• Tidak ada hasil yang ditemukan

khảo sát tình hình sử dụng nhóm kháng sinh carbapenem tại

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "khảo sát tình hình sử dụng nhóm kháng sinh carbapenem tại"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NHÓM KHÁNG SINH CARBAPENEM TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC – CHỐNG ĐỘC

BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH THUẬN

Trần Mạnh Duy1,2, Nguyễn Như Hồ2

TÓM TẮT

Mở đầu: Carbapenem là các kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng trong nhóm beta lactam, thường là kháng sinh để dành cho những bệnh nhân nặng và cũng là thuốc được lựa chọn cho trực khuẩn Gram âm hiếu khí sản sinh ESBL.

Mục tiêu: Khảo sát tình hình đề kháng kháng sinh, tình hình sử dụng carbapenem và đánh giá tính phù hợp của lựa chọn kháng sinh carbapenem tại một đơn vị chăm sóc tích cực.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 280 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân được chỉ định nhóm kháng sinh carbapenem tại khoa Hồi sức tích cực - chống độc bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận từ 07/2020 đến 12/2020. Tiêu chí khảo sát tính hợp lý của việc sử dụng kháng sinh dựa vào Hướng dẫn sử dụng kháng sinh Bộ Y Tế 2015; Hướng dẫn sử dụng kháng sinh của bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận 2017 và The Sanford Guide to Antimicrobial Therapy 2020.

Kết quả: Imipenem là kháng sinh trong nhóm carbapenem được chỉ định nhiều nhất chiếm 93,9%.

Ciprofloxacin được phối hợp với nhóm carbapenem với tỷ lệ cao nhất, chiếm 20,4%. Acinetobacter sp. chiếm đa số trong các mẫu vi khuẩn phân lập được (82,7%) và có tỷ lệ kháng imipenem và meropenem lần lượt là 45,5% và 39,4%. Tỷ lệ vi khuẩn tiết ESBL là 57,5%. Có 57,9% trường hợp kháng sinh (carbapenem và các thuốc phối hợp) được kê đơn chưa phù hợp, trong đó thường gặp nhất là chưa điều chỉnh liều phù hợp.

Kết luận: Việc tuân thủ các hướng dẫn sử dụng kháng sinh và định kỳ cập nhật kháng khuẩn đồ tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc cần được chú ý hơn nhằm góp phần cải thiện hiệu quả điều trị và hạn chế đề kháng với nhóm carbapenem.

Từ khóa: Carbapenem, ESBL, đề kháng kháng sinh, hồi sức tích cực

ABSTRACT

INVESTIGATION ON CARBAPENEM USE AT THE DEPARTMENT OF INTENSIVE CARE AND ANTI-POISON AT NINH THUAN GENERAL HOSPITAL

Tran Manh Duy, Nguyen Nhu Ho

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 4 - 2021: 161 - 167 Introduction: Carbapenem are antibiotics with the wide spectrum among beta lactam group, often reserved for critically ill patients and are also the drug class of choice for ESBL-producing aerobic Gram-negative bacilli.

Objectives: To investigate the prevalence of antimicrobial resistance, the pattern of carbapenem use, and evaluate the appropriateness of carbapenem prescribing at the intensive care unit.

Materials and methods: A cross-sectional study on 280 medical records of patients prescribed carbapenem at Department of Intensive care and anti-poison at Ninh Thuan General hospital from 07/2020 to 12/2020.

Criteria for the critical use of antibiotics were based on Guidelines for using antibiotics of the Ministry of Health, 2015; Antibiotic Usage Guidelines of Ninh Thuan General Hospital, 2017 and The Sanford Guide to

1Khoa Dược, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Thuận

2Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

(2)

Antimicrobial Therapy, 2020.

Results: Imipenem was the most prescribed antibiotic (93.9% of all medical records). The antibiotic often combined with carbapenem group was ciprofloxacin, accounting for 20.4%. Acinetobacter sp. were the most common bacteria isolated (82.7%) and the resistance rates to imipenem and meropenem were 45.5% and 39.4%, respectively. The percentage of ESBL-producing bacteria was 57.5%. About 57.9 % of antibiotic regimens (including carbapenem and combined antibiotics) were inappropriately prescribed, of which dosage problems were most commonly observed.

