giảm đau tốt thể hiện ở điểm VAS trung bình khi nằm yên cũng như lúc vận động đều thấp hơn 4(20).

Về việc so sánh hiệu quả giảm đau giữa diclofenac và paracetamol, hiệu quả giảm đau của diclofenac so với paracetamol chỉ khác biệt có ý nghĩa thống kê lúc vận động vào ngày thứ 2, 3 sau MLT. Mặc dù chỉ là một khảo sát cắt ngang nhưng kết quả này cũng gợi ý cho việc cân nhắc lựa chọn diclofenac dạng viên đặt trực tràng phối hợp với paracetamol hoặc đơn trị sau hậu phẫu MLT. Nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt với nghiên cứu của Cobby T. F và cộng sự, trong đó paracetamol đường uống hiệu quả tương đương với diclofenac đặt trực tràng và được đề nghị điều trị đau vừa và nặng sau phẫu thuật(21). Nghiên cứu của ch ng tôi khá tương đồng với nghiên cứu của Rømsing J và cộng sự, sử dụng đồng thời paracetamol và một NSAID có hiệu quả tốt hơn so với paracetamol đơn độc nhưng không tìm thấy bằng chứng về tác dụng giảm đau vượt trội của phối hợp so với NSAID đơn thuần(22). Điều này cũng khá tương đồng với nghiên cứu của Munishankar và cộng sự, trong đó không có sự khác biệt giữa diclofenac so với nhóm diclofenac – paracetamol và diclofenac hiệu quả hơn paracetamol trong việc giảm liều dùng opioid(23). Nghiên cứu của Montgomery và cộng sự khảo sát trên 60 sản phụ không cấp cứu phẫu thuật phụ khoa ổ bụng, cũng cho thấy liều lượng morphin tiêu thụ trong nhóm dùng paracetamol nhiều hơn đáng kể so với nhóm dùng diclofenac (P <0,05)(5).

(6)

Như vậy, kết quả nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả giảm đau của diclofenac tốt hơn paracetamol nên có thể cân nhắc dùng diclofenac dạng phối hợp hoặc đơn trị liệu để giảm đau sau hậu phẫu MLT cho sản phụ. Tuy nhiên, c mẫu trong nghiên cứu còn ít so với tổng số sản phụ MLT hàng năm tại bệnh viện Từ Dũ nên cần mở rộng thời gian nghiên cứu và c mẫu thực hiện. Bên cạnh đó, số lượng sản phụ dùng paracetamol và dùng diclofenac có sự chênh lệch đáng kể nên việc so sánh tác dụng giảm đau giữa paracetamol và diclofenac vẫn còn hạn chế. Ngoài ra, một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng đau sau MLT có thể phân tích sâu hơn như số lần MLT của sản phụ, sinh con so hay con rạ, chỉ định MLT cấp cứu hay chủ động và cả tình trạng kinh tế và trình độ văn hóa của sản phụ.

KẾT LUẬN

Kết quả khảo sát trên 329 sản phụ có chỉ định MLT tại Bệnh viện Từ Dũ từ 01/03/2020 đến 31/03/2020 đã cung cấp nhận định chung về việc sử dụng T Đ trong chăm sóc hậu phẫu MLT, theo dõi và đánh giá được mức độ đau của sản phụ vào ngày hậu phẫu 2,3,4 sau MLT. Các kết quả này cho thấy nên tiếp tục sử dụng thuốc giảm đau cho sản phụ vào ngày thứ 2 và 3 sau MLT. Ngày hậu phẫu thứ 4, có thể không chỉ định sử dụng thuốc giảm đau nếu bệnh nhân ổn, cân nhắc tiếp tục sử dụng thuốc giảm đau nếu sản phụ còn than phiền đau nhiều. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phần nào cho thấy được hiệu quả giảm đau của viên đặt diclofenac so với paracetamol vào những ngày đầu tiên sau khi MLT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Betrán AP, Ye J, Moller AB, et al (2016), The increasing trend in caesarean section rates: global, regional and national estimates:1990-2014, PloS ONE, 11(2):148-343.

2. Đoàn Vũ Đại Nam (2017). Khảo sát mổ lấy thai theo nhóm phân loại của Robson tại bệnh viện Hùng Vương, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

3. Vũ Thị Nhung (2014). Lợi ích và nguy cơ của mổ lấy thai. Thời Sự Y Học, 23-25.

4. Karlström A, Engström-Olofsson R, Norbergh KG, et al (2007), Postpoperative pain after caesarean birth affects breastfeeding and infant care. Journal of Obstetric, Gynecologic & Neonatal Nursing, 36(5):430-440.

