TỈ LỆ CÁC KIỂU BẤT THƢỜNG SỐ LƢỢNG NHIỄM SẮC THỂ CỦA PHÔI ĐƢỢC THỰC HIỆN XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ
ĐỂ SÀNG LỌC LỆCH BỘI
Nguyễn Thị Minh Anh1, Nguyễn Thị Minh Phượng1, Trần Vĩnh Thiên Ngọc1, Lưu Thị Minh Tâm1, Phan Thị Kim Anh1, Nguyễn Cao Trí2, Hồ Mạnh Tường1,2, Vương Thị Ngọc Lan3
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lệch bội NST của phôi có thể dẫn đến thất bại làm tổ, sẩy thai sớm, hay thai dị tật bẩm sinh.
Dạng lệch bội thể tam bội (trisomy) và đơn bội (monosomy) chiếm tỷ lệ cao nhất và phân bố ở hầu hết các NST.
Mục tiêu: Khảo sát sự phân bố bất thường kiểu trisomy và monosomy của phôi ở ba nhóm bệnh nhân: bệnh nhân lớn tuổi (advanced maternal age – AMA), sẩy thai liên tiếp (recurrent miscarriage - RM) và thất bại làm tổ nhiều lần (Repeated Implantation Failure - RIF) điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) kết hợp sàng lọc lệch bội ở phôi (Preimplantation Genectic Testing for Aneuploidies – PGT-A).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 275 bệnh nhân TTTON có thực hiện PGT-A tại IVFMD từ tháng 5/2016 đến tháng 5/2021.
Kết quả: Tổng cộng có 275 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu, trong đó, 93 bệnh nhân nhóm AMA, 60 bệnh nhân nhóm RIF và 122 bệnh nhân RM. Tỷ lệ phôi nguyên bội lần lượt là 43,9%; 51,2%; 51,2% và tỷ lệ phôi lệch bội lần lượt là 33,5%; 22,9%; 23% tương đương nhau ở cả 3 nhóm AMA, RM và RIF. Thể tam bội xuất hiện nhiều nhất ở NST 16, 19, 20 và 21; thể đơn bội xuất hiện ở NST 14, 16, 18, 21 và 22. Tần suất xuất hiện bất thường tại NST 16 cao nhất ở cả 3 nhóm. Ở nhóm AMA và RM, lệch bội phân bố ở tất cả 24 NST, trong khi nhóm RIF xuất hiện chủ yếu tại các NST tâm giữa.
Kết luận: Tỉ lệ phôi lệch bội dao động từ 23-34% ở các bệnh nhân AMA, RM và RIF. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho công tác tư vấn di truyền và thực hành chọn phôi chuyển của labo TTTON.
Từ khoá: nguyên bội, tam bội, đơn bội, PGT-A, NGS
ABSTRACT
RATES AND TYPES OF ANEUPLOIDIES AMONG EMBRYOS
HAVING PREIMPLANTATION GENETIC TESTING FOR ANEUPLOIDY (PGT-A)
Nguyen Thi Minh Anh, Nguyen Thi Minh Phuong, Tran Vinh Thien Ngoc, Luu Thi Minh Tam, Phan Thi Kim Anh, Nguyen Cao Tri, Ho Manh Tuong, Vuong Thi Ngoc Lan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 42-49 Background: Aneuploidy is the most common genetic abnormality found in humans, and its high incidence in embryos is the main cause for failed implantation, pregnancy loss, and congenital birth defects. Aneuploidies analyzed at the blastocyst stage are not evenly distributed over the 23 sets of chromosomes. Trisomy and monosomy are the most common type of chromosomal abnormality.
Objectives: To investigate the rates and types of trisomy and monosomy in all 23 chromosomes in patients undergoing IVF treatment and Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy (PGT-A). Three groups of
1Đơn Vị Hỗ Trợ Sinh Sản, Bệnh viện Đa Khoa Mỹ Đức
2Trung Tâm Nghiên Cứu HOPE, Bệnh viện Đa Khoa Mỹ Đức
3Bộ môn Phụ Sản, Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Minh Anh ĐT:0932657938 Email: [email protected]
patients were included: Advanced maternal age (AMA), repeated implantation failure (RIF), and recurrent miscarriage (RM).
