ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 78 (08/2021) No. 78 (08/2021)
Email: [email protected] ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
M Ố I QUAN H Ệ GI Ữ A NH ỮNG LĨNH VỰC XÁC ĐỊ NH GIÁ TR Ị
BẢN THÂN BÊN NGOÀI VÀ HẠNH PHÚC TÂM LÝ CỦA SINH VIÊN The relationship between external contingencies of self-worth
and psychological well-being of students
ThS. Nguyễn Minh QuânTrường Đại học Sư phạm TP.HCM
TÓM T T
Sinh viên có thểxác định giá trị bản thân dựa trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Theo đó, một sốlĩnh vực xác định giá trị bản thân phụ thuộc vào những hành vi có kết quả từmôi trường bên ngoài, chẳng hạn như sự công nhận từ người khác, sự cạnh tranh, năng lực học tập và ngoại hình.
Nghiên cứu trên 728 sinh viên tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy giá trị bản thân dựa trên những nguồn bên ngoài có tương quan nghịch với hạnh phúc tâm lý.
Từ khóa: hạnh phúc tâm lý, lĩnh vực giá trị bản thân bên ngoài, sinh viên ABSTRACT
Students can base their self-worth on many different areas of their life. Accordingly, some contingencies of self-worth are dependent on the behaviors from the external outcomes such as approval from others, competition, academic competence and appearance. Research results on 728 students in Ho Chi Minh City show that self-worth based on external resources is inversely correlated with psychological well-being.
Keywords: external contingency of self-worth, psychological well-being, student
1. Đặt vấn đề
Mô hình hạnh phúc đã được quan tâm nghiên cứu từ sớm trong các ngành khoa học xã hội. Theo cách tiếp cận eudaimonic, hạnh phúc tâm lý được định nghĩa như là cảm nhận của cá nhân hướng về một cuộc sống có ý nghĩa và toàn vẹn chức năng con người (Hidalgo et al., 2010). Theo đó, có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến hạnh phúc tâm lý chẳng hạn như điều kiện kinh tế, môi trường sống hay các đặc điểm sinh lý và tâm lý cá nhân.
Cách thức mà cá nhân xây dựng và bảo vệ giá trị bản thân là một trong những yếu tố có liên quan đến hạnh phúc tâm lý,
đặc biệt trong giai đoạn thanh niên sinh viên khi đây là thời kì phát triển mạnh mẽ các đặc điểm tâm lý cá nhân. Giá trị bản thân của sinh viên có thểđược dựa trên bảy lĩnh vực bao gồm: 1) sự công nhận từ người khác, 2) sự cạnh tranh, 3) năng lực học tập, 4) ngoại hình, 5) sự hỗ trợ từ gia đình, 6) phẩm chất đạo đức và 7) niềm tin tôn giáo (Crocker, Luhtanen, Cooper, &
Bouvrette, 2003). Các lĩnh vực này được sắp xếp thành một dải liên tục trải từ những lĩnh vực bên ngoài đến những lĩnh vực bên trong dựa trên mức độ giá trị bản thân phụ thuộc vào những hành vi có kết quả từ môi trường bên ngoài. Theo đó, các lĩnh vực
xác định giá trị bản thân bên ngoài của sinh viên có thể bao gồm sự công nhận từngười khác, sự cạnh tranh, năng lực học tập và ngoại hình (Crocker, Luhtanen, Cooper, &
Bouvrette, 2003).
Việc xác định giá trị bản thân dựa trên các lĩnh vực bên ngoài của sinh viên nhiều khảnăng tiềm ẩn nguy cơ đe dọa đến hạnh phúc tâm lý bởi cách thức thiết lập các chiến lược bảo vệ giá trị bản thân không phù hợp. Do đó, việc làm rõ mối quan hệ này là điều cần thiết nhằm góp phần xây dựng những biện pháp thúc đẩy hạnh phúc không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả một cộng đồng.
