• Tidak ada hasil yang ditemukan

1. Mở đầu - Cơ sở dữ liệu quốc gia về Khoa học và Công nghệ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "1. Mở đầu - Cơ sở dữ liệu quốc gia về Khoa học và Công nghệ"

Copied!
11
0
0

Teks penuh

(1)

106

This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

NÂNG CAO NĂNG LỰC SỬ DỤNG NGOẠI NGỮ CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Nguyễn Thanh Huyền, Đặng Út Phượng và Đinh Lan Anh* Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Tóm tắt. Cùng với xu hướng tăng cường hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng 4.0 đang đặt ra cơ hội và thách thức đối với nền giáo dục của các quốc gia trên thế giới. Việc sử dụng được ngoại ngữ là nhu cầu cấp thiết của các giảng viên đại học, phục vụ nhiều mục đích khác nhau trong chuyên môn cũng như ngoài cuộc sống. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng năng lực sử dụng ngoại ngữ của 28 cán bộ giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non tại 4 trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu định lượng kết hợp định tính với bảng hỏi và phỏng vấn nhanh. Kết quả thu được cho thấy các giảng viên tham gia khảo sát đều nhận thấy tầm quan trọng của việc sử dụng ngoại ngữ, các GV có mức độ sử dụng ngoại ngữ ở ngưỡng bình thường, yếu tố ảnh hưởng nhất đến khả năng ngoại ngữ của giảng viên là không có môi trường sử dụng thường xuyên, các trường đã có chính sách khuyến khích GV nâng cao trình độ TA, thời gian sử dụng TA của các giảng viên tập trung nhiều ở mức 0 đến dưới 1 giờ mỗi ngày, từ thực trạng này chúng tôi khuyến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non tại một số trường đại học trên địa bàn Hà Nội.

Từ khóa: ngoại ngữ, sử dụng ngoại ngữ, giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non, các trường đại học.

1. Mở đầu

Việt Nam đang ngày càng mở cửa và hội nhập quốc tế với nhiều cơ hội giao lưu văn hóa, học hỏi, mở rộng tri thức, phát triển kinh tế và quảng bá về đất nước mình. Trong quá trình hội nhập đó, khó khăn đầu tiên mà nước ta gặp phải chính là rào cản ngôn ngữ. Nếu không hiểu được ngôn ngữ của nhau chúng ta sẽ rất khó giao tiếp, trao đổi thông tin cũng như học hỏi và mở mang tri thức.

Bên cạnh đó, giáo dục đại học giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống chính trị quốc gia và vai trò của giảng viên đại học giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ cơ bản của một giảng viên đại học là giảng dạy và nghiên cứu khoa học – đây không chỉ là tiêu chí để đánh giá một cá nhân hay một tập thể cán bộ mà còn đánh giá chất lượng của một trường Đại học. Theo nghị quyết 29 của Hội nghị trung ương 8 khóa XI đã xác định: Để giáo dục Việt Nam không bị tụt hậu ngày càng xa so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, các cán bộ giảng viên cần chú trọng đặc biệt đến việc làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của mình. Ngoại ngữ là một phương tiện hết sức quan trọng và là cầu nối để các cán bộ giảng viên trẻ tiệm cận với những kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới.

Chính vì vậy, tại Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên Ngày nhận bài: 2/9/2021. Ngày sửa bài: 29/9/2021. Ngày nhận đăng: 10/10/2021.

Tác giả liên hệ: Đinh Lan Anh. Địa chỉ email: [email protected]

(2)

107 chức giai đoạn 2019-2030” mục tiêu đến năm 2025 phải có 50% cán bộ, công chức ở Trung ương; 25% cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện ở địa phương đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên theo quy định; 60% viên chức và 50% viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lí đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên theo quy định; 20% cán bộ, công chức xã và 15% cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lí cấp xã dưới 40 tuổi công tác tại địa bàn hoặc lĩnh vực có yêu cầu sử dụng ngoại ngữ đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên theo quy định. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/01/2019 phê duyệt “Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lí các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019- 2030”. Đề án đã đưa ra các tiêu chí và lộ trình cụ thể về nâng cao năng lực, trình độ cho độ ngũ giảng viên, trong đó có năng lực về ngoại ngữ. Theo đó, đến năm 2030, mục tiêu 100% giảng viên và cán bộ quản lí các cơ sở giáo dục đại học có năng lực, trình độngoại ngữ đáp ứng yêu cầu đổi mới [1-4].

