• Tidak ada hasil yang ditemukan

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ METHADONE TẠI TRUNG TÂM Y TẾ QUẬN NINH KIỀU

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ METHADONE TẠI TRUNG TÂM Y TẾ QUẬN NINH KIỀU"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ

VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ METHADONE TẠI TRUNG TÂM Y TẾ QUẬN NINH KIỀU

Lê Đức Thạnh1*,Phan Thị Ngọc Thảo1, Phạm Thị Thúy An1, Lê Thành Tài2

1. Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều 2. Trường Đại học Y Dược Cần Thơ Email: [email protected] TÓM TẮT

Đặt vấn đề: điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng methadone sẽ cải thiện được tình trạng sức khoẻ của người nghiện chích ma túy, điều trị kịp thời các bệnh nhiễm trùng cơ hội cũng như các bệnh khác có liên quan đến việc sử dụng chất ma túy, từ đó tác động giảm bớt gánh nặng chi phí cho gia đình người nghiện chích ma túy và xã hội. Mục tiêu nghiên cứu: 1). Xác định tỷ lệ người nghiện chích ma túy tuân thủ điều trị; 2). Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến không tuân thủ điều trị. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 140 bệnh nhân điều trị methadone tại Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. Kết quả: bệnh nhân tuân thủ điều trị chung đạt 67,9%; trong đó, tuân thủ đến phòng khám methadone uống mỗi ngày 94,3; tuân thủ xét nghiệm HIV định kỳ là 77,9%; tuân thủ xét nghiệm nước tiểu đạt 99,3%; tuân thủ không tái sử dụng heroin đạt 92,9; những bệnh nhân sống một mình, nhiễm HIV, có kiến thức chưa đúng về methadone không tuân thủ cao gấp lần lượt 3,150; 15,273; 3,948 lần so với các nhóm bệnh nhân còn lại, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,05. Kết luận: bệnh nhân tuân thủ điều trị đạt 67,9%.

Từ khóa: tuân thủ điều trị, methadone.

ABSTRACT

SURVEY OF TREATMENT COMPLIANCE AND SOME RELATED FACTORS OF METHADONE PATIENT TREATMENT IN NINH KIEU MEDICINE

CENTER

Le Duc Thanh1*, Phan Thi Ngoc Thao1, Pham Thi Thuy An1, Le Thanh Tai2 1. Ninh Kieu Medicine Center 2. Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: Methadone substitution therapy for opioid addiction will improve the health status of injecting drug users, timely treat opportunistic infections as well as other drug-related illnesses, thereby reducing the burden of cost for the family of injecting drug users and society. Objectives: 1) To identify the proportion of injecting drug users who adhere to treatment; 2) To find out some of the factors related to non-compliance. Materials and methods: We conducted a cross-sectional descriptive study with analysis on 140 patients treated with methadone in Ninh Kieu Medicine Center, analyzing data using SPSS 18.0 software. Results: Patients adhered to general treatment reached 67.9%; in which, compliance to methadone clinic every day for 94.3%; compliance with routine HIV testing was 77.9%; compliance with urine test reached 99.3%; non-reusing of heroin reached 92.9%; patients have lived alone, infected with HIV, with improper knowledge of methadone did not adhere to 3.150 times higher; 15.273; 3.948 times compared to the remaining patient groups, the difference was statistically significant, p<0.05. Conclusion:

Patients compliance with treatment reached 67.9%.

Keywords: adhere to treatment, methadone.

(2)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo Báo cáo của Bộ Y tế, nguy cơ lây truyền virus gây suy giảm miễn dịch ở người ở Việt Nam giai đoạn hiện nay vẫn còn tập trung nhiều trong nhóm nghiện chích ma túy và từ nhóm nghiện chích ma túy sang vợ hoặc bạn tình của họ. Số liệu thống kê cho thấy, ước tính tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm người tiêm chích ma túy cao hơn 28 lần so với các nhóm khác [1]. Năm 1996, Viện Sức khỏe Tâm thần nghiên cứu liệu pháp Methadone cho đối tượng nghiện chất dạng thuốc phiện. Từ cuối năm 1996 Việt Nam đã bắt đầu áp dụng chương trình can thiệp thử nghiệm điều trị bằng Methadone cho những người nghiện chích ma túy. Năm 2008, chương trình điều trị thí điểm nghiện các chất thuốc phiện bằng Methadone được triển khai tại Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến ngày 31/12/2015, toàn quốc đã có 57 tỉnh, 239 cơ sở điều trị Methadone, 43.720 người được điều trị Methadone. Bên cạnh những mô hình truyền thống điều trị cai nghiện ma túy thì chương trình điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone cũng đã được chứng minh tính hiệu quả trong việc giảm thiểu những tác hại có liên quan đến việc sử dụng ma túy [7].

Điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Methadone sẽ cải thiện được tình trạng sức khoẻ của người nghiện chích ma túy, điều trị kịp thời các bệnh nhiễm trùng cơ hội cũng như các bệnh khác có liên quan đến việc sử dụng chất ma túy, từ đó tác động giảm bớt gánh nặng chi phí cho gia đình người nghiện chích ma túy và xã hội [1].

Mặc dù có nhiều nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đã chứng minh được hiệu quả thực tế của chương trình điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Methadone. Và tại thành phố Cần Thơ trong những năm gần đây cũng đã mở rộng mạng lưới điều trị methadone bằng cách thành lập thêm các cơ sở điều trị mới tại một số quận huyện để người nghiện chích ma túy tham gia chương trình dễ dàng hơn. Nhưng số người nghiện chích ma túy tham gia vào chương trình ngày càng ít và số người bỏ trị lại tăng lên. Cụ thể, tại quận Ninh Kiều, trong 3 năm 2015, 2016, 2017 số người đăng ký điều trị mới lần lượt là 36, 12, 10 và số người bỏ trị lần lượt là 32, 37, 36 [9], [10], [11]. Do đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Khảo sát tình hình tuân thủ điều trị và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân điều trị methadone tại Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều”.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu

Những người nghiện chích ma túy đang tham gia điều trị Methadone tại Cơ sở điều trị Methadone thuộc Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích.

Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:

Nghiên cứu chọn tất cả 140 bệnh nhân đang điều trị methadone tại Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều.

Nội dung nghiên cứu:

Đặc điểm chung của nhân viên bán thuốc: tuổi, giới tính, duy trì điều trị Tình hình tuân thủ điều trị của bệnh nhân:

+ Đến phòng khám nhận methadone uống mỗi ngày;

+ Xét nghiệm HIV định kỳ;

+ Xét nghiệm nước tiểu;

+ Không tái sử dụng heroin

+ Tuân thủ chung: khi tuân thủ tất cả các nội dung trên.

Một số yếu tố liên quan đến không tuân thủ điều trị của bệnh nhân: hôn nhân, nhiễm HIV, kiến thức về methadone.

(3)

Phương pháp xử lý và phân tích số liệu: số liệu được nhập và xử lý trên phần mềm SPSS 18.0 để phân tích, sử dụng kiểm định Chi bình phương xác định yếu tố liên quan, mức ý nghĩa thống kê p<0,05.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng

Bảng 1. Đặc điểm về tuổi, giới tính của đối tượng

Đặc điểm chung Tần số Tỷ lệ %

Nhóm tuổi

22-29 8 5,7

30-39 75 53,6

40-49 40 28,6

50-59 10 7,1

≥60 7 5,0

Giới tính Nam 124 88,6

Nữ 16 11,4

Bệnh nhân thuộc nhóm 30-39 tuổi chiếm 53,6% và từ 60 tuổi trở lên là 5%. Bệnh nhân nam chiếm 88,6%.

Bảng 2. Tình hình duy trì điều trị của bệnh nhân

Duy trì điều trị Tần số Tỷ lệ %

125 89,3

Không 15 10,7

Tổng 140 100,0

Bệnh nhân có duy trì điều trị đạt 89,3%.

3.2. Tình hình tuân thủ điều trị của bệnh nhân

Bảng 3. Tình trạng tuân thủ không tái sử dụng heroin của bệnh nhân

Tần số Tỷ lệ %

Đến phòng khám nhận methadone uống mỗi

ngày

Có tuân thủ 132 94,3

Không 8 5,7

Tổng 140 100,0

Tuân thủ xét nghiệm HIV định kỳ

Có tuân thủ 109 77,9

Không 31 22,1

Tổng 140 100,0

Xét nghiệm nước tiểu

Có tuân thủ 139 99,3

Không 1 0,7

Tổng 140 100,0

Không tái sử dụng heroin

Tuân thủ 130 92,9

Không tuân thủ 10 7,1

Tổng 140 100,0

Tuân thủ chung

Tuân thủ 95 67,9

Không tuân thủ 45 32,1

Tổng 140 100,0

Bệnh nhân tuân thủ đến phòng khám uống methadone mối ngày là 94,3%, xét nghiệm HIV định kỳ là 77,9%, xét nghiệm nước tiểu là 99,3%, không tái sử dụng heroin đạt 92,9%, bệnh nhân tuân thủ điều trị chung chiếm 67,9%.