2. Thể thức nghiên cứu 2.1. Công cụ nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thang đo Những lĩnh vực xác định giá trị bản thân (CWS) của Crocker, Luhtanen, Cooper và Bouvrette (2003) bao gồm 35 câu đo lường 7 lĩnh vực quan trọng đối với giá trị bản thân của sinh viên. Thang đo 7 mức độ được tính như sau: 1 - hoàn toàn không đồng ý, 2 - không đồng ý, 3 - không đồng ý
một phần, 4 - phân vân, 5 - đồng ý một phần, 6 - đồng ý và 7 - hoàn toàn đồng ý.
Điểm sốđược tính ngược lại cho các câu 4, 6, 10, 13, 15, 23 và 30. Bài viết này chỉ sử dụng kết quả 4 tiểu thang đo các lĩnh vực bao gồm sự công nhận từ người khác, sự cạnh tranh, năng lực học tập và ngoại hình.
Đểđo lường hạnh phúc tâm lý của sinh viên, nghiên cứu sử dụng thang đo hạnh phúc tâm lý (PWS) của Ryff (1989), bản dịch tiếng Việt của Kiều Thị Thanh Trà (2018). Thang đo bao gồm 42 câu đo lường 6 chiều kích tự chấp nhận, quan hệ tích cực với người khác, quản lý môi trường, tự chủ, mục đích sống và sự phát triển cá nhân.
Thang đo 6 mức độ được tính từ 1 - hoàn toàn không đồng ý, 2 - không đồng ý, 3 - không đồng ý một phần, 4 - đồng ý một phần, 5 - đồng ý và 6 - hoàn toàn đồng ý.
Điểm sốđược tính ngược lại cho các câu 3, 5, 10, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 23, 26, 27, 30, 31, 32, 34, 36, 39 và 41.
Bảng 1 trình bày hệ số tin cậy các thang đo và bảng 2 trình bày phân chia mức độ dựa trên điểm trung bình từng mặt.
B ng 1. H số tin c y các thang đo
Thang đo H số tin c y
(Cronbach's Alpha) 1. Những lĩnh vực xác định giá trị bản thân của sinh viên (CWS) 0,814
2. Hạnh phúc tâm lý (PWS) 0,865
B ng 2. Phân chia mức độ dựa trên điểm trung bình từng mặt Mức độ 1 lĩnh vực xác định giá
trị bản thân 1 chiều kích hạnh
phúc tâm lý Hạnh phúc tâm lý
Rất thấp < 11 < 14 < 84
Thấp 11 - 17 14 - 21 84 - 126
Trung bình 17 - 23 21 - 28 126 - 168
Cao 23 - 29 28 - 35 168 - 210
Rất cao > = 29 > = 35 > = 210
2.2. Mẫu nghiên cứu
Với phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên, nghiên cứu khảo sát trên 728 sinh viên các trường Đại học và Học viện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Sài Gòn, Đại học Tài nguyên và Môi trường, Đại học Công nghiệp, Đại học Giao thông và Vận tải, Đại học Sư phạm kĩ thuật, Đại học Hoa Sen và Học viện Hành chính Quốc gia.
3. Kết qu nghiên cứu
3.1. Những lĩnh vực xác định giá trị bản thân bên ngoài của sinh viên
B ng 3. Mức độ những lĩnh vực xác định giá trị b n thân bên ngoài của sinh viên
Lĩnh vực Điểm
trung bình Độ
l ch chuẩn Mức độ
Sự công nhận từngười khác 16,31 5,47 Thấp
Sự cạnh tranh 24,01 5,10 Cao
Năng lực học tập 24,48 4,28 Cao
Ngoại hình 20,52 4,26 Trung bình
Kết quả khảo sát theo thang đo CWS của Crocker và cộng sự (2003) cho thấy, sinh viên xác định giá trị bản thân dựa trên sự cạnh tranh và năng lực học tập ở mức cao, trong khi dựa vào ngoại hình ở mức trung bình. Đáng chú ý, lĩnh vực sự công nhận từ người khác có điểm trung bình thấp nhất và chỉđạt mức thấp nhưng có độ lệch chuẩn cao nhất xét trong bốn lĩnh vực xác định giá trị bản thân bên ngoài.