Conclusion: The study findings suggest that clinicians should appropriately adhere to antimicrobial guidelines and regularly update antibiogram in order to improve treatment outcome and restrain antimicrobial resistance to carbapenem, especially for patients at the intensive care unit.

Keywords: Carbapenem, ESBL, antimicrobial resistance, ICUs

ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, chỉ tính riêng tại Mỹ, mỗi năm có hơn 2,8 triệu người nhiễm trùng có yếu tố đề kháng kháng sinh, dẫn đến 35.000 người tử vong. Ở Châu Âu, đề kháng kháng sinh gây ra tử vong ước đoán hàng năm là 33.000 người(1). Tại Việt Nam, nghiên cứu thực hiện tại 12 bệnh viện ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam trong năm 2017 và 2018 cho thấy tỷ lệ đề kháng kháng sinh của Enterobacteriaceae đối với nhóm kháng sinh carbapenem lên đến 52%(2). Đề kháng kháng sinh được đánh giá là mối đe dọa đối với y tế toàn cầu(3), trong đó thách thức từ việc đề kháng kháng sinh carbapenem đang là mối quan tâm hàng đầu vì sẽ làm tăng thời gian nằm viện và tỷ lệ tử vong(4).

Hiện nay, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận, vẫn chưa có nghiên cứu nào khảo sát về việc sử dụng kháng sinh carbapenem tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc. Nhằm nâng cao chất lượng điều trị, sử dụng kháng sinh hiệu quả, an toàn, hợp lý, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục tiêu khảo sát tình hình đề kháng, tình hình sử dụng và đánh giá tính hợp lý của việc sử dụng nhóm kháng sinh carbapenem.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Các hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nội trú tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc bệnh viện đa

khoa tỉnh Ninh Thuận từ ngày 01/7/2020 đến 31/12/2020 có chỉ định sử dụng nhóm kháng sinh carbapenem.

Tiêu chuẩn loại trừ

Bệnh nhân không đầy đủ các thông tin về chẩn đoán, chỉ định và thuốc điều trị, các trường hợp trốn viện, chuyển viện, tử vong, bệnh nhân bị nhiễm HIV, bị lao.

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Cắt ngang mô tả.

Cỡ mẫu

Tất cả bệnh án thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và không thuộc tiêu chuẩn loại trừ trong thời gian từ 01/7/2020 đến 31/12/2020.

Các tiêu chí khảo sát

Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu

Tuổi, giới tính, cân nặng, chức năng thận ban đầu, bệnh nhiễm trùng, bệnh mắc kèm, số lượng bệnh mắc kèm, chỉ số bệnh mắc kèm Charlson.

Đặc điểm vi sinh và sự đề kháng kháng sinh

Mẫu bệnh phẩm, tỷ lệ cấy dương tính của mẫu bệnh phẩm, chủng vi khuẩn phân lập được, tình hình đề kháng kháng sinh carbapenem.

Đặc điểm sử dụng kháng sinh và tính hợp lý trong chỉ định kháng sinh

Kháng sinh kinh nghiệm (KSKN) và kháng sinh sau khi có kết quả kháng sinh đồ (KSĐT).

(3)

Tiêu chí đánh giá tính phù hợp của việc sử dụng kháng sinh

Hợp lý về loại kháng sinh

KSKN được đánh giá hợp lý khi tuân thủ một trong ba hướng dẫn điều trị: (1) Hướng dẫn sử dụng kháng sinh Bộ Y Tế 2015(5), (2) Hướng dẫn sử dụng kháng sinh của bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận 2017(6), (3) The Sanford Guide to Antimicrobial Therapy 2020(7).

KSĐT được đánh giá hợp lý khi vi khuẩn nhạy cảm với kháng sinh sử dụng theo kết quả kháng sinh đồ.