Methods: A retrospective cohort study was performed at IVFMD on 275 patients having IVF treatment and PGT-A from May 2016 to May 2021.
Results: A total of 275 patients were included in the study, among them, 93 patients AMA, 60 patients RIF, and 122 patients RM. The euploidy rate was 43.9%; 51.2%; 51.2% and the aneuploidy rate was 33.5%; 22.9%;
23% of three groups, respectively. Trisomies in chromosomes 16, 19, 20 and 21 were the most common.
Monosomy appears frequently in chromosomes 14, 16, 18, 21 and 22. Trisomy 16 and monosomy 16 rate were the highest in all 3 groups. Trisomy and monosomy distributed in all 23 sets of chromosomes in AMA group while concentrated on acrocentric chromosomes and submetacentric chromosomes in both RM and RIF groups.
Conclusions: Aneuploidy occurs in about 23-34% among patients with AMA, RIF, and RM. Data from this study could be used for clinically genetic counseling and embryo selection for transfer in IVF clinic.
Keywords: trisomy, monosomy, euploidy, PGT-A, next generation sequencing (NGS)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Testing - PGT) kết hợp với hỗ trợ sinh sản (HTSS) hiện nay đang được áp dụng rộng rãi tại nhiều trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) trên toàn thế giới với mục tiêu sàng lọc, đánh giá tình trạng di truyền của phôi trước khi được chuyển vào tử cung nhằm mang lại thai kỳ an toàn và trẻ sinh sống khoẻ mạnh. Trong đó, PGT-A (Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy) giúp sàng lọc, phát hiện các phôi mang bất thường về số lượng NST bằng cách thu nhận 5 - 10 tế bào lá nuôi phôi nang (Trophectoderm - TE) để phân tích trạng thái NST của phôi. Cùng với sự phát triển của lĩnh vực di truyền học phân tử, kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới (Next-Generation Sequencing - NGS) đã trở thành lựa chọn hàng đầu được sử dụng trong phân tích PGT-A. Kỹ thuật NGS với độ phân giải cao, giúp phân biệt phôi nguyên bội, phôi lệch bội NST, phôi khảm (các phôi bào không đồng nhất về thông tin di truyền) hay phôi mang các bất thường thêm hoặc mất đoạn NST có kích thước đoạn >5 Mbs(1).
Bất thường lệch bội số lượng NST đã được chứng minh là một trong những nguyên nhân chính gây thất bại làm tổ, sẩy thai liên tiếp, thai chết lưu hay trẻ sinh ra mang bất thường bẩm sinh(2). Nguyên nhân của tình trạng lệch bội ở
phôi giai đoạn tiền làm tổ xuất phát từ những rối loạn trong quá trình phân ly NST thuộc quá trình giảm phân của tinh trùng, noãn hoặc xuất hiện trong quá trình phân chia của phôi. Các lỗi sai này là sự không phân ly hoặc phân ly sớm của các cặp NST tương đồng. Phần lớn các lỗi sai có nguồn gốc từ quá trình giảm phân của noãn (90 - 99%), trong đó khoảng 50 - 70% xuất hiện ở giảm phân I và 30 - 50% ở giảm phân II(3,4). Các bất thường không phân ly hay phân ly sớm có thể xảy ra do rối loạn một số con đường tín hiệu khác nhau như: rối loạn chức năng protein cohesin của noãn, các điểm kiểm soát (checkpoint) phân bào giảm nhiễm hoạt động không hiệu quả, telomere ngắn dần theo thời gian và sự suy giảm hoạt động của ty thể(5). Tỷ lệ phôi lệch bội đã được chứng minh tăng dần theo tuổi của người phụ nữ và gần như bất thường này đều xảy ra ở phụ nữ từ 44 tuổi trở lên(6). Tương tự, tác giả Demko ZP (2016) cũng cho thấy có khoảng 55% phôi nang có bộ NST bình thường khi tuổi mẹ <35 tuổi và tỷ lệ này giảm khi tuổi mẹ càng tăng sau khi thực hiện PGT-A(7). Nghiên cứu của Bashiri A (2012) cho tỷ lệ lệch bội ở nhóm RM khoảng 5% với hai lần sẩy thai và 1-2% với ba hoặc nhiều hơn ba lần sẩy thai(8). Đối với nhóm RIF do vô sinh thứ phát có tỷ lệ lệch bội lên đến 9,1%(9). Do đó, các nhóm bệnh nhân này thường được chỉ định xét nghiệm lệch bội phôi trước chuyển phôi. Để có cơ sở cho thực hiện tư vấn di truyền cho các cặp vợ chồng và
chọn lựa phôi chuyển vào buồng tử cung, chúng tôi thực hiện khảo sát tỷ lệ các kiểu bất thường số lượng nhiễm sắc thể của phôi được thực hiện PGT-A ở các nhóm bệnh nhân này.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuĐối tượng là những cặp vợ chồng điều trị TTTON, có chỉ định thực hiện PGT-A tại đơn vị hỗ trợ sinh sản, bệnh viện Mỹ Đức từ tháng 5/2016 đến tháng 5/2021.