Có thể thấy, mức độ xác định giá trị bản thân dựa trên các lĩnh vực bên ngoài của sinh viên có sự khác biệt giữa các lĩnh vực. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu được thực hiện trước đó trên sinh viên Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (Nguyễn Minh Quân, 2018). Theo đó, xét trong những lĩnh vực bên ngoài, sự cạnh tranh và năng lực học tập đóng vai trò quan trọng đối với giá trị bản thân của sinh viên.
Việc dựa trên sự cạnh tranh làm cơ sở thúc đẩy sinh viên hoạt động nhằm vượt trội
hơn người khác trong một cuộc thi đấu để bảo vệ cảm nhận về giá trị bản thân. Đối với sinh viên có giá trị bản thân phụ thuộc vào năng lực học tập, cá nhân có thể tự đánh giá mức độ giá trị bản thân thông qua điểm số trên lớp, sự thành công hay thất bại trong một nhiệm vụ học tập hay từ nhận xét của giảng viên, từđó thiết lập các chiến lược nhằm đạt được những cảm nhận tốt về giá trị bản thân (Crocker, Luhtanen, Cooper, & Bouvrette, 2003). Bên cạnh đó, ngoại hình cũng được xem là một lĩnh vực quan trọng đối với giá trị bản thân trong giai đoạn lứa tuổi này khi sinh viên dựa vào sựđánh giá về những đặc điểm trên cơ thể, cân nặng hay hình dáng để đánh giá mức độ giá trị bản thân (Crocker, Luhtanen, Cooper, & Bouvrette, 2003).
Trong khi đó, sinh viên xác định giá trị bản thân dựa trên sự công nhận từ người khác nhạy cảm hơn với những phản hồi xã hội (Crocker, Luhtanen, Cooper, &
Bouvrette, 2003), đặc biệt đối với những phản hồi từ những mối quan hệ xã hội quan trọng chẳng hạn như gia đình và bạn bè.
Tuy nhiên, mặc dù có thể sử dụng những phản hồi xã hội như công cụ để đánh giá giá trị bản thân, sự công nhận từ người
khác lại có mức độđược sinh viên lựa chọn sử dụng thấp nhất và có sự khác biệt nhiều nhất giữa các sinh viên với nhau. Điều này có thể được giải thích bởi sự hạn chế của tính tự báo cáo trong thang đo CWS (Vonk, Radstaak, de Heus, & Jolij, 2019).
3.2. Hạnh phúc tâm lý của sinh viên
B ng 4. Mức độ h nh phúc tâm lý của sinh viên
Biến số Điểm
trung bình Độ
l ch chuẩn Mức độ
H nh phúc tâm lý 165,76 21,286 Trung bình
Các chiều
kích
Tự chấp nhận 26,53 5,16 Trung bình
Quản lý môi trường 27,76 3,55 Trung bình
Quan hệ tích cực 28,73 4,80 Cao
Tự chủ 26,73 4,76 Trung bình
Mục đích sống 27,13 5,16 Trung bình
Phát triển cá nhân 28,88 4,64 Cao
Kết quả khảo sát theo thang đo PWS của Ryff (1989) cho thấy, hạnh phúc tâm lý của sinh viên ở mức trung bình. Xét từng chiều kích, ngoại trừ hai chiều kích quan hệ tích cực và phát triển cá nhân ở mức cao, các chiều kích còn lại chỉ đạt mức trung bình. Đáng chú ý, chiều kích tự chấp nhận có điểm trung bình thấp nhất nhưng lại có độ lệch chuẩn cao nhất so với các chiều kích còn lại.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đó trên sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh (Kiều Thị Thanh Trà, 2018). Điều này có thểđược giải thích bởi sự phát triển về mặt tâm lý của cá nhân trong giai đoạn thanh niên sinh viên. Chẳng hạn như, đặc điểm cởi mở trong nhân cách (Bleidorn &
Schwaba, 2017) thúc đẩy khả năng phát triển tiềm năng của cá nhân cũng như sự
phát triển mạnh mẽ tình cảm trong các mối quan hệ xã hội (Hutchison, Leigh, &
Wagner, 2016) đã góp phần giải thích mức độ cao trong khả năng xây dựng và phát triển các mối quan hệ. Bên cạnh đó, việc phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau liên quan đến những đặc điểm nhân cách hay môi trường sống của cá nhân khiến chiều kích tự chấp nhận được đặc trưng bởi mức độđánh giá về bản thân cá nhân với đầy đủ những đặc điểm và sự kiện trong quá khứ có sự khác biệt giữa các cá nhân nhiều nhất so với các chiều kích còn lại.