Hợp lý về liều

Được đánh giá dựa trên các hướng dẫn trên tờ hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất và The Sanford Guide to Antimicrobial Therapy 2020(7). Hợp lý về phối hợp kháng sinh

Được đánh giá hợp lý về phối hợp giữa carbapenem với các kháng sinh khác khi tuân thủ một trong ba hướng dẫn điều trị: (1) Hướng dẫn sử dụng kháng sinh Bộ Y Tế 2015(5), (2) Hướng dẫn sử dụng kháng sinh của bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận 2017(6), (3) The Sanford Guide to Antimicrobial Therapy 2020(7).

Hợp lý sử dụng kháng sinh Khi hợp lý cả 3 tiêu chí trên.

Xử lý và phân tích số liệu

Sử dụng phần mềm Microsoft Excel trong Office 365 và Minitab 19. Thống kê mô tả được sử dụng để trình bày đặc điểm của mẫu nghiên cứu. Các biến liên tục được biểu diễn bằng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (TB ± SD) hoặc trung vị (khoảng tứ phân vị). Các biến không liên tục được mô tả theo tỷ lệ phần trăm.

KẾT QUẢ

Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu

Nghiên cứu ghi nhận 280 bệnh nhân được chỉ định sử dụng kháng sinh carbapenem (Bảng 1).

Đặc điểm vi sinh và đề kháng kháng sinh Tổng số bệnh phẩm ghi nhận được từ 280 hồ sơ bệnh án là 308, trong đó tỷ lệ bệnh nhân

được cấy mẫu bệnh phẩm là 90%, tỷ lệ cấy trước khi sử dụng kháng sinh là 84,9%, tỷ lệ cấy sau khi sử dụng kháng sinh là 15,1%, mẫu máu chiếm đa số 69,5%. Tỷ lệ các mẫu còn lại là mẫu đàm 16,2%, mẫu dịch não tủy 5,8%, mẫu nước tiểu 5,2%, mẫu mủ 1,1%, mẫu dịch màng phổi 0,6%, mẫu dịch vết mổ 0,3% và các mẫu khác 1,3%. Tỷ lệ cấy dương tính từ 308 mẫu bệnh phẩm khá thấp (31,2%). Trong đó kết quả cấy vi khuẩn Acinetobacter sp.

chiếm tỷ lệ cao nhất 34,4%, tiếp đến là E. coli 22,9% và Klebsiella sp. 11,5% (Bảng 2).

Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (n = 280)

Đặc điểm Phân bố Tần số

(tỷ lệ %, n, %) Tuổi Trung vị (IQR) 62 (49 – 76,5)

Giới tính Nam 54,6

Cân nặng (kg) Trung vị (IQR) 55 (50 – 60) Chức năng

thận ban đầu

ClCr (mL/phút) 37 (22,25 – 67,25) eGFR (mL/phút/1,73 m2) 41 (25 – 69,5)

Bệnh nhiễm trùng

Sốc nhiễm trùng 33,4

Viêm phổi 28,2

Nhiễm trùng huyết 18,4 Nhiễm trùng đường tiết niệu 3,9

COPD đợt cấp 3,8

Viêm mô tế bào 2,5

Nhiễm trùng đường tiêu

hóa 1,9

Viêm màng não 1,9

Bệnh khác 6,0

Bệnh mắc kèm

Tăng huyết áp 12,9 Bệnh đường tiêu hóa 11,7 Bệnh đường hô hấp (hen

suyễn, COPD…) 9,5

Bệnh thận (cấp, mạn) 9

Suy tim 8,2

Đái tháo đường 7,8

Đau thắt ngực 6,2 Bệnh tim thiếu máu cục bộ 5,5

Bệnh gan

(suy gan, xơ gan…) 2,6 Bệnh nhồi máu não 2,2 Rối loạn lipid máu 1,3

Bệnh khác 23,1

Số lượng bệnh

mắc kèm Trung vị (IQR) 3 (1 – 5) Chỉ số bệnh

kèm Charlson Trung vị (IQR) 3 (1 – 5)

ClCr: độ thanh thải creatinin, eGFR: độ lọc cầu thận ước tính, IQR: khoảng tứ phân vị

(4)

Bảng 2. Đặc điểm chủng vi khuẩn phân lập được

Vi khuẩn phân lập được

Số lượng mẫu phân

lập được Tỷ lệ %

Acinetobacter sp. 33 34,4

E. coli 22 22,9

Klebsiella sp. 11 11,5

Candida 8 8,3

P. aeruginosa 8 8,3

MRSA 5 5,2

Staphylococcus coagulase âm 5 5,2 Stenotrophomonas maltophilia 2 2,2

Burkholderia pseudomaleii 1 1

S. viridans 1 1

Tổng cộng 96 100

Đặc điểm về tình hình đề kháng của vi khuẩn với carbapenem theo kết quả kháng sinh đồ được trình bày trong Bảng 3.