Tiêu chuẩn chọn
Thoả một trong các tiêu chuẩn nhận sau:
(i) bệnh nhân ≥35 tuổi hoặc (ii) bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần sau khi thất bại ít nhất 3 chu kỳ chuyển phôi chất lượng tốt hoặc có tổng cộng ít nhất 10 phôi được chuyển(10) hoặc (iii) bệnh nhân sẩy thai liên tiếp từ 2 lần trở lên (có NST đồ vợ chồng bình thường) và (iv) bệnh nhân đồng ý thực hiện PGT-A.
Tiêu chuẩn loại
Những bệnh nhân thuộc các chu kì xin noãn và nuôi trưởng thành noãn non (In-vitro Maturation - IVM) sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo loạt ca hồi cứu.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Chọn mẫu toàn bộ các trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian nghiên cứu.
Phương pháp tiến hành
Quy trình điều trị thụ tinh trong ống nghiệm: Vào ngày 2 hay ngày 3 của chu kỳ kinh, người vợ được kích thích buồng trứng bằng các thuốc nội tiết ngoại sinh. Khi có ít nhất 3 nang noãn với kích thước 17mm trở lên, bệnh nhân sẽ được tiêm thuốc khởi động trưởng thành noãn.
Cụm noãn sẽ được thu nhận thông qua chọc hút lúc 36 giờ sau đó. Noãn trưởng thành sẽ được thực hiện kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-Cytoplasmic Sperm Injection - ICSI) rồi nuôi cấy ở điều kiện 37oC, 6% CO2, 5% O2 đến giai đoạn ngày 5 hoặc 6 và tiến hành đánh giá
chất lượng, chọn lựa phôi sinh thiết. Bệnh nhân được tư vấn đầy đủ về các nguy cơ trong sinh thiết phôi và phân tích di truyền. Mỗi phôi sẽ được thu nhận khoảng 5-10 tế bào lá nuôi phôi (Trophectoderm - TE) và rửa sạch rồi cho vào ống PCR có chứa 25μl PBS (dung dịch đệm phosphate) được kí hiệu riêng mã số cho từng bệnh nhân và từng phôi riêng biệt. Các tube PCR sẽ được bảo quản trong một crack lạnh ở -80oC và được vận chuyển về trung tâm phân tích di truyền. Phôi được đông lạnh sau khi sinh thiết chờ kết quả phân tích di truyền.
Phương pháp phân tích di truyền phôi: Các tế bào phôi sẽ được phá vỡ màng tế bào, khuếch đại bộ gen (Whole Genome Amplification – WGA) bằng bộ kit Picoplex WGA (Takara Bio, Hoa Kỳ). Dữ liệu WGA sẽ được phân tích bằng hệ thống NextSeq NGS, Illumina, Hoa Kỳ. Kết quả này sẽ được xử lý qua phần mềm giúp xác định tình trạng bất thường số lượng, cấu trúc hoặc thể khảm. Kết quả phân tích của mỗi bệnh nhân sẽ được chuyển về trung tâm hỗ trợ sinh sản.