Trong khi đó, các chiều kích còn lại bao gồm quản lý môi trường, tự chủ và mục đích sống chỉ đạt mức độ trung bình.
Những thay đổi trong việc học tập, công việc, nơi ở hay các mối quan hệ xã hội cho thấy đặc tính không ổn định trong giai
đoạn thanh niên sinh viên. Sự không chắc chắn về tương lai khiến cá nhân nhạy cảm với những câu hỏi về bản thân hay những điều có ý nghĩa trong cuộc sống nhiều hơn so với các nhóm tuổi khác (Lally &
Valentine - French, 2019). Bên cạnh đó, do
vẫn còn phụ thuộc một phần vào gia đình cũng như chưa hoàn toàn gánh vác những trách nhiệm xã hội đặt ra cho người trưởng thành nên khả năng làm chủ điều kiện sống cũng như sự độc lập và tính tự quyết của sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế.
3.3. Mối liên hệ giữa những lĩnh vực xác định giá trị bản thân bên ngoài và hạnh phúc tâm lý của sinh viên
B ng 5. Tương quan Pearson giữa các lĩnh vực xác định giá trị b n thân bên ngoài và h nh phúc tâm lý của sinh viên
Biến số Sự công nh n từ người khác
Sự c nh tranh
Năng lực
học t p Ngo i hình Hạnh phúc tâm lý - 0,311** - 0,117** - 0,048 - 0,173**
Tự chấp nhận - 0,217** - 0,107** - 0,102** - 0,102**
Quản lý môi trường - 0,265** - 0,083** - 0,058 - 0,128**
Quan hệ tích cực - 0,161** - 0,026 0,041 - 0,109**
Tự chủ - 0,420** - 0,105** - 0,156** - 0,175**
Mục đích sống - 0,189** - 0,162** - 0,024 - 0,159**
Phát triển cá nhân - 0,177** - 0,041 0,081* - 0,113**
(**). Có ý nghĩa với = 0,01; (*). Có ý nghĩa với = 0,05
Ngoại trừ năng lực học tập, các lĩnh vực xác định giá trị bản thân còn lại đa phần có tương quan nghịch với hạnh phúc tâm lý ở mức thấp. Xét trong từng lĩnh vực, giá trị bản thân dựa trên sự công nhận từ người khác và ngoại hình có tương quan với tất cả các chiều kích của hạnh phúc tâm lý. Đặc biệt, sự công nhận từngười khác có tương quan nghịch ở mức trung bình với chiều kích tự chủ. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh có tương quan nghịch không đáng kể với đa phần các chiều kích hạnh phúc tâm lý, ngoại trừ chiều kích quan hệ tích cực và chiều kích phát triển cá nhân. Đáng chú ý, năng lực học tập tuy có tương quan nghịch
với chiều kích tự chấp nhận và tự chủ nhưng có tương quan thuận với chiều kích phát triển cá nhân, tuy mức độ tương quan không đáng kể.