Bảng 3. Mức độ kháng carbapenem của vi khuẩn phân lập

Vi khuẩn phân lập được

Số lượng phân lập

được

Kháng Imipenem

Kháng Meropenem Tỷ lệ % (n/N) Acinetobacter sp. 33 45,5 (15/33) 39,4 (13/33)

E. coli 22 18,2 (4/22) 9,1 (2/22) Klebsiella sp. 11 45,5 (5/11) 45,5 (5/11) P. aeruginosa 8 25 (2/8) 25 (2/8) B. pseudomaleii 1 0 (0/1) 0 (0/1)

S. viridans 1 0 (0/1) 0 (0/1)

Tỷ lệ vi khuẩn tiết ESBL là 57,5% (19/33) với 12 mẫu E. coli và 7 mẫu Klebsiella sp. Đối với E.

coli, tỷ lệ tiết ESBL là 54,5% (12/22) và đối với Klebsiella sp. là 63,6% (7/11).

Tình hình sử dụng kháng sinh carbapenem Kháng sinh nhóm carbapenem được kê đơn chỉ gồm 2 loại là imipenem/cilastatin (93,9%) và meropenem (6,1%). Thời gian sử dụng kháng sinh trung vị là 3 (2 – 6) ngày.

Trong số 280 hồ sơ bệnh án, có 4% bệnh nhân được chỉ định đơn trị với carbapenem, còn lại 96% là sử dụng kháng sinh phối hợp. Kháng sinh kinh nghiệm và sau khi có kháng sinh đồ thường được phối hợp với carbapenem là fluoroquinolon (ciprofloxacin, moxifloxacin, levofloxacin). Bảng 4 trình bày loại kháng sinh phối hợp với carbapenem tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc trên 365 lượt kê đơn.

Bảng 4. Các kháng sinh phối hợp với carbapenem trong điều trị (N = 365)

Đặc điểm Tên kháng sinh Tỷ lệ %

Kháng sinh phối hợp theo kinh nghiệm (%)

Ciprofloxacin 20,3 Moxifloxacin 18,4 Levofloxacin 18,1 Metronidazol 16,2

Vancomycin 10,1

Netilmicin 5,2

Linezolid 3,8

Amikacin 2,5

Colistin 1,9

Khác 3,6

Kháng sinh phối hợp sau khi có kháng

sinh đồ (%)

Moxifloxacin 16,7 Ciprofloxacin 12,8 Levofloxacin 12,8 Metronidazol 10,3

Ampicillin +

sulbactam 9

Vancomycin 7,7

Netilmicin 7,7

Amikacin 7,7

Linezolid 5,1

Colistin 3,8

Khác 6,4

Đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng kháng sinh và kết quả điều trị

Trong 280 hồ sơ bệnh án, số bệnh án kê đơn kháng sinh hợp lý chiếm 42,1% (118/280). Trong số 57,9% (162/280) trường hợp kê đơn chưa hợp lý, chủ yếu là chưa hợp lý về liều chiếm 90,6%, còn lại là chưa hợp lý về phối hợp kháng sinh chiếm 5% và chưa hợp lý về chỉ định chiếm 4,4%. Một số trường hợp sử dụng carbapenem chưa hợp lý ghi nhận được bao gồm không điều chỉnh liều theo chức năng thận, phối hợp carbapenem với metronidazol cùng phổ tác dụng trên vi khuẩn kị khí(7) và sử dụng linezolid trước khi sử dụng vancomycin trong điều trị MRSA ở bệnh nhân có chức năng thận và gan bình thường(5,7).