Quy trình chọn lựa phôi chuyển và theo dõi thai kỳ: Sau khi có kết quả, bệnh nhân sẽ được bác sĩ tư vấn và thảo luận về thứ tự phôi chuyển.
Thứ tự này dựa vào kết quả di truyền của từng phôi và chất lượng phôi đã được đánh giá trước khi sinh thiết. Bác sĩ lâm sàng chuẩn bị nội mạc tử cung và thực hiện chuyển phôi vào buồng tử cung người vợ. Hai tuần sau khi chuyển phôi, bệnh nhân tiến hành thử thai. Bệnh nhân có thai được theo dõi thai kì thường quy tại IVFMD đến khi sinh bé.
Kết cục nghiên cứu
Tỷ lệ lệch bội và các kiểu lệch bội ở phôi được thực hiện PGT-A ở 3 nhóm bệnh nhân AMA, RIF và RM.
Quản lý và phân tích số liệu
Các số liệu được phân tích gồm các thông số phôi học thường quy và các thông số di truyền:
số noãn chọc hút, số noãn trưởng thành, số noãn thụ tinh, số phôi tốt ngày 5/6, số phôi sinh thiết,
số phôi trisomy, số phôi monosomy, số phôi phức hợp, số phôi khảm, tỷ lệ phôi nguyên bội, tỷ lệ phôi lệch bội trisomy, tỷ lệ phôi lệch bội monosomy, tỷ lệ khảm, tỷ lệ phôi lệch bội phức hợp, tỷ lệ phôi bất thường cấu trúc. Các số liệu trong nghiên cứu sẽ được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn hay dưới dạng phần trăm. Sự khác biệt giữa các giá trị trung bình được kiểm định bằng Student’s t-test cho dữ liệu theo luật phân phối chuẩn, giá trị phần trăm được kiểm định sự khác biệt bằng Chi- square test, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được xác định khi p <0,05.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Bệnh viện Mỹ Đức, số 15.3/2021/MĐ-HĐĐĐ, ngày 22 tháng 11 năm 2021.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Trong thời gian nghiên cứu, tổng cộng 275 cặp bệnh nhân điều trị TTTON có thực hiện kỹ thuật PGT-A. Trong đó có 93 bệnh nhân nhóm AMA, 60 bệnh nhân nhóm RIF và 122 bệnh nhân nhóm RM. Đặc điểm nền và kết quả phôi học của từng nhóm được trình bày ở Bảng 1. Không ghi nhận sự khác biệt đặc điểm lâm sàng giữa 3 nhóm bệnh nhân, ngoại trừ tuổi mẹ trung bình của nhóm AMA cao hơn đáng kể so với 2 nhóm còn lại (p <0,01). Bên cạnh đó, kết quả ghi nhận không có sự khác biệt đáng kể giữa tỷ lệ bất thường số lượng NST khi so sánh giữa 3 nhóm bệnh nhân ở tất cả các loại bất thường trisomy
(p=0,91), monosomy (p=0,83), thể phức hợp (p=0,37) và thể khảm (p=0,27).
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân trong các chu kì thực hiện PGT-A
AMA (n=93)
RM (n=122)
RIF (n=60)
Giá trị P Tuổi vợ 40,4 ± 4,8 31,2 ± 3,7 32,2 ± 5,1 <0,01 Số chu kỳ chọc
hút 1,9 ± 1,2 2,1 ± 1,3 2,8 ± 1,6 0,35 BMI (kg/m2) 20,8 ± 1,9 20,3 ± 2,1 21,2 ± 2,1 0,67 Số noãn 9,7 ± 5,7 13,2 ± 5,7 12,5 ± 6,5 0,51 Số noãn trưởng
thành trung bình 8,6 ± 4,8 12,7 ± 4,7 10,8 ± 6,0 0,42 Số noãn thụ tinh
2PN 6,2 ± 3,7 10,2 ± 3,2 8,7 ± 3,7 0,53 Số phôi tốt ngày 5 2,6 ± 1,7 6,3 ± 2,8 5,2 ± 1,3 0,28 Số phôi sinh thiết 2,7 ± 0,9 5,8 ± 1,2 2,0 ± 1,5 0,33 Số phôi trisomy 0,2 ± 0,3 0,2 ± 0,7 0,2 ± 0,7 0,91
Số phôi
monosomy 0,2 ± 0,5 0,2 ± 0,6 0,3 ± 0,4 0,83 Số phôi phức hợp 0,5 ± 0,4 0,3 ± 0,3 0,2 ± 0,3 0,37 Số phôi khảm 0,5 ± 0,6 0,6 ± 0,5 0,7 ± 0,3 0,27
Tỷ lệ và phân bố bất thƣờng NST
Tỷ lệ bất thường NST được trình bày trong Bảng 2. Sự phân bố các dạng bất thường monosomy và trisomy trên 24 NST ở 3 nhóm bệnh nhân được miêu tả ở Hình 1 và Hình 2.