3.3. Một số yếu tố liên quan đến không tuân thủ điều trị của bệnh nhân Bảng 4. Mối liên quan giữa hôn nhân và không tuân thủ điều trị của bệnh nhân

(4)

Hôn nhân

Tuân thủ điều trị

OR

KTC 95% p

Không

n % n %

Sống một mình 35 41,2 50 58,8

3,150

1,401-7,081 0,004

Với gia đình/ người yêu 10 18,2 45 81,8

Tổng 45 32,1 95 67,9

Bệnh nhân sống một mình không tuân thủ điều trị cao hơn 3,150 lần so với nhóm còn lại, khác biệt có ý nghĩa thống kê, p=0,004.

Bảng 5. Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV và không tuân thủ điều trị của bệnh nhân

Nhiễm HIV

Tuân thủ điều trị

OR

KTC 95% p

Không

n % n %

30 73,2 11 26,8

15,273

6,318-36,919 <0,001

Không 15 15,2 84 84,8

Tổng 45 32,1 95 67,9

Bệnh nhân nhiễm HIV không tuân thủ cao hơn 15,273 lần so với nhóm còn lại, khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,001.

Bảng 6. Mối liên quan giữa kiến thức về methadone và không tuân thủ điều trị của bệnh nhân Kiến thức về methadone

Tuân thủ điều trị

OR

KTC 95% p

Không

n % n %

Không đúng 38 40,9 55 59,1

3,948

1,600-9,742 0,002

Đúng 7 14,9 40 85,1

Tổng 45 32,1 95 67,9

Bệnh nhân có kiến thức không đúng về methadone không tuân thủ cao gấp 3,948 lần so với nhóm kiến thức đúng, khác biệt có ý nghĩa thống kê, p=0,002.

IV. BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng

Trong số 140 bệnh nhân điều trị methadone tham gia nghiên cứu có 53,6% đối tượng có độ tuổi từ 30-39 tuổi, 28,6% có tuổi từ 40-49 tuổi, 7,1% đối tượng từ 50-59 tuổi, 5,7% đối tượng từ 22-29 tuổi và 5,0% đối tượng từ 60 tuổi trở lên. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Hoàng Đình Cảnh, tỷ lệ bệnh nhân từ 30 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất 56,6%, tiếp đến là nhóm từ 25-29 tuổi chiếm 32,0% [2]; của Phạm Văn Hán, bệnh nhân từ 30-39 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 50,6%, từ 20-29 tuổi chiếm 12,4%, từ 40-49 tuổi chiếm 28,4% và 4,6% bệnh nhân >50 tuổi [5].

Bệnh nhân là nam giới chiếm tỷ lệ 88,6% và 11,4% đối tượng là nữ giới. Kết quả tương đồng với nghiên cứu của Vũ Việt Hương [6], hầu hết bệnh nhân là nam giới chiếm 96,8%; cứu của Trịnh Đức Mậu, nam giới chiếm đa số 97,7% [8].

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy 89,3% bệnh nhân đều duy trì điều trị methadone từ 6 tháng trở lên tính đến thời điểm điều tra. Bệnh nhân tuân thủ không tái sử dụng heroin đạt 92,9% (tức có 7,1% tái sử dụng heroin). Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long ghi nhận kết quả tương tự với chúng tôi, bệnh nhân dương tính với ma túy khi xét nghiệm nước tiểu 12,4% sau 24 tháng điều trị [7]. Một nghiên cứu khác của Đức Tùng thực hiện Tại tỉnh Nghệ An có tỷ lệ tái sử

(5)

dụng heroin 85-95% [12], cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi. Có thể các nghiên cứu khác nhau về thời điểm làm xét nghiệm nước tiểu nên có các tỷ lệ khác nhau

4.2. Tình hình tuân thủ điều trị của bệnh nhân

Trong số 140 đối tượng nghiện chích ma túy tham gia nghiên cứu có 94,3% đối tượng có đến phòng khám nhận methadone uống mỗi ngày, bên cạnh đó còn có 5,7% đối tượng không đến nhận thuốc mỗi ngày. Có 109 bệnh nhân thực hiện xét nghiệm HIV định kỳ đạt tỷ lệ 77,9%, bên cạnh đó vẫn còn 31 bệnh nhân không thực hiện xét nghiệm định kỳ chiếm 22,1%. Khi được chỉ định xét nghiệm nước tiểu thì có 99,3% bệnh nhân tuân thủ và thực hiện xét nghiệm theo chỉ định của bác sĩ và 0,7% bệnh nhân không thực hiện xét nghiệm. Trong vòng 30 ngày tính từ thời điểm điều tra, có 7,1% đối tượng nghiện chích ma túy có tái sử dụng heroin, và 92,9% bệnh nhân tuân thủ tốt, không tái sử dụng heroin. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long, Hoàng Đình Cảnh, Nguyễn Văn Hưng từ năm 2009-2011 ghi nhận kết quả tương tự với chúng tôi, nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ bệnh nhân dương tính với ma túy khi xét nghiệm nước tiểu đã giảm từ 100% (trước điều trị) xuống 15,5% (sau 12 tháng điều trị) và 12,4% sau 24 tháng điều trị [7].

