• Tidak ada hasil yang ditemukan

KHẢO SÁT TỈ LỆ GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN LOÃNG XƯƠNG CAO TUỔI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "KHẢO SÁT TỈ LỆ GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN LOÃNG XƯƠNG CAO TUỔI"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

KHẢO SÁT TỈ LỆ GÃY XƯƠNG ĐỐT SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN LOÃNG XƯƠNG CAO TUỔI

Nguyễn Thái Hòa1, Huỳnh Thanh Hiền1, Nguyễn Đình Khoa2 1. Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ

2. Bệnh Viện Chợ Rẫy

*Email:[email protected] TÓM TẮT

Mục tiêu: Gãy xương đốt sống (GXĐS) ở người loãng xương cao tuổi thường không có triệu chứng.

Mục tiêu của nghiên cứu này là để khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống ở người cao tuổi và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tình trạng gãy xương đốt sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại khoa nội cơ xương khớp bệnh viện Chợ Rẫy, khảo sát gãy xương đốt sống ngực và thắt lưng. Chẩn đoán gãy xương đốt sống bằng phương pháp Genant’s, mật độ xương được đo bằng DXA và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến gãy xương đốt sống. Kết quả: Có 94 bệnh nhân (BN) được đưa vào nghiên cứu. Độ tuổi trung bình 73,4 ± 8, nữ chiếm 77,6%. Tỉ lệ gãy xương đốt sống là 46,8%. Tuy nhiên gãy xương đốt sống tăng theo tuổi và cao nhất ở nhóm đối tượng trên 80 tuổi với 68%. Ngược lại chỉ số T Score giảm ở BN có gãy xương. Gãy bờ (68%) và gãy lún (62%) là hai kiểu gãy thường gặp nhất. Tần suất gãy xương tập trung vào vùng nối giữa ngực và thắt lưng (T12 và L1) với 28% . Có mối liên quan giữa tình trạng gãy xương đốt sống với giới (OR=2,74, 1,03-7,34, p<0,05),tiền sử dùng corticosteroid (OR=8,05, 3,05-21,2, p<0,05), tiền sử gãy xương sau 50 tuổi (OR=2,63). Tuy nhiên chưa thấy được mối liên quan giữa nhẹ cân, hút thuốc lá, uống rượu, mãn kinh sớm với tình trạng gãy xương đốt sống. Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy rằng tỉ lệ

GXĐS ở người cao tuổi có loãng xương là khá cao và có mối liên quan giữa giới, tuổi, chỉ số T Score, tiền sử dùng corticosteroid, tiền sử gãy xương với tình trạng gãy xương đốt sống.

Từ khóa: Gãy xương đốt sống, cao tuổi, loãng xương

ABSTRACT

PREVALENCE AND RISK FACTORS OF RADIOGRAPHIC VERTEBRAL FRACTURE OF OSTEOPOROSIS IN THE ELDERLY

Nguyen Thai Hoa, Huynh Thanh Hien, Nguyen Đinh Khoa 1. Can Tho University of Medicine and Pharmacy 2. Cho Ray Hospital Objectives: Vertebral fracture (VE) of osteoporosis in the elderly usually had no specific symptoms. The aim of study was estimated the prevalence of radiographic vertebral fracture and investigate factors associated with this condition in the elderly. Materials and methods: This cross sectional study was conducted in the rheumatology department, Cho Ray hospital. Thoracic and lumbar spine radiographs were obtained, and vertebral fractures were evaluated using Genant’s semiquantitative method. Bone mineral sensity (BMD) were measured by dual X ray absorptiometry (DXA) and identified risk factors for vertebral fractures. Results: A total 94 respondents were recruited.