5. Montgomery JE, Sutherland CJ, Kestin IG, et al (1996). Morphine consumption in patients receiving rectal paracetamol and

diclofenac alone and in combination. British Journal of Anaesthesia, 77(1):445-447.

6. American Pain Society (2016). Guidelines on the management of postoperative pain. The Journal of Pain, 17(2):131-157.

7. Carvalho B, Butwick AJ (2017). Postcesarean delivery analgesia. Best Practice & Research Clinical Anaesthesiology, 31(1):69-79.

8. Gambling DR, Yu P, Cole C, et al (1988). A comparative study of patient controlled epidural analgesia (PCEA) and continuous infusion epidural analgesia (CIEA) during labour. Canadian Journal Anaesthesia, 35:249-54.

9. Kerai S, Saxena KN, Taneja B (2017). Post-caesarean analgesia: What is new?. Indian journal of anaesthesia, 61(3):200-214.

10. Mc Donnell NJ, Keating ML, Muchatuta NA, et al (2009), Analgesia after caesarean delivery. Anaesth Intensive Care, 37(4):539-51.

11. Lê Thị Thu Hà (2019). Tỉ lệ và các yếu tố liên quan của nhiễm khuẩn vết mổ sau lấy thai tại bệnh viện Từ Dũ. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 23(2):147-149.

12. Nguyễn Ngọc Rạng (2012). Ước tính c mẫu trong nghiên cứu y học, Thiết kế nghiên cứu & Thống kê Y học, pp.71. Nhà Xuất Bản Y Học, Hà Nội.

13. Marcus H, Gerbershagen HJ, Peelen LM, et al (2014), Quality of pain treatment after caesarean section: Results of a multicentre cohort study, European Journal of Pain, 19(7):929–939.

14. Ismail S, Shahzad K, Shafiq F (2012). Observational study to assess the effectiveness of postoperative pain management of patients undergoing elective cesarean section. Journal of Anaesthesiology Clinical Pharmacology, 28(1):36.

15. Jasim HH, Sulaiman S, Khan AH, et al (2017). Factors affecting post caesarean pain intensity among women in the Northern Peninsular of Malaysia. Journal of Clinical and Diagnostic research, 11(9):07-11.

16. Eisenach JC, Pan PH, Smiley R, et al (2008). Severity of acute pain after childbirth, but not type of delivery, predicts persistent pain and postpartum depression. Pain, 140(1):87–94.

17. Mã Thanh Tùng, Trương Quốc Việt, Nguyễn Văn Chừng (2012). Nghiên cứu sự thay đổi huyết động, các tai biến biến chứng của levobupivacaine phối hợp với sufentanil trong gây tê tủy sống MLT. Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 16(1):312-314.

18. American College of Obstetricians and Gynecologists (2018), ACOG Committee Opinion No. 742: Postpartum pain management, Obstet Gynecol, 132(1):e35-e43.

19. Moote C (1992). Efficacy of nonsteroidal anti-inflammatory drugs in the management of postoperative pain, Drugs, 44(5):14–30.

20. Nguyễn Quốc Anh, Nguyễn Toàn Thắng, Tiêu Tiến Quân (2015).

Hiệu quả giảm đau sau mổ và tác dụng không mong muốn của hai liều morphin tủy sống trong phẫu thuật thay khớp háng. Nghiên Cứu Y Học, 94(2):24-31.

21. Cobby TF, Crighton IM, Kyriakides K, et al (1999). Rectal paracetamol has a significant morphine-sparing effect after hysterectomy. Bristish Journal of Anaesthesia, 83(2):253-256.

22. Rømsing J, Møiniche S, Dahl JB (2002). Rectal and parenteral paracetamol, and paracetamol in combination with NSAIDs, for postoperative analgesia. Bristish Journal of Anaesthesia, 88(2):215-226.

23. Munishankar B, Fettes P, Moore C, et al (2008), A double-blind randomized controlled trial of paracetamol, diclofenac or their combination for pain relief after cesarean section, International Journal Obstetric Anesthesia, 17(1):9-14.

Ngày nhận bài báo: 15/12/2020

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/01/2021 Ngày bài báo được đăng: 20/04/2021

Referensi

Dokumen terkait