Nhìn chung, đa phần việc xác định giá trị bản thân dựa trên những lĩnh vực bên ngoài của sinh viên có tương quan nghịch với hạnh phúc tâm lý và các chiều kích cấu thành. Kết quả này góp phần củng cố những phát hiện trước đó về mối liên hệ giữa việc xác định giá trị bản thân dựa trên hành vi có kết quả từ môi trường bên ngoài với hạnh phúc cá nhân. Việc lệ thuộc vào những phản hồi của người khác khiến cá nhân không thể hoàn toàn chấp
nhận những đặc điểm của bản thân và né tránh tương tác xã hội (Karaşar &
Baytemir, 2018), theo đó làm suy giảm hạnh phúc tâm lý. Chẳng hạn như sinh viên xác định giá trị bản thân dựa trên sự công nhận từ người khác có thể thực hiện những hành vi nguy hại nhằm đạt được sự chấp thuận từ nhóm xã hội (Howell et al., 2014) hoặc với cá nhân sử dụng ngoại hình làm cơ sở cho giá trị bản thân, việc thiết lập những lý tưởng về ngoại hình có thể dẫn đến sự không hài lòng về ngoại hình bản thân và theo đó thúc đẩy việc né tránh các tương tác xã hội (Dotse &
Asumeng, 2015). Bên cạnh đó, đối với sinh viên có giá trị bản thân phụ thuộc vào sự cạnh tranh phải tìm cách để đảm bảo mức độ vượt trội bằng việc luôn phải so sánh với những người khác. Do đó thúc đẩy tần suất thực hiện hành vi gian lận trong việc học nhiều hơn so với các sinh viên có giá trị bản thân dựa trên phẩm chất đạo đức (Niiya, Ballantyne, North, &
Crocker, 2008). Có thể thấy, giá trị bản thân phụ thuộc vào những lĩnh vực bên ngoài có thể tác động đến những chiều kích khác nhau của hạnh phúc tâm lý qua việc xây dựng những cách thức để bảo đảm mức độ giá trị bản thân.
Đáng chú ý, mối liên hệ giữa lĩnh vực năng lực học tập và hạnh phúc tâm lý của sinh viên có sự khác biệt so với các lĩnh vực còn lại. Những sinh viên đặt giá trị bản thân dựa vào năng lực học tập có khả năng tự chấp nhận và tự chủ thấp hơn, có thể chịu tác động tiêu cực và xuất hiện các triệu chứng trầm cảm nhiều hơn khi có thành tích học tập kém so với những cá nhân có giá trị bản thân ít đầu tư vào lĩnh vực này hoặc không gặp phải mối đe dọa tương tự (Crocker, Sommers, & Luhtanen, 2002). Tuy nhiên, kết quả khảo sát cũng
cho thấy mối tương quan thuận giữa năng lực học tập và chiều kích phát triển cá nhân. Điều này có thể bởi năng lực học tập còn được xem như một động cơ thúc đẩy sinh viên trải nghiệm những hoạt động khác nhau nhằm khám phá những tiềm năng của bản thân.
4. Kết lu n
Kết quả khảo sát trên 728 sinh viên cho thấy, xét trong các lĩnh vực xác định giá trị bản thân bên ngoài theo thang đo CWS, sinh viên xác định giá trị bản thân dựa trên các lĩnh vực theo thứ tự từ cao đến thấp bao gồm năng lực học tập, sự cạnh tranh, ngoại hình và sự công nhận từ người khác. Bên cạnh đó, hạnh phúc tâm lý của sinh viên xét theo mô hình sáu chiều kích theo thang đo PWS chỉ ở mức trung bình, tuy có sự khác biệt về mức độ giữa các chiều kích cấu thành trong đó chiều kích quan hệ tích cực và phát triển cá nhân đạt mức cao. Kết quả khảo sát còn cho thấy đa phần việc xác định giá trị bản thân dựa trên những lĩnh vực bên ngoài của sinh viên có tương quan nghịch với hạnh phúc tâm lý và các chiều kích cấu thành.
Tuy nhiên, mức độ và chiều hướng tương quan với hạnh phúc tâm lý có sự khác biệt giữa các lĩnh vực.
Nhìn chung, những lĩnh vực xác định giá trị bản thân bên ngoài và hạnh phúc tâm lý có mối quan hệ với nhau, tuy độ tương quan chỉ ở mức thấp. Điều này có thể bởi hạnh phúc tâm lý còn chịu tác động từ nhiều yếu tố khác nhau không chỉ riêng những lĩnh vực xác định giá trị bản thân bên ngoài. Do đó, các nghiên cứu sau cần tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa giá trị bản thân và các mô hình hạnh phúc khác nhau nhằm góp phần xây dựng những biện pháp thúc đẩy hạnh phúc cá nhân và cộng đồng một cách hiệu quả.