Kết quả ghi nhận tần suất bất thường của NST 16 ở cả dạng đơn bội và tam bội là cao hơn so với các bất thường số lượng các NST còn lại. Ở nhóm AMA và nhóm RM, bất thường monosomy xuất hiện ở hầu hết các NST, trong khi đó ở nhóm RIF thì dạng bất thường này không xuất hiện ở NST 1, 10, 11, 12, 17, 20, X (Hình 1). Tương tự, đối với dạng bất thường trisomy ở nhóm AMA và RM đều có xuất hiện ở tất cả các NST, riêng ở nhóm RIF chỉ xuất hiện ở một số NST nhất định (Hình 2).
Bảng 2. Tỷ lệ bất thường NST ở những bệnh nhân thực hiện PGT-A
Kết quả phân tích lệch bội NST AMA (N=244) RM (N=324) RIF (N=170) Giá trị P Tỷ lệ phôi nguyên bội - % (n) 43,9 ± 107 51,2 ± 166 51,2 ± 87 0,36
Tỷ lệ phôi lệch bội Phức hợp - % (n) Trisomy - % (n) Monosomy - % (n)
19,7 ± 48 6,9 ± 17 6,9 ± 17
9,9 ± 32 5,9 ± 19 7,1 ± 23
6,5 ± 11 5,9 ± 10 10,6 ± 18
0,27 0,38 0,25
Tỷ lệ phôi khảm - % (n) 18,9 ± 46 22,5 ± 73 22,9 ± 39 0,35
Tỷ lệ phôi bất thường cấu trúc - % (n) 3,7 ± 9 3,4 ± 11 2,9 ± 5 0,57
Hình 1. Biểu đồ phân bố thể đơn bội ở 3 nhóm bệnh nhân
Hình 2. Biểu đồ phân bố thể tam bội ở 3 nhóm bệnh nhân
BÀN LUẬN
Việc phát triển các kỹ thuật lựa chọn phôi tiềm năng góp phần đáng kể để tối ưu hoá kết quả điều trị TTTON. Từ khi em bé đầu tiên ra đời nhờ vào việc lựa chọn phôi chuyển bằng kỹ thuật xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ, hiện nay, kỹ thuật PGT-A ngày càng được sử dụng phổ biến. PGT-A sẽ giúp lựa chọn được phôi có bộ NST lưỡng bội, từ đó tăng tỷ lệ sinh sống và giảm số lượng phôi chuyển cho một chu kỳ
chuyển phôi. Thể lệch bội xuất hiện do lỗi trong phân chia nguyên phân hoặc giảm phân là nguyên nhân thường gặp nhất trong sẩy thai tự nhiên và thất bại làm tổ ở những cặp vợ chồng đang điều trị TTTON. Hơn 35% trường hợp sẩy thai tự nhiên và khoảng 4% thai chết khi sinh là do các sai hỏng về số lượng NST, chỉ có khoảng 0,3% là trẻ sinh sống. Phụ nữ càng lớn tuổi thì tỷ lệ noãn lệch bội NST càng tăng, gần 30% số phôi của phụ nữ trên 40 tuổi mang thể lệch bội, tỷ lệ này tăng lên gần như 100% khi phụ nữ 45 tuổi.
Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân dẫn đến sẩy thai liên tiếp ở 1-5% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản là do bất thường NST. Tần suất xuất hiện bất thường NST ở 2 lần sẩy thai liên tiếp là 5%, tỷ lệ này còn 1-2% với ba hoặc nhiều hơn ba lần sẩy thai. Thất bại làm tổ nhiều lần là một trường hợp phức tạp, có thể do những nguyên nhân đơn lẻ hay phối hợp, ở những phụ nữ vô sinh kèm thất bại làm tổ nhiều lần tỷ lệ bất thường NST là 6,1%. Có thể thấy 3 nhóm bệnh nhân nói trên là những đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực do bất thường NST gây ra, vì vậy, PGT-A nên được thực hiện đối với những nhóm bệnh nhân này.
Việc đánh giá nguy cơ lệch bội trên từng NST của phôi tiền làm tổ đã được tác giả Franasiak JM công bố lần đầu tiên năm 2014.
Trong nghiên cứu này tác giả cho rằng, tỷ lệ lệch bội thường xuất hiện ở các NST 13, 15, 16, 18, 19, 21 và 22. Đặc biệt các NST này có tỷ lệ bất thường cao ở nhóm phụ nữ lớn tuổi. Đồng thời, nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ lệ bất thường trisomy và monosomy là tương đương nhau ở tất cả các NST(2). Bên cạnh đó, một công bố khác của Capalbo A (2017) phân tích sự phân bố các dạng bất thường NST ở phôi nang cũng cho kết quả tương tự. Tỷ lệ lệch bội xuất hiện nhiều ở các NST 15, 16, 18, 19, 21, 22 và sự phân bố bất thường trisomy, monosomy cũng tương đương nhau ở tất cả các NST(6). Hầu hết bất thường lệch bội thường xảy ra ở các NST tâm đầu có kích thước ngắn hoặc trung bình. Nguyên nhân có thể do quá trình tái tổ hợp tương đồng tại 2 đầu gần tâm động và xa tâm động của các NST này trong giai đoạn giảm phân I dễ bị sai hỏng, từ đó dẫn đến sự phân ly bất thường của NST về 2 cực của tế bào, tạo nên những noãn lệch bội. Bên cạnh đó, các bất thường về cơ chế sửa sai hay rối loạn chức năng protein cohensin trong suốt quá trình giảm phân cũng là một trong những nguyên nhân góp phần dẫn đến lệch bội NST(11). Nhiễm sắc thể 16 chiếm gần 3% tổng số DNA trong tế bào và mật độ gen cao với ít nhất 1.100–1.150 gen, bao gồm hơn 150 gen liên quan
đến bệnh di truyền ở người. Nhiễm sắc thể 16 cũng chứa nhiều các trình tự lặp lại và do đó có liên quan đến một số bệnh lý(12). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận, lệch bội NST 16 xảy ra phổ biến ở cả 3 nhóm thực hiện PGT-A, đặc biệt trisomy 16 chiếm tỷ lệ cao nhất. Tỷ lệ trisomy 16 trên các trường hợp có thai lâm sàng được công nhận ước tính khoảng 1,5%(13). Người ta cũng thấy rằng tỷ lệ trisomy 16 khác nhau giữa các giới tính và phổ biến ở nam giới(14). Theo tác giả Jacobs PA và Hassold TJ (1984), trong các trường hợp sảy thai do bất thường trisomy, trisomy 16 chiếm tới 30%(15). Bên cạnh đó, thống kê của Benn P (1998) cũng cho thấy tỷ lệ trisomy 16 trong các trường hợp sảy thai ở 3 tháng đầu thai kì là 16%(14). Nhìn lại số liệu của chúng tôi, tỷ lệ bất thường trisomy tại 3 nhóm dao động trong khoảng 17% đến 28%, tương đương với hai công bố đã nêu trên. Nguyên nhân dẫn đến trisomy 16 có thể do sự không phân ly của NST ở giảm phân I. Tỷ lệ này xuất hiện ở noãn nhiều hơn tinh trùng và tăng lên theo độ tuổi của người phụ nữ(16). Trisomy 16 được xem là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sảy thai tự phát. Trẻ sinh sống trisomy 16 hoàn toàn được báo cáo ở 4 – 5 trẻ, với các dị tật như sứt môi, hở hàm ếch; thiểu sản màng đệm; dị tật não gồm đầu nhỏ, viêm não, thoái hóa thể vàng; dị tật tim bẩm sinh; dị dạng chi; thận đa nang; dị tật hệ tiêu hóa và nhiều dị tật khác. Không có trường hợp trisomy 16 nào sống qua thời kỳ sơ sinh. Các trường hợp sinh sống còn lại là thể khảm trisomy NST 16 nhưng tùy vào mức độ khảm và vị trí khảm mà biểu hiện bất thường khác nhau(17). Đối với trường hợp monosomy 16 không có ghi nhận trường hợp trẻ sinh sống.