Để thực hiện có hiệu quả chủ trương nói trên, các trường đại học, cao đẳng cần chủ động nghiên cứu, ban hành, triển khai chính sách, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ giảng viên, nhất là đội ngũ giảng viên trẻ. Cho đến nay đã có nhiều bài viết, hội thảo được tổ chức liên quan đến thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ của giảng viên và sinh viên các trường đại học. Các bài viết về ngoại ngữ, nâng cao năng lực ngoại ngữ hiện nay phần nhiều về phương pháp giảng dạy, học tập tiếng Anh với đối tượng nghiên cứu là sinh viên, học sinh. Ví dụ: bài viết Quá trình học nghe hiểu Tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Tiền Giang – Khó khăn và biện pháp khắc phục của các tác giả Bùi Thị Nhật Tuyền, Lê Thị Diệu Nga nghiên cứu về các khó khăn thường gặp khi học nghe hiểu Tiếng Anh theo khung tham chiếu trình độ ngoại ngữ chung châu Âu (CEFR), đồng thời phân tích thực trạng học nghe hiểu tiếng Anh của sinh viên không chuyên và đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả [5]. Nhiều hội thảo khoa học về chủ đề này cũng đã được các trường đại học tổ chức như: Đại học Huế với Hội thảo quốc tế VietTESL 2019 có chủ đề

“Giảng dạy tiếng Anh: Chủ động, tích cực và đa dạng”; Đại học Lao động – Xã hội (CSII) tổ chức hội thảo “Đổi mới dạy và học ngoại ngữ trong thời đại mới” (7/2021); Hội thảo “Nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Anh và tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên Sư phạm” (8/2020) của trường Đại học Thủ đô Hà Nội...

Đánh giá chung, phần lớn các nghiên cứu được khảo sát, thực hiện với phạm vi rộng, khái quát hoặc trong khuôn khổ một cơ sở đào tạo, chưa chú trọng nhiều vào đối tượng là giảng viên đại học, do vậy thiếu tính chuyên sâu hoặc tính phổ biến và toàn diện. Bên cạnh đó, đối tượng nếu được lựa chọn nghiên cứu thường là các giảng viên nói chung, chưa chú trọng vào các giảng viên trẻ thuộc các chuyên ngành giáo dục khác nhau, đặc biệt là giáo dục mầm non. Xuất phát từ thực trạng và tình hình nghiên cứu như vậy, bài viết này tập trung đánh giá thực trạng chất lượng, trình độ ngoại ngữ của giảng viên, trong đó tập trung nhóm giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non ở một số trường đại học trên địa bàn Hà Nội, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả năng lực sử dụng ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu giáo dục mầm non trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Những vấn đề chung về năng lực sử dụng ngoại ngữ

Năng lực là gì? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về năng lực. Theo quan điểm tiếp cận hoạt động thì năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lí của chủ thể nhằm đáp ứng yêu cầu của một hoạt động nào đó. Tác giả Đặng Thành Hưng cho rằng, về mặt thực hiện, kĩ năng phản ánh năng lực làm, tri thức phản ánh năng lực nghĩ và thái độ phản ánh năng lực cảm nhận. Năng lực là “tổ hợp những hành động vật chất và tinh thần tương ứng với dạng hoạt động nhất định dựa vào những thuộc tính cá nhân (sinh học, tâm lí và giá trị xã hội) được thực hiện tự giác và dẫn

(3)