The mean age was 73,4 ± 8 years old with females constituted 77,6%. The prevalence of vertebral fracture was 46,8%. However, the risk of fracture increased with advancing age, such that from the age 80+, 68% had at least one VE. In constrast, T Score reduced in the fracture patient. The most common type of fracture were wedge (68%) and compression (62%). Although fracture occurred in all vertebrae, most (28%) occurred at the T12-L1. The model for vertebral fractures showed an association with sex (OR=2,74, 1,03-7,34, p=0,039), corticosteroid intake (OR=8,05, 3,05-21,2, p=0,000), history of fracture after 50 years old (OR=2,63). There was no significance association between vertebral farcture andsmoking, alcohol, early menopause, underweight. Clusions: This study indicates that the prevalence of vertebral fractures is high in the elderly. Sex, age, T Score, corticosteroid intake, history of fracture after 50 years old were associated with vertebral fracture

Keywords: Vertebral fracture, elderly, osteoporosis.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

(2)

Hiện nay xu hướng già hóa về dân số nói chung đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội nói chung và ngành y tế nói riêng. Theo thống kê Ủy Ban Người Cao Tuổi Việt Nam đến năm 2029 tỉ lệ người cao tuổi sẽ đạt 16,8% dân số.

Một trong những hệ quả của lão là bộ xương cơ thể bị hao mòn theo thời gian dẫn đến tổn hại cấu trúc làm cho xương dễ gãy. Loãng xương là một trong những bệnh thường hay gặp ở người cao tuổi. Đây là bệnh tiến triển âm thầm không triệu chứng nhưng đáng sợ vì hệ quả của nó là gãy xương.

Gãy xương đốt sống (GXĐS) là một dạng phổ biến nhất của gãy xương do loãng xương, bệnh thường đi kèm với các triệu chứng như đau lưng mạn tính, nặng hơn là suy kiệt thể lực dẫn đến tàn phế, giảm chất lượng sống. Trong số các trường hợp GXĐS chỉ có 30% BN đến bệnh viện vì triệu chứng mà thôi. Cho nên việc xác định các yếu tố liên quan đến GXĐS đóng một vai trò rất quan trọng nhằm sàng lọc ra được những trường hợp có nguy cơ cao GXĐS từ đó có thể chẩn đoán, dự phòng và điều trị sớm với mục tiêu giảm thiểu những di chứng trầm trọng do gãy xương gây nên, đặc biệt là trên những người cao tuổi.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu về gãy xương đốt sống vẫn còn khá ít và trong đó chưa có nghiên cứu nào được thực hiện trên BN cao tuổi. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi nhằm khảo sát tỉ lệ gãy xương đốt sống và các yếu tố liên quan trên những BN này.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu: Các bệnh nhân loãng xương (theo WHO 1994) và cao tuổi ( ≥ 60 tuổi)

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: BN đang có bệnh nguy kịch, không thể trả lời những câu hỏi.

2.2 Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích, thực hiện trên 94 BN cao tuổi đang nhập viện tại khoa nội cơ-xương-khớp bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán xác định loãng xương.

2.2.2. Quy trình lấy mẫu

+ Bước 1: BN cao tuổi loãng xương đang nhập viện tại khoa cơ xương khớp

+ Bước 2: Giải thích với BN về lý do nghiên cứu, nếu được sự đồng ý chúng tôi cho BN ký vào giấy tình nguyện tham gia nghiên cứu

+ Bước 3: Chụp x quang đốt sống ngực và đốt sống thắt lưng

+ Bước 4: Tiến hành phỏng vấn các đặc điểm về nhân khẩu xã hội, bệnh học, lối sống 2.2.3. Phương pháp xử lí số liệu: Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, tần số, tỉ lệ phần trăm. Các phép kiểm Chi bình phương, Fisher’s exact, t-test, hồi quy logistic đa biến. P < 0,05 được xem là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm Tần số (%) N=94 Tuổi, năm (TB ± ĐLC) 73,7 ± 8 Giới

Nam 21 (22,4) Nữ 73 (77,6) TS dùng corticosteroid

Có 33(35,1) Không 61(64,9) TS gãy xương

Có 19(20,1) Không 75(79.8) Nhẹ cân

(3)

Có 22(23,1) Không 72(76,9) Hút thuốc lá

Có 10(10,6) Không 84(89,4) Uống rượu

Có 7(7,4) Không 87(92,6) Mãn kinh sớm

Có 11(11,7) Không 52(55,3)