BÀN LUẬN

Nghiên cứu khảo sát trên 280 hồ sơ bệnh án nội trú thuộc khoa Hồi sức tích cực – chống độc của bệnh nhân nằm viện trong khoảng từ 1/7/2020 đến 31/12/2020. Đa số là bệnh nhân lớn tuổi với trung vị 62 (49 – 76,5) tuổi. Điều

(5)

này là phù hợp vì ở độ tuổi trên 60 tuổi, bệnh nhân có thể bị suy giảm miễn dịch làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của J.Perron tại một bệnh viện đại học tại Pháp với độ tuổi trung vị của bệnh nhân là 66 (16 – 93) tuổi(8). Trong nghiên cứu hiện tại, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn với 54,5%. Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu về carbapenem như nghiên cứu của Svetlana Sadryrbaeva-Dolgova và cộng sự tại bệnh viện đại học tại Tây Ban Nha (2019), Antonio Faraone và cộng sự tại một bệnh viện tại Ý (2020)(9,10)

Carbapenem thường được chỉ định để điều trị các trường hợp như sốc nhiễm trùng, viêm phổi và nhiễm trùng huyết (theo Bảng 1). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu trước đây về mô hình nhiễm khuẩn tại bệnh viện và tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc(11), từ đó cho thấy vai trò của kháng sinh carbapenem trong điều trị những bệnh nhiễm khuẩn nặng tại bệnh viện.

Phần lớn bệnh nhân có nhiều bệnh mắc kèm với trung vị là 3 (1 – 5) bệnh, chỉ số bệnh mắc kèm Charlson cũng là 3 (1 – 5), gợi ý tiên lượng bệnh nặng và khó điều trị. Các bệnh mắc kèm thường là tăng huyết áp, các bệnh đường tiêu hóa, bệnh hô hấp, bệnh thận… phù hợp với độ tuổi của mẫu nghiên cứu và mô hình bệnh tật ở nước ta. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Faitlin F. Mitchell và cộng sự(12) với các bệnh thường mắc kèm là tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

Mẫu máu là mẫu được chỉ định xét nghiệm để tìm vi khuẩn gây bệnh nhiều nhất, chiếm 69,5%, tiếp theo là mẫu đàm 16,2%. Bệnh nhân tại các khoa Hồi sức tích cực thường có thời gian nằm viện lâu và cần sử dụng các thiết bị hỗ trợ hô hấp, nuôi ăn… tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh xâm nhập vào máu gây nhiễm trùng huyết. Do đó, việc dự đoán các tác nhân nhiễm khuẩn và vị trí nhiễm khuẩn vô cùng quan trọng để lựa chọn kháng sinh phù hợp, đồng thời giúp dự đoán các tình

huống lâm sàng có thể mắc phải từ đó làm giảm nguy cơ thất bại trong điều trị.

Kết quả nuôi cấy vi sinh cho thấy Acinetobacter sp. được phân lập với tỷ lệ cao nhất (34,4%), tiếp theo E. coli (22,9%), Klebsiella sp.

(11,5%). Kết quả này tương tự kết quả nhiên cứu của Faitlin F. Mitchell và cộng sự với K. pneumoniae (19,2%), E. coli (15,2%), Acinetobacter baumanii (7,2%) là các tác nhân chủ yếu(12). Cùng với sự gia tăng đáng kể tỷ lệ đề kháng thuốc trong những năm gần đây, các vi khuẩn Gram âm trên cần được chú ý khi điều trị bệnh nhân tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc.