108

đến kết quả phù hợp với trình độ thực tế của hoạt động” [6]. Trong định nghĩa này, tác giả đã đưa vào yếu tố rất quan trọng làm rõ những thuộc tính cá nhân - đó là sinh học, tâm lí và giá trị xã hội. Trong cuốn Tiêu chuẩn năng lực cho đánh giá của Cơ quan Đào tạo Quốc gia Úc, năng lực được mô tả bao gồm kiến thức, kĩ năng và sự áp dụng phù hợp những kiến thức và kĩ năng đó theo tiêu chuẩn thực hiện trong việc làm. Tuy có nhiều cách nhận định khác nhau, nhưng chúng ta có thể hiểu: Năng lực là những kiến thức‚ những kĩ năng cũng như khả năng và hành vi của bản thân một người nào đó để đáp ứng‚ thực hiện một công việc‚ nhiệm vụ nào đó khi được giao phó và phải bảo đảm cho công việc‚ nhiệm vụ trên được hoàn thành hiệu quả ở mức độ cao nhất‚ trong thời gian nhanh nhất. Chúng ta có thể mô tả cấu trúc năng lực qua sơ đồ sau:

Hình 1. Mô hình chung về cấu trúc năng lực

Chúng ta có thể hiểu rằng về cơ bản năng lực không phải là thứ sẵn có mà nó được hình thành‚ có được qua quá trình học tập‚ rèn luyện tại trường học‚ cơ sở giáo dục hoặc qua chính những trải nghiệm thực tế trong cuộc sống thường ngày của mỗi người, với sự kết hợp linh hoạt của các yếu tố kiến thức, kĩ năng và thái độ.

Mức độ năng lực của mỗi người trong xã hội là hoàn toàn khác nhau‚ tùy thuộc vào vốn sống‚ sự tiếp thu kiến thức và sự hiểu biết về từng lĩnh vực của mỗi người. Năng lực thì gắn liền với từng hoạt động cụ thể và được biểu hiện qua cách giải quyết công việc‚ thực hiện nhiệm vụ của mỗi người. Năng lực cũng chịu sự chi phối‚ sự ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố như là con người‚ môi trường làm việc‚ môi trường giáo dục [3].

Năng lực sử dụng ngoại ngữ là gì? Theo chúng tôi, năng lực sử dụng ngoại ngữ là khả năng mà người nào đó vận dụng một cách linh hoạt những kiến thức‚ những kĩ năng nghe nói, đọc, viết về ngoại ngữ với thái độ tích cực của bản thân để đáp ứng‚ thực hiện một công việc‚ nhiệm vụ nào đó khi được giao phó, bảo đảm công việc‚ nhiệm vụ trên được hoàn thành hiệu quả ở mức độ cao nhất‚ trong thời gian nhanh nhất.

2.2. Hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 – những yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên trẻ các trường đại học ở Việt Nam

Giảng viên trẻ: Trong nghiên cứu này, khái niệm giảng viên trẻ được hiểu là đội ngũ kế cận, đội ngũ giảng viên tương lai của một trường Đại học, Cao đẳng, là những người mới vào nghề, nằm trong độ tuổi từ dưới 35 tuổi, tràn đầy nhiệt huyết, đam mê và tinh thần cống hiến cho công việc. Giảng viên trẻ làm việc tại các trường Đại học cần phải ý thức được bản thân phải cố gắng, nỗ lực trau dồi, tu dưỡng hơn nhiều so với các bậc học khác, bởi môi trường làm việc, đối tượng giảng dạy và tính chất công việc, sự đi trước đón đầu những thành tựu mới. Hiện nay tại các trường đại học, cao đẳng có chuyên ngành giáo dục Mầm non, trong chương trình

(4)

109 đào tạo sinh viên đều có các học phần tiếng Anh chuyên ngành giáo dục Mầm non, hay tổ chức hoạt động giáo dục bằng tiếng Anh. Bên cạnh đó, theo thông tư 50/2020/TT- BGDĐT, ban hành chương trình làm quen với Tiếng Anh cho trẻ em Mẫu giáo vào ngày 31 tháng 12 năm 2013 [7], nhu cầu về nguồn giáo viên mầm non có khả năng sử dụng ngoại ngữ lại cần thiết hơn bao giờ hết. Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực này, đội ngũ giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non cần phải có những định hướng phát triển năng lực ngoại ngữ cho bản thân trước những nhu cầu đặt ra của xã hội, của ngành:

Thứ nhất, đội ngũ giảng viên ngành giáo dục mầm non đại học cần có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, bởi đặc thù của chương trình giáo dục mầm non đó là tính tích hợp, sinh viên ra trường không chỉ dạy một môn như ở các bậc học khác, trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần có năng lực dạy học tích hợp và cũng phải hình thành cho sinh viên năng lực này khi các em còn ngồi trên nghế nhà trường sư phạm. Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và phẩm chất, vốn liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Để đáp ứng được yêu cầu này, mỗi năm các trường đại học đã và đang cử các giảng viên trong trường đi học, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để về phục vụ công tác giáo dục của nhà trường, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ này cũng nằm trong kế hoạch và chiến lược của nhà trường [8], [9].

Thứ hai, đội ngũ giảng viên ngành giáo dục mầm non cũng phải có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi mọi hoạt động của nhà trường. Nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, các trường đại học phải thay đổi các hoạt động đào tạo như đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lí sinh viên, phương pháp kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra, với sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Để làm được điều này thì cần phải tìm kiếm tài liệu, học hỏi từ các nước phát triển trên thế giới [10].

Thứ ba, đội ngũ giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non cũng cần phải giỏi về công nghệ thông tin. Ngày nay, môi trường giáo dục không chỉ diễn ra trong phạm vi nhà trường mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu, lại trong tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn ra phức tạp. Người học có thể chủ động nghiên cứu tài liệu cũng như tương tác với giảng viên ở mọi thời điểm bằng máy tính hoặc điện thoại thông minh. Tuy nhiên, không ít giảng viên trẻ của ngành chưa thực sự hiểu và khai thác sử dụng được những công cụ mới này trong thực tiễn, vì vậy hiệu quả giảng dạy không cao. Do đó, để có thể cập nhật những kiến thức hiện đại mang tính toàn cầu, cũng như ứng dụng công nghệ thông tin thành thạo trong quá trình giảng dạy, đội ngũ giảng viên phải giỏi về công nghệ thông tin và ngoại ngữ, làm chủ công nghệ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong công tác đào tạo.

Thứ tư, để giáo dục đất nước hội nhập quốc tế thành công một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu đối với giảng viên là sử dụng thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành. Như đã nói ở trên, hiện tại các ngành giáo dục mầm non của các trường đại học, cao đẳng trong khung chương trình đào tạo, có những học phần và các nội dung chuyên ngành cần phải giảng dạy bằng tiếng Anh. Các khoa cũng bố trí các thầy cô giảng viên giảng dạy các học phần này, tuy nhiên số các thầy cô đáp ứng được yêu cầu giảng dạy các học phần này bằng tiếng Anh chưa nhiều. Có những chuyên ngành có học phần giảng dạy bằng tiếng Anh nhưng vẫn phải mời theo hình thức thỉnh giảng, hoàn toàn giảng viên ngoài trường giảng dạy. Với yêu cầu thực tế của thị trường lao động hiện nay, cụ thể là các trường mầm non, nhu cầu về giáo viên chuyên ngành biết tiếng Anh ngày càng nhiều, đặc biệt là các trường có yếu tố nước ngoài.

Nắm bắt được thực tế này, nhiều trường đại học cũng đã và đang chú trọng đào tạo mở mã ngành mầm non Tiếng Anh (Đại học Sư phạm Hà Nội) giúp sinh viên có trình độ tiếng Anh để tốt nghiệp ra trường có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Chính vì vậy mà việc nâng cao trình độ tiếng Anh cho các giảng viên trong khoa lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

(5)

110

2.3. Kết quả nghiên cứu năng lực sử dụng ngoại ngữ của giảng viên trẻ ngành Giáo dục mầm non trên địa bàn Hà Nội

2.3.1. Khái quát về tổ chức khảo sát thực trạng

Mục tiêu và nội dung khảo sát:Mục tiêu khảo sát nhằm làm rõ thực trạng năng lực sử dụng ngoại ngữ của cán bộ giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non với 5 nội dung sau đây:

(1) Tầm quan trọng của việc sử dụng ngoại ngữ của các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non; (2) Thực trạng mức độ sử dụng ngoại ngữ của giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non; (3) Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng học tiếng Anh của các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non; (4) Thực trạng các chính sách được sử dụng nhằm khuyến khích các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non nâng cao trình độ tiếng Anh; (5) Thời gian học tập, nghiên cứu trong một ngày của các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non nhằm nâng cao trình độ tiếng Anh.

Địa bàn và khách thể khảo sát: Khảo sát được thực hiện tại các trường Đại học, Cao đẳng có chuyên ngành Giáo dục Mầm non: Khoa Giáo dục Mầm non của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Sư phạm chuyên ngành Giáo dục mầm non của Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội, Khoa Giáo dục Mầm non của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.

Mẫu khảo sát gồm 28 giảng viên trẻ tại các trường Đại học, Cao đẳng có đào tạo chuyên ngành giáo dục mầm non

Phương pháp khảo sát: Sử dụng phương pháp khảo sát bằng phiếu hỏi, phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp thống kê toán học.

2.3.2. Kết quả khảo sát thực trạng nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ của các giảng viên trẻ ngành Giáo dục mầm non

2.3.2.1. Tầm quan trọng của việc sử dụng ngoại ngữ của các giảng viên trẻ chuyên ngành Giáo dục mầm non

Hình 1. Tầm quan trọng của việc sử dụng ngoại ngữ đối với giảng viên trẻ chuyên ngành GDMN

71,4% số ý kiến cho rằng việc sử dụng ngoại ngữ đối với giảng viên trẻ hiện nay là rất quan trọng. Còn lại 28,6% ý kiến cho rằng việc sử dụng ngoại ngữ là quan trọng. Không có ý kiến nào cho rằng việc sử dụng ngoại ngữ đối với giảng viên trẻ là bình thường, không quan trọng và rất không quan trọng. Qua kết quả cho thấy rằng, đa số các giảng viên đều đánh giá rất

71%

29%

0%

0% 0%

1 Rất quan trọng 2 Quan trọng 3 Bình thường 4 Không quan trọng 5 Rất không quan trọng

(6)

111 cao tầm quan trọng, sự cần thiết trong việc nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ trong bối cảnh hội nhập ngày nay.

2.3.2.2. Thực trạng mức độ sử dụng ngoại ngữ của giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non

Bảng 1. Mức độ sử dụng ngoại ngữ của quý Thầy/ Cô

STT Nội dung

Mức độ Hoàn toàn ĐTB

không thể

Không thể

Bình thường

thể

Hoàn toàn có thể 1 Giảng dạy bằng

TA

1/28 3/28 14/28 8/28 2/28 3.25

2 Khả năng nghe TA

0 4/28 14/28 8/28 2/28 3.29

3 Khả năng nói TA 0 1/28 18/28 7/28 2/28 3.36

4 Khả năng đọc TA 0 0 17/28 8/28 3/28 3.50

5 Khả năng viết TA 0 0 21/28 5/28 2/28 3.32

6 Dịch văn bản TA 0 2/28 19/28 6/28 1/28 3.21

Kết quả thống kê từ Bảng 1 cho thấy mức đánh giá trung bình của các giảng viên trẻ ngành GDMN về mức độ sử dụng ngoại ngữ đạt từ 3.21 đến 3.50 thể hiện mức độ “bình thường” trong việc sử dụng ngoại ngữ. Ngoài ra, tổng tỉ lệ GV phản hồi, lựa chọn ở hai mức độ “có thể” và

“hoàn toàn có thể” đối với việc sử dụng ngoại ngữ của mình đạt từ 1 GV đến 8 GV; trong khi đó mức độ “bình thường” có 14 GV đến 21 GV. Điều này cho thấy hầu hết các GV trẻ có mức độ sử dụng ngoại ngữ ở ngưỡng “bình thường”. Do đó, nhìn chung các GV trẻ đều có khả năng sử dụng ngoại ngữ.