Nhận xét: Trong 5 tháng thực hiện, có 94 BN gồm 73 nữ và 21 nam. Đặc điểm các đối tượng nghiên cứu được mô tả trong bảng 1. Tuổi trung bình là 73,4 ± 8, trong các yếu tố liên quan tiền sử dùng corticosteroid chiếm tỉ lệ cao nhất với 35,1% và thấp nhất là uống rượu chỉ với 7,4%

Bảng 2: Đặc điểm gãy xương đốt sống

Đặc điểm Tần suất (%) Gãy bờ 68

Gãy lún 62 Gãy lỏm 30

Nhận xét: Gãy bờ và gãy lõm là hai loại gãy xương đốt sống thường gặp nhất ở người cao tuổi có giảm mật độ xương. Phần lớn các trường hợp GXĐS rơi vào vị trí vùng chuyển tiếp giữa ngực và thắt lưng, có đến 14 lượt gãy ở T12 và 12 lượt gãy ở L1.

Biểu đồ 1: Tỉ lệ gãy xương đốt sống (N=94) Nhận xét: Tỉ lệ GXĐS là 46,8%.

Bảng 3: Mối liên quan giữa tuổi, chỉ số T Score với tình trạng gãy xương đốt sống

Biến số GX Không GX P

Tuổi 76 ± 7,5 71 ± 7,7 <0,05

T score CXĐ -3,5 ± 1 -2,7 ± 1,2 <0,05

T score CSTL -4 ± 0,9 -3,1 ± 1,3 <0,05

Nhận xét: Ở nhóm GXĐS có tuổi cao hơn, T Score thấp hơn so với nhóm không GX.

Bảng 4: Mối liên quan giới, chỉ số nhân trắc, bệnh học, lối sống với tình trạng GXĐS

Biến số Không P

Giới Nữ (57,1%) Nam (22,4%) <0,05

TS corticosteroid 27 (81,8%) 23 (37,7%) <0,05

TS gãy xương 15 (78,9%) 35 (46,7%) <0,05

Nhẹ cân 14 (63,6%) 36 (50%) >0,05

Mãn kinh sớm 6 (54,5%) 28 (53,8%) >0,05

Hút thuốc lá 3 (30%) 47 (56%) >0,05

Uống rượu 2 (28,6%) 48 (55,2%) >0,05

46.8%

53.2%

GÃY XƯƠNG KHÔNG GÃY XƯƠNG

(4)

Nhận xét: Về giới cũng nhận thấy nguy cơ gãy xương ở nữ cao hơn nam gấp 2,74 lần (OR=2,74; 1,03-7,34; p<0,05). Những bệnh nhân có tiền sử dùng corticosteroid nguy cơ GXĐS cao gấp 8,05 lần (OR=8,05;3,05-21,2;p<0,05). Cũng ghi nhận được mối liên quan giữa BN có tiền sử đã gãy xương với gãy xương đốt sống. Tuy nhiên chưa thấy được mối liên quan giữa tình trạng mãn kinh sớm, nhẹ cân, hút thuốc lá, uống rượu.

IV. BÀN LUẬN

Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với các nghiên cứu khác về loãng xương[12][15], điều này có thể do sự khác biệt về nơi lấy mẫu và cách chọn mẫu. Về giới, tỉ lệ BN nữ trong nghiên cứu cao hơn hẳn so với nam (tỉ lệ nữ/nam là 3,3/1). Theo y văn, nữ giới có tần suất mắc bệnh cao hơn nam giới, các nghiên cứu khác cũng có kết quả tương tự [12],[15].

Trong số các yếu tố được khảo sát tiền sử dùng corticosteroid chiếm tỉ lệ cao nhất (35,1%), corticosteroid ảnh hưởng lên xương bè nhiều hơn vỏ xương như: xương đốt sống, xương sườn và đầu xương dài. Cho đến nay không có liều an toàn đối với nguy cơ loãng xương cũng như gãy xương cho dù dùng liều 5mg hay đường khí dung, do đó nguy mất xương và gãy xương tăng theo liều [17], các tài liệu [1][12] cho rằng tiền sử corticosteroid là một yếu tố nguy cơ quan trọng của GXĐS.