Trong nghiên cứu hiện tại, các vi khuẩn Gram âm quan trọng đều có tỷ lệ đề kháng tương đối cao đối với imipenem và meropenem (Bảng 3). Tỷ lệ đề kháng của Acinetobacter sp. với carbapenem từ 39,4% – 45,5%, nhìn chung thấp hơn so với kết quả của dự án VINARES (Việt Nam Resitance)(13) thu thập dữ liệu từ 13 bệnh viện tại Việt Nam trong năm 2016 – 2017 (tỷ lệ A. baumannii kháng carbapenem lên đến 79%) (Bảng 5). Dù vậy, tỷ lệ đề kháng gần 50% như trong nghiên cứu của chúng tôi đặt ra thách thức rất lớn cho các nhà lâm sàng trong điều trị các ca nhiễm Acinetobacter sp. Ngoài ra, mức độ đề kháng carbapenem của Klebsiella sp. cao hơn kết quả của dự án VINARES (45,5% so với 27%)(13). Ngược lại, tỷ lệ đề kháng của P. aeruginosa đối với carbapenem (25%) của nghiên cứu chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của VINARES (45%)(13). Nguyên nhân có thể do trên thực tế lâm sàng, tại bệnh viện, các kháng sinh khác có phổ trên trực khuẩn mủ xanh như piperacillin + tazobactam, cefepim, ciprofloxacin, levofloxacin hoặc aminoglycosid được ưu tiên sử dụng trước carbapenem.

Tỷ lệ vi khuẩn tiết ESBL của các vi khuẩn phân lập được là 57,5%, cao hơn so với kết quả của tác giả Trương Anh Dũng (28,3%)(14). Điều này có thể do nghiên cứu hiện tại thực hiện tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc với tỷ lệ đề kháng kháng sinh cao, đồng thời những bệnh nhân được chỉ định carbapenem có thể đã nhiễm

(6)

vi khuẩn sản sinh ESBL trước đó vì đã có thời gian được chỉ định cephalosporin thế hệ 3, 4 nhưng không đem lại kết quả.

Đa số phác đồ kháng sinh kinh nghiệm là phối hợp kháng sinh (96%), thường gặp nhất là phối hợp fluoroquinolon, tiếp theo là metronidazol, vancomycin, aminoglycosid. Sau khi có kết quả kháng sinh đồ, các kháng sinh được chọn để phối hợp điều trị nhiều nhất vẫn là fluoroquinolon (moxifloxacin, ciprofloxacin, levofloxacin). Việc phối hợp kháng sinh như vậy phù hợp với phác đồ của Bộ Y tế khuyến cáo phối hợp beta-lactam với các kháng sinh nhóm fluoroquinolon hoặc aminoglycosid trong điều

trị các bệnh nhiễm khuẩn nặng như sốc nhiễm trùng, viêm phổi và nhiễm trùng huyết(5).

Việc sử dụng kháng sinh carbapenem chưa hợp lý xảy ra ở 57,9% bệnh nhân. Trong các trường hợp được ghi nhận sử dụng không hợp lý, đa số là do không chỉnh liều phù hợp theo chức năng thận (90,6%), cụ thể là không giảm liều trong một lần dùng hoặc không giãn khoảng cách liều phù hợp với chức năng thận theo khuyến cáo của The Sanford Guide to Antimicrobial Therapy 2020(7). Ngoài ra, tỷ lệ phối hợp với kháng sinh khác chưa hợp lý chiếm 5%, chỉ định không hợp lý là 4,4%

Bảng 5. Kết quả đề kháng kháng sinh của A. baumannii, K. pneumoniae, P. aeruginosa và E. coli từ các mẫu của 13 bệnh viện trong dự án VINARES 2016 – 2017(13)

A. baumannii K. pneumoniae P. aeruginosa E. coli Carbapenem 2855/3622 (79%) 1049/3816 (27%) 1514/3376 (45%) 961/8830 (11%) Aminoglycosid 2686/3641 (74%) 1756/3780 (46%) 1457/3389 (43%) 4188/8785 (48%) Fluoroquinolon 2929/3589 (82%) 1593/3619 (44%) 1435/3357 (43%) 5813/8682 (67%) Cephalosporin 2969/3549 (84%) 1995/3732 (53%) 1392/3058 (46%) 5441/8195 (66%) Ticarcillin/acid clavulanic 863/1449 (60%) 1097/2160 (51%) 1317/2947 (45%)

Tử số là số lượng chủng vi khuẩn đề kháng và mẫu số là số lượng chủng phân lập được.