Tuy nhiên, trong số các yếu tố trên về nội dung sử dụng ngoại ngữ, hai yếu tố cần được quan tâm nhất là “Giảng dạy bằng tiếng Anh” và “Khả năng nghe tiếng Anh”. Đây là hai yếu tố có tổng tỉ lệ GV phản hồi hai mức “không thể” và “hoàn toàn không thể”, cụ thể nội dung

“Giảng dạy bằng tiếng Anh” mức độ “hoàn toàn không thể” có 1 GV và “không thể” có 3 GV; nội dung “Khả năng nghe tiếng Anh” có mức độ “không thể” cs 4 GV. Như vậy, cho thấy rằng việc nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ của các giảng viên trẻ chuyên ngành GDMN là cần thiết.

2.3.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng học tiếng Anh của các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non

Bảng 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng học tiếng Anh của các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non

STT Yếu tố ảnh hưởng

Mức độ

ĐTB Thứ Nhiều Vừa bậc

phải

Không ảnh hưởng

1 Con còn nhỏ, chưa có thời gian học 16/28 9/28 3/28 2.46 2

2 Ngại không muốn học 4/28 24/28 0 2.14 4

3 Bản thân không có khả năng học

ngoại ngữ 2/28 17/28 9/28 1.75 6

4 Chương trình, tài liệu về TA mầm non còn hạn chế

8/28 13/28 7/28 2.04 5

(7)

112

5 Không tự tin vào bản thân 10/28 18/28 0 2.36 3

6 Không có môi trường sử dụng

thường xuyên 14/28 14/28 0 2.50 1

Qua số liệu Bảng 2 cho thấy, những yếu tố được các giảng viên đánh giá có ảnh hưởng lớn đế khả năng học tiếng Anh là “Không có môi trường sử dụng thường xuyên” (ĐTB = 2.50).

tiếng Anh ngoài học ngữ pháp ra thì còn cần luyện tập các kĩ năng và nếu đã là kĩ năng thì cần được trau dồi, luyện tập thường xuyên để nhớ và nâng cao khả năng bản thân. Việc không có môi trường sử dụng thường xuyên được các giảng viên cho rằng đó là yếu tố bất lợi cho việc nâng cao khả năng tiếng Anh. Tiếp theo, yếu tố “Con còn nhỏ, chưa có thời gian học” (ĐTB = 2.46). Điều này có thể lí giải hầu hết các giảng viên trẻ tập trung nhiều ở độ tuổi 25 – 35 tuổi, đây là độ tuổi sinh đẻ hoặc đang trong thời gian nuôi con nhỏ nên điều đó làm ảnh hưởng đến việc học tập của các thầy/cô giảng viên.

Những yếu tố có ảnh hưởng ít nhất đến việc học tiếng Anh của quý thầy/cô là “Chương trình, tài liệu về tiếng Anh mầm non còn hạn chế” (ĐTB = 2.04), “Bản thân không có khả năng học ngoại ngữ” (ĐTB = 1.75). Chương trình và tài liệu về tiếng Anh nói chung là nhiều, nhưng chương trình và tài liệu tiếng Anh về chuyên ngành Giáo dục mầm non vẫn còn hạn chế nên việc tìm kiếm vẫn còn những khó khăn làm cho khả năng tiếng Anh chuyên ngành chưa được nâng cao. Bên cạnh đó, không có ngoại ngữ hay khả năng ngoại ngữ chưa tốt cũng là yếu tố làm các thầy/cô không có niềm tin vào bản thân và cho rằng mình không có khả năng học.

Tóm lại, những yếu tố trên đã có những ảnh hưởng nhất định tới việc nâng cao khả năng học ngoại ngữ của các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non. Chính vì vậy, cần có những biện pháp để cải thiện, tạo điền kiện cho các giảng viên trẻ nhằm nâng cao năng lực ngoại ngữ của bản thân hơn.