Đây là báo cáo đầu tiên đánh giá sự phân bố bất thường NST ở những bệnh nhân thực hiện PGT-A được phân tích bằng kỹ thuật NGS tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giúp đưa ra dữ liệu về tỷ lệ các bất thường cũng như tần suất xuất hiện thể đơn bội và tam bội trên 23 NST ở ba nhóm bệnh nhân AMA, RM và RIF. Các dạng bất thường NST được ghi nhận
trong nghiên cứu bao gồm thể đơn bội, thể tam bội, phức hợp, thể khảm, đột biến cấu trúc với tần xuất khác nhau và chiếm khoảng 50% số phôi phân tích. Trong đó, bất thường lệch bội NST chiếm tỷ lệ cao nhất. Tỷ lệ thể đơn bội và tam bội là tương đương nhau ở tất cả các NST, thể tam bội phân bố chủ yếu ở các NST 16, 19, 20, 21 và 22, trong khi đó bất thường thể đơn bội thường xuất hiện ở các NST 13, 14, 16, 18, 19, 21 và 22. Kết quả này tương tự với số liệu đã được công bố trước đây của một số tác giả(2,6). Bất thường số lượng NST nghiêm trọng nhất là giảm hoặc tăng số lượng toàn bộ bộ NST (đa bội thể - ploidy). Các thể đa bội thường không phát triển và sẩy thai giai đoạn sớm, thậm chí phôi không có khả năng làm tổ. Tuy nhiên, nghiên cứu này của chúng tôi không ghi nhận bất kì trường hợp nào mang bất thường đa bội thể. Ở nhóm AMA hầu hết các loại bất thường tam bội và đơn bội phân bố ở cả 24 NST, trong khi đó, nhóm RM và RIF chủ yếu xuất hiện ở nhóm NST có kích thước trung bình và ngắn. Thể khảm là dạng bất thường phổ biến thứ hai trong số các dạng bất thường được ghi nhận trên những bệnh nhân thực hiện PGT-A ở nghiên cứu này. Việc sử dụng công nghệ NGS trong phân tích DNA đã giúp cung cấp thêm thông tin về tình trạng khảm của phôi. Tỷ lệ phôi khảm trong nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng với số liệu trong báo cáo của Munné và cộng sự (2019)(18). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy chuyển phôi thể khảm có tỷ lệ thành công thấp, tỷ lệ sẩy thai cao, nhưng ngày càng có nhiều báo cáo về trẻ sinh sống khoẻ mạnh sau khi chuyển phôi khảm. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, không có các trường hợp sử dụng phôi thể khảm để chuyển phôi.
Hạn chế của nghiên cứu
Thiết kế hồi cứu và không báo cáo kết cục sinh bé của các trường hợp sử dụng phôi PGT-A.
Tuy vậy, dữ liệu từ nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thông tin cho việc tư vấn di truyền phôi và chọn lựa phôi chuyển để tăng cơ hội thành công của điều trị ở các nhóm bệnh nhận
khó như AMA, RIF và RM.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ phôi lệch bội của phôi dao động từ 23- 34% ở các bệnh nhân AMA, RM và RIF. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho công tác tư vấn di truyền và thực hành chọn phôi chuyển của labo TTTON.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fiorentino F, Biricik A, Bono S, Spizzichino L, Cotroneo E, Cottone G, Kokocinski F, Michel CE (2014). Development and validation of a next-generation sequencing-based protocol for 24-chromosome aneuploidy screening of embryos. Fertility &
Sterility, 101(5):1375-1382.