Tình hình tuân thủ điều trị chung của bệnh nhân, tỷ lệ này đạt 67,9%. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của Lê Nữ Thanh Uyên (89,2%) [13], nghiên cứu của Vũ Văn Công (90,0%) [3].

4.3. Một số yếu tố liên quan đến không tuân thủ điều trị của bệnh nhân

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận: tỷ lệ không tuân thủ điều trị của bệnh nhân sống một mình (41,2%) cao hơn ở bệnh nhân sống với gia đình/người yếu (18,2%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ không tuân thủ điều trị ở bệnh nhân có nhiễm HIV (73,2%) cao hơn ở bệnh nhân không bị nhiễm HIV, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Đỗ Văn Dung (p<0,001) [4], nghiên cứu của Phạm Văn Hán (p<0,05). Tỷ lệ không tuân thủ điều trị ở bệnh nhân có kiến thức về methadone không đúng (40,9%) cao hơn ở bệnh nhân có kiến thức đúng về methadone (p=0,002) [5].

V. KẾT LUẬN

Bệnh nhân tuân thủ điều trị chung đạt 67,9%. Những bệnh nhân sống một mình, nhiễm HIV, có kiến thức chưa đúng về methadone không tuân thủ điều trị cao gấp lần lượt 3,150; 15,273;

3,948 lần so với các nhóm bệnh nhân còn lại, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,05.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Y tế (2016), Tài liệu đào tạo điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone, Hà Nội, tháng 01/2016.

2. Hoàng Đình Cảnh, Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Văn Hưng (2009), “Thực trạng người nghiện ma túy trước khi tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y dược lâm sàng 108, tập 9 - số 1/2014, Tr.122-127.

3. Vũ Văn Công, Dương Thị Hương (2009), “Hiệu quả triển khai điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tại Hải Phòng, năm 2009”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXIII, số 2 (138) phụ bản, Tr.66-70.

4. Đỗ Văn Dung, Hoàng Thị Hồng Hạnh (2014), “Các yếu tố liên quan với kết quả điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Ninh Bình năm 2012-2014”, Tạp chí Y học Việt Nam tháng 9 - số 2/2014, Tr.37-42.

5. Phạm Văn Hán, Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Thu Phương (2011), “Thực trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân điều trị Methadone tại cơ sở điều trị Methadone quận Lê Chân, Hải Phòng”, Tạp chí Y học Việt Nam, tháng 8 - số 1/2013, Tr.42-47.

(6)

6. Vũ Việt Hương, Hồ Thị Hiền, Nguyễn Thị Thu Trang (2010), “Tiếp cận dịch vụ điều trị thay thế bằng thuốc Methadone tại huyện Từ Liêm, Hà Nội”, Tại chí Y học dự phòng, Tập XXI, số 3 (121), Tr.123- 128.

7. Nguyễn Thanh Long (2011), "Đánh giá hiệu quả điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng (2009-2011)", Tạp chí Y học Việt Nam, 409 (1), năm 2013, tr.7.-13.

8. Trịnh Đức Mậu, Cù Xuân Nông, Nguyễn Quý Thái (2015), “Thực trạng sức khỏe và một số yếu tố liên quan đến người nghiện chích ma túy điều trị bằng Methadone tại trung tâm y tế Phố Yên, Thái Nguyên”, Tạp chí Y học thực hành, (993)-số 1/2016, Tr.64-67.

9. Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều (2015), Báo cáo Chương trình Phòng, chống HIV/AIDS năm 2015.

10. Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều (2016), Báo cáo Chương trình Phòng, chống HIV/AIDS năm 2016.

11. Trung tâm Y tế quận Ninh Kiều (2017), Báo cáo Chương trình Phòng, chống HIV/AIDS năm 2017.

12. Đức Tùng (2012), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy và quản lí sau cai ở Nghệ An”, Tạp chí Lao động và Xã hội - số 456 (từ 01-15/6/2013), Tr.46-47.

13. Lê Nữ Thanh Uyên, Nguyễn Quang Vinh, Đặng Văn Chính (2014), “Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tại tỉnh Long An”, Tạp chí Y học TP.Hồ Chí Minh, số 21 - số 5 - 2017, Tr.40-46.

(Ngày nhận bài: 02/09/2019 - Ngày duyệt đăng bài: 03/10/2019)

Referensi

Dokumen terkait