2.3.2.4. Thực trạng các chính sách được sử dụng nhằm khuyến khích các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non nâng cao trình độ Tiếng Anh

Hình 2. Các chính sách, chương trình nhằm khuyến khích các giảng viên trẻ chuyên ngành Giáo dục mầm non nâng cao trình độ tiếng Anh

Hình 2 cho thấy các chính sách, chương trình nhằm khuyến khích các thầy/cô nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh đa phần là “Mở các khoa học miễn phí cho giảng viên” có 12/28

0 2 4 6 8 10 12 14

Mở các khóa học miễn phí cho GV Hỗ trợ kinh phí GV đi học TA Có quy đinh/yêu cầu bắt buộc giảng viên phải

sử dụng Tiếng Anh

Không có chính sách hay yêu cầu

Mở các khóa học miễn phí cho GV

Hỗ trợ kinh phí GV đi học TA

Có quy đinh/yêu cầu bắt buộc giảng viên phải sử dụng Tiếng

Anh

Không có chính sách hay yêu cầu

Số lượng 12 4 9 3

(8)

113 GV lựa chọn, điều này phần nào đã chứng tỏ rằng sự quan tâm của Trường, Khoa đến việc nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ giảng viên trẻ trong trường.

Bên cạnh đó, các trường cũng “Có quy định, yêu cầu bắt buộc giảng viên phải sử dụng tiếng Anh” (9/29 GV lựa chọn). Đất nước đang tăng cường hội nhập quốc tế và việc lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chung cho toàn thế giới không còn xa lạ, cho nên trên cương vị là giảng viên nói chung và giảng viên trẻ nói riêng thì việc các cơ sở đào tạo Cao đẳng, Đại học có yêu cầu đối với giảng viên về việc sử dụng tiếng Anh là điều bắt buộc.

“Hỗ trợ kinh phí cho giảng viên đi học tiếng Anh” (4/28 GV lựa chọn), đây có thể là các đề án đi học của Bộ hoặc của Trường nếu có những kinh phí dự phòng nhằm nâng cao trình độ của giảng viên; cụ thể trường Đại học Sư phạm Hà Nội có tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng giảng dạy chuyên ngành bằng tiếng Anh được chia làm hai giai đoạn (giai đoạn 1: Phương pháp giảng dạy tiếng Anh -TKT practical và giai đoạn 2: Ngôn ngữ chuyên sâu – TKT CLIL) trong mỗi giai đoạn sẽ có nhiều module khác nhau, giáo viên dạy là giáo viên nước ngoài.

2.3.2.5. Thời gian trong một ngày của các giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non nhằm nâng cao trình độ tiếng Anh.

Qua thống kê Bảng 3 và Hình 3 cho thấy thời gian sử dụng của các giảng viên trẻ nhằm nâng cao trình độ tiếng Anh tập trung nhiều ở mức 0 đến dưới 1 giờ mỗi ngày. Khảo sát luyện tập bốn kĩ năng tiếng Anh của giảng viên trong một ngày. Cụ thể:

Bảng 3. Thời gian trong một ngày sử dụng để nâng cao trình độ Tiếng Anh STT Nội dung 0 – dưới

1 giờ 1 – dưới

2 giờ 2 – dưới

3 giờ 3 – dưới 4 giờ

Từ 4 giờ

trở lên ĐTB Thứ bậc 1 Luyện nghe

tiếng Anh 11/28 11/28 4/28 2/28 0 1.89 2

2 Luyện nói tiếng Anh

15/28 8/28 4/28 1/28 0 1.68 3

3 Luyện đọc tiếng Anh

7/28 14/28 4/28 3/28 0 2.11 1

4 Luyện viết

tiếng Anh 16/28 8/28 3/28 1/28 0 1.61 4

Hình 3. Thời gian trong một ngày sử dụng để nâng cao trình độ Tiếng Anh

0 2 4 6 8 10 12 14 16 18

0 1 2 3 4 5 6

Luyện nghe Tiếng Anh Luyện nói Tiếng Anh Luyện đọc Tiếng Anh Luyện viết Tiếng Anh

(9)

114

Nhìn vào Hình 3, giảng viên dùng 1 đến dưới 2 giờ mỗi ngày để “Luyện đọc tiếng Anh”

(ĐTB = 2.11), tiếp theo là “Luyện nghe tiếng Anh” (ĐTB = 1.89) phần lớn giảng viên dành 0 đến dưới 2 giờ mỗi ngày để luyện tập, “Luyện nói tiếng Anh” (ĐTB = 1.68) và “Luyện viết tiếng Anh” (ĐTB = 1.61).