Kết quả nghiên cứu dịch tễ học về gãy xương đốt sống ở người cao tuổi tại hai bệnh viện trường đại học ở Trùng Khánh – Trung Quốc năm 2012 của tác giả Hongwei Wang và cs [19] cho thấy tỷ lệ gãy xương đốt sống thắt lưng là 48,8%, gãy đốt sống ngực là 43% cao hơn nghiên cứu của chúng tôi do thời gian thực hiện tới 10 năm (2001 đến 2011) và lấy tất cả những bệnh nhân gãy xương do chấn thương chứ không riêng cho bệnh nhân cao tuổi gãy xương do loãng xương. Nghiên cứu Trần Hoàng Minh Châu [14] năm 2009 thực hiện tại Quận Gò Vấp cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống là 33% thấp hơn chúng tôi vì thực hiện ở người trên 50 tuổi, tuổi trung bình 63,2 tuổi. Cho đến nay chưa có một “tiêu chuẩn vàng” nào để xác định là gãy xương đốt sống cả vì vậy mà số liệu về tần suất lưu hành và tỉ lệ mới mắc của người cao tuổi dao động khá lớn. Hiện nay chẩn đoán gãy xương đốt sống có thể bằng phương pháp định lượng và phương pháp bán định lượng tuy nhiên phương pháp bán định lượng tỷ lệ dương tính giả cao hơn [12] điều này lý giải nghiên cứu chúng tôi tỉ lệ gãy xương cao hơn do nghiên cứu của A.W.L KWOK [6] dùng phương pháp định lượng thường được dùng nhiều trong các nghiên cứu vể dịch tễ học.

Kết quả của chúng tôi cho thấy gãy bờ (68%) và gãy lún (62%) là hai dạng gãy xương đốt sống thường gặp nhất ở người cao tuổi có giảm mật độ xương và thấp nhất là gãy lõm (30%), tác giả Hồ Phạm Thục Lan [3] với nghiên cứu khảo sát quy mô gãy xương đốt sống ở người Việt Nam 2011 tại Thành Phố Hồ Chí Minh bằng phương pháp định lượng cũng cho kết quả tương tự.

Mối liên quan giữa các yếu tố chỉ số nhân trắc, bệnh học, lối sống với tình trạng gãy xương đốt sống

Tuổi: Là yếu tố nguy cơ cao của gãy xương đốt sống[6][7]. Kết quả chúng tôi cho thấy tuổi trung bình của nhóm gãy xương 76 (SD=7,5) cao hơn nhóm không gãy xương 71 (SD=7,7) (p<0,05). Tỉ lệ gãy xương tăng theo tuổi bất kể giới tính, vùng địa dư, chủng tộc và thật vậy trong nghiên cứu này tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nhóm trên 80 tuổi chiếm cao nhất là 68% và sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm tuổi. Các tác giả Hồ Phạm Thục Lan[8\3] , Hongwei Wang[17] đều có cùng nhận xét.

Giới: Tỉ lệ gãy xương đốt sống nữ chiếm tỉ lệ 57,1% trong khi nam giới 22,4%. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống ở nữ cao hơn so với nam giới, cụ thể nữ có nguy cơ gãy xương đốt sống cao gấp 2,74 lần so với nam (p<0,05). Nhiều nghiên cứu cho thấy giới nữ, đặc biệt là sau mãn kinh tỉ lệ gãy xương cao hơn nam [14][18], có thể do tình trạng thiếu hụt estrogen sau tuổi mãn kinh [8] dẫn đến mất cân bằng giữa hai quá trình tạo xương và hủy xương, thiếu estrogen xương trở nên xốp, dòn, dễ gãy.

(5)

Nhẹ cân: Tỉ lệ gãy xương đốt sống ở những bệnh nhân nhẹ cân (63,6%) cao hơn bệnh nhân không nhẹ cân (50%), tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa (p>0.05). Mô mỡ chuyển hóa tạo ra estradiol kích thích quá trình tạo xương, ức chế quá trình hủy xương mà phụ nữ loãng xương và người cao tuổi lại có ít mô mỡ nên tăng nguy cơ gãy xương. Nam giới mật độ xương liên quan tới mô gầy do testostrone kích thích mô cơ và mô xương.

