Khi ấy, nhà vua sai người thân đi cày ruộng ở đất Phật, Động Chiêu Nghi. Một hôm, khi Shen đang cúng giỗ (ngày mất của cha mẹ anh), nhà vua đến thăm nhà anh. Nhà vua được thả một mình (đến khi thiên hạ bình định, phong vị thần áo trắng là Hoàng Hựu Đại Vương; đặt tên cây đa là thần hộ mệnh của các đại vương; đến nay tàn tích này cũng phải được giữ nguyên) 2.
Hết cuốn thứ nhất
Bình minh lên, giặc dẫn quân cả trên bộ lẫn dưới sông tấn công trại vua. Giặc không đợi ông đem hết quân ra, nhà vua liền tung quân phá trận giặc. Nhà vua luyện tướng, tu sửa khí giới chưa đầy mười ngày, khí giới đã đầy đủ.
Vua đoán thế giặc đã kiệt quệ, ngày nào cũng đợi viện binh đến, tự nhiên mở cửa trại ra đánh. Vua bèn chiêu hai vạn binh, hai voi, sai các cháu là Lê Lễ, Lê Sát, Lê Bị, Lê Triện, Lê Nhân Trù ngày đêm tiến đánh Tây-đô (Tanh-kimike). Vua sai Lê Triện, Lê Bôi, Lê Văn An đem bảy mươi chiếc thuyền, vượt hồ, thẳng vào sào huyệt giặc.
Vua cho rằng thế địch ngày càng yếu, quân ta ngày càng mạnh, nhưng khi thời cơ đến, ta không làm, sợ lỡ cơ hội. Còn vua đích thân đem đại quân ngày đêm gấp rút đường bộ, thủy bộ cùng tiến, theo chân Ân, Chỉnh. Bấy giờ vua đóng quân ở Thanh Hóa, gặp quân ở Hải Tây.
Còn vua đích thân đem đại quân, hiệp ý với Lê Lệ, vây thành Đông Đô. Khi thường dân đến cổng trại, nhà vua cúi chào và chào đón anh ta sau đó. Vua sợ có mưu phản nên trốn ở bốn phía cổng thành, giấu sắc phục.
Bấy giờ, hầu hết các tướng gửi thư khuyên nhà vua tấn công các thành Đông Đô. Nhà vua liền sai các tướng cả thủy lẫn bộ tiến lên, vây quân giặc. Vua bèn đem các tướng giặc bị bắt là Thôi Tụ, Hoàng Phúc, cùng hơn 30.000 quân, 20.000 ngựa và kiếm, giáo, chiêng, trống, cờ hiệu, kỷ sớ, ấn Tống-Hổ. gọi ra các thành phố.
Hết cuốn thứ hai
Các tướng sĩ và nhân dân nước ta không phân biệt già trẻ gái trai đã phải chịu đựng từ lâu mọi sự tàn ác của giặc: giết cha giết mẹ, họ hàng thân thích rủ nhau đi hỏi tội. đại vương , hãy giết hết bọn chúng để bớt giận trời đất, thần linh và loài người; để làm hài lòng những người trung thành và trung thành; để an ủi những linh hồn vô tội chịu bất công; Ngoài ra, người ta đã đầu hàng và chúng ta đang giết họ, không có gì tệ hơn thế. Còn các tướng giặc bị bắt là Thôi Tụ, Hoàng Phúc; sanag quân mới hơn hai ngàn; kết quả bài Tống hổ phục của Liễu Thăng; cùng địch thủ các thành, trai gái lớn nhỏ hơn ba mươi vạn; Giao cho tướng địch là Vương Thông; sẵn sàng cho hoặc nước, hoặc đặt, muốn trả lại tùy ý bên nào bạn muốn.
Khi đoàn Vương Thông về đến Long Châu, vua Minh đã biết trước quân Minh yếu thế, sự việc đã đến lúc không thể tiến hành được nữa. Bèn sai sứ đem chiếu thư ra lệnh cho các tướng đem quân về Tàu, khôi phục lại đất An Nam. Về phần vào triều cống, theo phong tục cũ của triều đại Hồng Ngô, sứ giả đi tới đi lui.
Kể từ đó, giáo mác bị nghiền nát; Đất khai hoang; Ở đất nước hòa bình, mọi người vẫn làm việc như trước. Nhà vua từ khi khởi nghĩa đến khi dẹp giặc, giành lại bờ cõi, bao nhiêu văn thư đi lại trong quân đều cử văn thần Nguyễn Trãi làm. Lại sai sứ đi các nơi dâng núi sông thần miếu; lễ vật cho các lăng tẩm của các triều đại trước.
Ngày mười bốn tháng tư, vua lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Thuận Thiên.
Bình Ngô Đại Cáo
Ngày thứ mười ba, Liễu Thăng giáng chức công khanh, kế vị Chi-lang-chi hoang dã. -Tháng 12 Liễu Thắng Hữu mê trai Mã Yên chi núi. Ngày mười tám của cuộc chiến, Liễu Thăng bị ta đánh bại ở đèo Chi Lăng.
Ngày thứ hai mươi, ta thua trận ở Yên Mã, lại chém Liễu Thăng. Ngày thứ hai mươi tám, Thượng Thư Cao là Lý Khánh thẳng thừng đâm cổ tự vẫn. Mười tám, Liễu Thăng mất ở Xích Lang2, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mãn, hai mươi lăm, Lương Minh chết, hai mươi tám, Lý Khánh tự sát, đao ta đang tàn.
Xưa vua đi kinh lược bốn phương, bắc đánh giặc Minh, nam đánh giặc Lào, ta trăm trận trăm họ, chỉ dùng quan quân như Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát mới đến được. Lê Văn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quýt đường có Lê Văn Linh, Lê Quốc Hùng; với quân thân như cha con; hai trăm kỵ sĩ sắt, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ và mười bốn con voi. Còn nhà vua thì lo diệt giặc cứu dân nên sai người lập làm vua là có việc ngay, nên lúc đầu không kén chọn tốt xấu, đúng sai. Trong lúc mọi sự đều tự do, nhà vua thường bàn luận với các quan về nguyên nhân của sự thăng trầm, được và mất từ xưa đến nay.
Còn Vương thì khởi nghĩa từ núi Lam, chọc giận giặc Tàu, tự dấy binh. - Nghiệp được vững bền, đến cả ngàn năm, đều nhờ công đức của Tiên vương. Tướng cướp Định Vi của Viên Hầu là Liễu Thăng dẫn một vạn quân từ Quảng Tây tiến vào, Mộc Thanh Đế dẫn năm vạn quân từ Vân Nam tiến vào.
Trận 1 Chi Lăng, Liễu Thăng Thủ; trả lại cho họ hàng ngàn đồng dư; Sinh ra tướng cướp Hoàng Phúc, Thôi Tụ đứng thứ ba, quân thấp nhất ba vạn dư. Dịch: Chỉ năm Thuận-Thiên thứ sáu, năm Kỷ Sửu, tháng tám nhuận, ngày hai mươi hai, Tào Tháo bái kiến Trời. Vua: ôn hòa, dịu dàng, vui vẻ, thích làm việc thiện, chiêu đãi khách quý.
Trận Chi Lăng, Liễu Thăng đầu hàng; giảm quân địch còn hơn mấy vạn; các tướng giặc là Thôi Tụ, Hoàng Phúc bắt được hơn ba trăm người; một đạo-binh hơn ba ngàn miệng. Mang giấy tờ tùy thân và quân bùa của Liễu Thăng đến Vân Nam quân.