Bài viết phục vụ đề tài nghiên cứu "Mối quan hệ giữa giá trị bản thân và hạnh phúc tâm lý của sinh viên", luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
TÀI LI U THAM KH O
Bleidorn, W., & Schwaba, T. (2017). Personality development in emerging adulthood. In J.
Specht (Ed.), Personality development across the lifespan (pp. 39–51). Elsevier Academic Press. https://doi.org/10.1016/B978-0-12-804674-6.00004-1
Crocker, J., Luhtanen, R. K., Cooper, M. L., & Bouvrette, A. (2003). Contingencies of self-worth in college students: Theory and measurement. Journal of Personality and Social Psychology, 85(5), 894–908. https://doi.org/10.1037/0022-3514.85.5.894 Crocker, J., Sommers, S. R., & Luhtanen, R. K. (2002). Hopes dashed and dreams
fulfilled: Contingencies of self-worth and admissions to graduate school. Personality and Social Psychology Bulletin, 28(9), 1275–1286.
https://doi.org/10.1177/01461672022812012
Dotse, J. E. & Asumeng, M. (2015). Relationship between body image satisfaction and psychological well-being: The impact of africentric values. Journal of Social Science Studies, 2(1), 320-342. http://doi.org/10.5296/jsss.v2i1.6843
Hidalgo, J. L., Bravo, B. N., Martínez, I. P., Pretell, F. A., Postigo, J. M. L., & Rabadán, F.
E. (2010). Psychological well-being, assessment tools and related factors. In I. E.
Wells (Ed.), Psychological well-being (pp. 77-113). Nova Science Publishers.
Howell, J. L., Koudenburg, N., Loschelder, D. D., Weston, D., Fransen, K., De Dominicis, S., Gallagher, S., & Haslam, S. A. (2014). Happy but unhealthy: The relationship between social ties and health in an emerging network. European Journal of Social Psychology, 44(6), 612-621. https://doi.org/10.1002/ejsp.2030
Hutchison, B., Leigh, K. T. & Wagner, H. H. (2016). Young adulthood social-emotional development. In D. Capuzzi & M. D. Stauffer (Eds.), Human growth and development across the lifespan: Applications for counselors (pp. 415-442). John Wiley & Sons Inc.
Karaşar, B. & Baytemir, K. (2018). Need for social approval and happiness in college students: The mediation role of social anxiety. Universal Journal of Educational Research, 6(5), 919-927. https://doi.org/10.13189/ujer.2018.060513
Kiều Thị Thanh Trà. (2018). Psychological well-being of students in Ho Chi Minh City.
Proceedings: The 6th international conference on school psychology – The role of school psychology in promoting well-being of students and family. Hà Nội, Việt Nam.
Lally, M. & Valentine-French, S. (2019). Lifespan development: A psychological perspective (2nd ed.). College of Lake County.
Nguyễn Minh Quân (2018). Giá trị bản thân của sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Thư viện Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Niiya, Y., Ballantyne, R., North, M. S., & Crocker, J. (2008). Gender, contingencies of self-worth, and achievement goals as predictors of academic cheating in a controlled laboratory setting. Basic and Applied Social Psychology, 30(1), 76– 83. https://doi.org/10.1080/01973530701866656.
Ryff, C. D. (1989). Happiness is everything, or is it? Explorations on the meaning of psychological well-being. Journal of Personality and Social Psychology, 57(6), 1069-1081. https://doi.org/10.1037/0022-3514.57.6.1069.
Vonk, R., Radstaak, M., de Heus, P., & Jolij, J. (2019). Ironic effects of feedback on contingency of self-worth: Why self-reports of contingency are biased. Self and Identity, 18(2), 183-200. https://doi.org/10.1080/15298868.2017.1406400.
Ngày nhận bài: 01/10/2020 Biên tập xong: 15/8/2021 Duyệt đăng: 20/8/2021