Chỉ số T Score: Các nghiên cứu đều cho thấy mật độ khoáng xương thấp đều liên quan đến nguy cơ gãy xương [1][14], những người phụ nữ có mật độ xương thấp đo bất kỳ ở xương nào là yếu tố nguy cơ độc lập đối với một ca gãy đốt sống mới. Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa chỉ số T Score với tình trạng gãy xương đốt sống, cụ thể T Score trung bình đo tại vùng cột sống thắt lưng và cổ xương đùi ở nhóm gãy xương đều thấp hơn nhóm không gãy xương (p<0.05)

Tiền sử dùng corticosteroid: Tỉ lệ bệnh nhân có tiền sử dùng corticosteroid cao nhất với 35,1% và có mối liên quan với tình trạng gãy xương đốt sống (p<0,05). Những bệnh nhân dùng corticosteroid nguy cơ gãy xương đốt sống tăng gấp 8,05 lần (OR = 8,05; 3,05 – 21,2;

P<0,05). Kết quả này phù hơp với y văn, corticosteroid ảnh hưởng lên xương bè, tốc độ mất xương rất nhanh: 20% khối lượng xương trong năm đầu [1], do tác động bè xương nhiều hơn vỏ xương nên gãy xương nhiều nhất là xương đốt sống, xương sườn, đầu xương dài.

Tiền sử gãy xương: Đứng thứ ba (19%), có mối liên quan giữa tiền sử gãy xương với tình trạng gãy xương đốt sống, Cụ thể tỉ lệ GXĐS ở bệnh nhân có tiền sử gãy xương (78,9%) cao hơn bệnh nhân không có tiền sử gãy xương (46,7%) (p<0,05).

Hút thuốc lá: Thuốc lá ảnh hưởng đến nhiều bệnh lý trong đó có cả loãng xương và gãy xương [5]. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có mối liên quan giữa hút thuốc lá và tình trạng gãy xương đốt sống (p=0,128). Điều này có thể lý giải do các đối tượng hút thuốc lá là nam giới, chiếm tỉ lệ rất thấp và ít gãy xương hơn nữ.

Uống rượu: Cũng như hút thuốc lá chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa uống rượu và nguy cơ gãy xương (p>0.05). Điều này có thể lý giải tuy một số người có thói quen uống rượu nhưng số lượng rất ít, chủ yếu là nam mà nghiên cứu chúng tôi đa phần là nữ giới (77,1%) và người cao tuổi thường ý thức vấn đề sức khỏe bản thân vì uống rượu không tốt cho sức khỏe.

Mãn kinh sớm: Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy tỉ lệ gãy xương đốt sống ở phụ nữ mãn kinh sớm cao hơn so với phụ nữ mãn kinh bình thường nhưng chưa ghi nhận được mối liên quan giữa mãn kinh sớm và tình trạng gãy xương đốt sống (p>0.05). Mặc dù nhiều nghiên cứu cho rằng mãn kinh sớm là yếu tố nguy cơ của gãy xương, những người mãn kinh sau 45 tuổi ít có nguy cơ gãy xương đốt sống [13] . Sau mãn kinh nồng độ estrogen giảm, kích thích hoạt động hủy cốt bào, tăng quá trình hủy xương gây mất xương khoảng 20% -30% ở xương xốp và 5% - 10% ở xương đặc trong giai đoạn đầu của thời kỳ sau mãn kinh, ngoài ra do tăng hủy xương nên tăng nồng độ canxi trong máu, giảm tiết PTH và giảm calcitriol làm giảm hấp thu canxi tại ruột, xương thiếu nguyên liệu, dễ gãy xương [12]

V. KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu 94 bệnh nhân cao tuổi nhập viện tại khoa Nội Cơ-Xương-Khớp bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi rút ra được kết luận sau

1. Tỉ lệ gãy xương đốt sống bệnh nhân cao tuổi loãng xương: 46,8%. Thường gặp gãy hai vị trí ngực và thắt lưng: 48%. Kiểu GXĐS thường gặp nhất: gãy bờ (68%) và gãy lún (62%). Đốt sống thường bị gãy: T12 và L1 chiếm 31% các trường hợp gãy xương.