KẾT LUẬN

Ở bệnh nhân điều trị bằng kháng sinh carbapenem tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc trong nghiên cứu này, tác nhân vi khuẩn thường phân lập được là Acinetobater sp. với tỷ lệ đề kháng impenem và meropenem lần lượt là 45,5% và 39,4%. Trong khi đó, việc chỉ định kháng sinh theo kinh nghiệm và theo kháng sinh đồ vẫn chưa được tối ưu khi đánh giá dựa trên các khuyến cáo. Việc tuân thủ các hướng dẫn sử dụng kháng sinh và định kỳ cập nhật kháng khuẩn đồ cần được chú ý hơn nhằm góp phần cải thiện việc điều trị và hạn chế đề kháng kháng sinh.

Y Đức

Nghiên cứu đã được chấp thuận bởi Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh theo quyết định số 908/HĐĐĐ ngày 30/11/2020.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. WHO (2019). Antibacteria agents in clinical development.

URL: https://www.who.int/publications/i/item/9789240000193 (access on 5/6/2021).

2. Tran DM, Larsson M, Olson L, et al (2019). High prevalence of colonisation with carbapenem-resistant Enterobacteriaceae among patients admitted to Vietnamese hospitals: Risk factors and burden of disease. The Journal of Infection,79(2):115–122.

3. Chotiprasitsakul D, Han JH, et al (2018). Comparing the outcomes of adults with enterobacteriaceae bacteremia receiving short-course versus prolonged-course antibiotic therapy in a multicenter, propensity score-matched cohort, Clin Infect Dis 66(2):172-177.

4. Hawkey PM, Warren RE, Livermore DM, et al (2018).

Treatment of infections caused by multidrug-resistant Gram- negative bacteria: report of the British Society for antimicrobial chemotherapy/healthcare infection society/British infection association joint working party. J Antimicrob Chemother, 73(S3):iii2-iii78.

5. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn sử dụng kháng sinh (Ban hành kèm theo Quyết định số 708/QĐ-BYT ngày 02/3/2015). Nhà Xuất Bản Y Học, Hà Nội.

6. Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận (2017). Hướng dẫn sử dụng kháng sinh: Tài liệu lưu hành nội bộ. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Thuận, Ninh Thuận.

7. Gilbert DN, Chambers HF, Pavia AT, et al (2020). The Sanford guide to antimicrobial therapy 2020, 50th ed, pp.236 - 256.

Antimicrobial Therapy, Inc, USA.

(7)

8. Perron J, Baldolli A, Isnard C, et al (2020). Assessing the relevance of carbapenem prescriptions by an antibiotic stewardship team. Med Mal Infect 50(4):346-351.

9. Sadyrbaeva-Dolgova S, Aznarte-Padial P, et al (2019). Clinical outcomes of carbapenem de-escalation regardless of microbiological results: a propensity score analysis. Int J Infect Dis, 85:80-87.

10. Faraone A, Poggi A, Cappugi C, et al (2020). Inappropriate use of carbapenems in an internal medicine ward: Impact of a carbapenem-focused antimicrobial stewardship program. Eur J Intern Med 78:50-57.

11. Versporten A, Zarb P, Caniaux I, et al (2018). Antimicrobial consumption and resistance in adult hospital inpatients in 53 countries: results of an internet-based global point prevalence survey. Lancet Glob Health 6(6):e619-e629.

12. Mitchell KF, Safdar N, Abad CL (2019). Evaluating carbapenem restriction practices at a private hospital in

Manila, Philippines as a strategy for antimicrobial stewardship.

Arch Public Health, 77:31.

13. Vu TVD, Choisy M, Do TTN, et al (2021). Antimicrobial susceptibility testing results from 13 hospitals in Viet Nam:

VINARES 2016-2017. Antimicrob Resist Infect Control 10(1):78.

14. Trương Anh Dũng, Nguyễn Văn Mười, Võ Tuấn Trường, et al (2019). Khảo sát trực khuẩn gram âm - Enterobacteriaceae sinh men β-lactamase phổ rộng (ESPL - Extended spectrum beta lactamase) tại bệnh viện quận Bình Tân TP. Hồ Chí Minh. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 23(S5):236-242.

Ngày nhận bài báo: 24/02/2021

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/06/2021 Ngày bài báo được đăng: 20/08/2021

Referensi

Dokumen terkait