2. Franasiak JM, Forman EJ, Hong KH, Werner MD, Upham KM, Treff NR, Scott RT (2014). The nature of aneuploidy with increasing age of the female partner: A review of 15,169 consecutive trophectoderm biopsies evaluated with comprehensive chromosomal screening. Fertility & Sterility, 101(3):656-663.e1.
3. Kubicek D, Hornak M, Horak J, Navratil R, Tauwinklova G, Rubes J, Vesela K (2019). Incidence and origin of meiotic whole and segmental chromosomal aneuploidies detected by karyomapping. Reproductive Biomedicine Online, 38(3):330–339.
4. Templado C, Vidal F, Estop A (2011). Aneuploidy in human spermatozoa. Cytogenetic and Genome Research, 133(2–4):91–99.
5. Fesahat F, Montazeri F, Hoseini SM (2020). Preimplantation genetic testing in assisted reproduction technology. Journal of Gynecology Obstetrics and Human Reproduction, 49(5):101723.
6. Capalbo A, Hoffmann ER, Cimadomo D, Ubaldi FM, Rienzi L (2017). Human female meiosis revised: New insights into the mechanisms of chromosome segregation and aneuploidies from advanced genomics and time-lapse imaging. Human Reproduction Update, 23(6):706–722.
7. Demko ZP, Simon AL, McCoy RC, Petrov DA, Rabinowitz M (2016). Effects of maternal age on euploidy rates in a large cohort of embryos analyzed with 24-chromosome single- nucleotide polymorphism-based preimplantation genetic screening. Fertility & Sterility, 105(5):1307–1313.
8. Bashiri A, Ratzon R, Amar S, Serjienko R, Mazor M, Shoham- Vardi I (2012). Two vs. three or more primary recurrent pregnancy losses–are there any differences in epidemiologic characteristics and index pregnancy outcome?. Journal of Perinatal Medicine, 40(4), 365-371.
9. Vermeulen N, Le Clef N, D'Angelo A, Tilleman K, Veleva Z, Nelen W (2017). Manual for ESHRE guideline development.
URL: www.eshre.eu.
10. Coughlan C, Ledger W, Wang Q, Liu F, Demirol A, Gurgan T, Cutting R, Ong K, Sallam H, Li TC (2014). Recurrent implantation failure: Definition and management. Reproductive Biomedicine Online, 28(1):14–38.
11. Jones KT (2008). Meiosis in oocytes: Predisposition to aneuploidy and its increased incidence with age. Human Reproduction Update, 14(2):143–58.
12. Ensembl Archives (2017). Chromosome 16: Chromosome
summary - Homo sapiens. URL:
http://mar2017.archive.ensembl.org/Homo_sapiens/Location/C hromosome?r=16.
13. Wolstenholme J (1995). An audit of trisomy 16 in man. Prenatal Diagnosis, 15(2), 109-121.
14. Benn P (1998). Trisomy 16 and trisomy 16 mosaicism: a review.
American Journal of Medical Genetics, 79(2):121-133.
15. Hassold TJ, Jacobs PA (1984). Trisomy in man. Annual review of genetics, 18(1): 69-97.
16. Petrović B, Ljubić A, Nikolić L (2008). Chromosomal aberrations as etiological factors of intrauterine growth retardation. Vojnosanitetski Pregled, 65(3):195-198.
17. Donato XC, Brechard MP, François‐Renard P, Hairion D, Quarello E, Hoffet M, Desbriere R (2018). Pregnancy course
and outcomes in mosaic trisomy 16 confined to the placenta: A case series. Prenatal Diagnosis, 38(12):924-927.
18. Munné S, Spinella F, Grifo J, Zhang J, Beltran MP, Fragouli E, Fiorentino F (2020). Clinical outcomes after the transfer of blastocysts characterized as mosaic by high resolution Next Generation Sequencing- further insights. European Journal of Medical Genetics, 63(2):103741.
Ngày nhận bài báo: 14/12/2021
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022