2. Các yếu tố liên quan đến GXĐS

Tuổi: càng cao tỉ lệ GXĐS càng tăng, các nhóm tuổi 60-69, 70-79 và trên 80 tuổi có tỉ lệ GXĐS lần lượt là 33%; 48%; 68%. GXĐS ở nữ giới (57,1%) cao hơn nam giới (22,4%).

Bệnh nhân gãy xương đốt sống có chỉ số T Score trung bình đo tại vùng cột sống thắt lưng và đo tại cổ xương thấp hơn bệnh nhân không gãy xương. Tỉ lệ GXĐS ở bệnh nhân có tiền sử

(6)

dùng corticosteroid (81,8%), tiền sử gãy xương (78,9%) cao hơn bệnh nhân không có tiền sử

dùng corticosteroid (37,7%), không có tiền sử gãy xương (46,7%).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bartl R. (2009), Osteoporosis: Dianogsis, Prevention, Therapy, Springer-Berlin.

2. Bùi Văn Đức, Nguyễn Văn Tín (2009), "Khảo sát tỉ lệ loãng xương và các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân bằng hoặc trên 50 tuổi tại bệnh viện đa khoa khu vực Cái Nước - Cà Mau". Y học thực hành, 687(11), tr. 57-60.

3. Hồ Phạm Thục Lan (2011), "Quy mô gãy xương đốt sống ở người Việt". Thời sự y học, 63, tr.11-16.

4. Jerry L. (2004), "Vertebral Compression Fractures in the Elderly". American Family Physician, 69(1), 111-116.

5. Kanis J.A, Johnell O. (2005), "Smoking and fracture risk". Osteoporisis Int, 16, 155-162 6. Kwok. A.W. L., Leung. J.C.S., Chan. A. Y. H. (2012), "Prevalence of vertebral fracture in

Asian men and women: Comparison between Hong Kong, Thailand, Indonesia and Japan".

Public Health.

7. Kwok. A.W.L., Gong. J.S. (2013), "Prevalence and risk factors of radiographic vertebral fractures in elderly Chinese men and women: results of Mr. OS (Hong Kong) and Ms. OS (Hong Kong) studies". Osteoporisis Int, 24, 877-885

8. Lan T.H., Nguyen D.N. (2009), "Prevalence and risk factors of radiographic vertebral fracture in postmenopausal Vietnamese women". Bone, 45, 213-217.

9. Leucht P, Fischer K. (2009), "Epidemiology of traumatic spine fractures". Injury, 40(2), 166-238 10. Nguyễn Thi Kim Hưng (2003), "Canxi và dinh dưỡng phòng ngừa loãng xương". Kỷ yếu các báo cáo

khoa học hội nghị chuyên đề loãng xương và bệnh cột sống, TPHCM, tr. 21-24.

11. Nguyễn Trọng Tín (2008), "Tình hình chấn thương cột sống ngực - thắt lưng tại bệnh viện chấn thương chỉnh hình". Hội nghị khoa học thường niên lần thứ XV - Hôi chấn thương chỉnh hình Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.269 – 275

12. Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đình Nguyên (2007), Loãng xương - Nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị, phòng ngừa. Nhà xuất bản y học

13. Paganini A., Atchison A. (2005), "Menstrual and reproductive factors and fracture risk: the Leisure World Cohort Study". J Womens Health, 14(9), 808-819

14. Trần Hoàng Minh Châu (2009), "Tỷ lệ gãy xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương liên quan với loãng xương ở người trên 50 tuổi quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh sau 5 năm theo dõi". luận văn chuyên khoa 2 – Đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh.

15. Trần Thị Uyên Linh (2011), "Tỉ lệ loãng xương và các yếu tố nguy cơ ở phụ nữ mãn kinh và nam giới bằng hoặc trên 50 tuổi điều trị tại khoa Lão bệnh viện Nhân Dân Gia Định". luận văn thạc sĩ y học – Đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh.

16. Wang H., Li C., Xiang Q. (2012), "Epidemiology of spinal fractures among the elderly in Chongqing, China". J Care Injury

(Ngày nhận bài: 21/9/2019 - Ngày duyệt đăng: 06/11/2019)

Referensi

Dokumen terkait