Phỏng vấn nhanh 18 giảng viên trẻ chuyên ngành giáo dục mầm non, có 16/18 giảng viên (chiếm 88,88%) cho rằng cần dành 4 giờ mỗi ngày cho việc luyện tập tiếng Anh, có 2/18 giảng viên (chiếm 11,11%) cho rằng chỉ cần 1 đến 2 giờ mỗi ngày cho việc luyện tập tiếng Anh là đủ.

Từ kết quả khảo sát trên, có thể nhận thấy đa phần các giảng viên trẻ đều nhận thức được rằng cần phải dành nhiều thời gian cho việc luyện tập tiếng Anh (từ 4 giờ trở lên) mới nâng cao được năng lực sử dụng tiếng Anh của mình.

2.4. Một số giải pháp nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ cho giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Việc nâng cao trình độ ngoại ngữ của giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non không thể nằm ngoài chiến lược, kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực giảng viên nói chung của các trường đại học. Sự khác biệt nằm ở chỗ các giảng viên trẻ sẽ là nòng cốt, là hạt nhân có ảnh hưởng lớn đến kết quả, hiệu quả của mục tiêu nâng cao trình độ ngoại ngữ nói chung vì họ có sức trẻ, nhiệt huyết, có điều kiện học tập, và quan trọng nhất, còn nhiều thời gian làm việc, học tập, rèn luyện và phấn đấu để trở thành những giảng viên chủ chốt của ngành giáo dục mầm non sau này. Để có thể đạt được mục tiêu xây dựng một đội ngũ giảng viên trẻ sử dụng tốt ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế cần phải thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ các biện pháp, trong đó trọng tâm là những biện pháp như sau:

Thứ nhất, các trường đại học và mỗi giảng viên cần nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy về yêu cầu nâng cao trình độ ngoại ngữ theo chủ trương của Đảng, Chính phủ. Theo đó, để tận dụng hiệu quả cơ hội cũng như vượt qua thách thức từ cách mạng công nghiệp 4.0, các trường đại học cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của ngoại ngữ cùng với sự thay đổi của thị trường việc làm; về sứ mạng của trường đại học nói chung trong chuẩn bị nguồn nhân lực bậc cao và tham gia tái cơ cấu thị trường lao động.

Thứ hai, tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về đào tạo. Hợp tác và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho giảng viên tham gia các chương trình trao đổi hoặc du học tại chỗ; cho phép giảng viên học hỏi phương pháp điều hành và giáo dục từ các trường đại học quốc tế và giúp đối tác hiểu về giáo dục ở Việt Nam; tạo ra các cơ hội hợp tác nghiên cứu khoa học xuyên quốc gia;

cải thiện chất lượng theo hướng tiếp cận tiêu chuẩn khu vực/quốc tế trong quản lí, đào tạo, nghiên cứu, đồng thời có thể tạo ra nguồn lao động cạnh tranh, vươn tới xuất khẩu lao động trình độ cao. Các hoạt động hợp tác quốc tế nên được định hướng và tổ chức từ cấp quản lí hàng đầu và mang tính kế hoạch ở quy mô toàn trường, chứ không chỉ là chức năng của phòng, ban Hợp tác quốc tế như hiện nay. Với tính tự chủ cao, ngành giáo dục mầm non nói riêng, các khoa trong trường đại học nói chung cần chủ động trong việc tổ chức các hình thức hợp tác và hội nhập quốc tế theo chiến lược do Ban Giám hiệu đề ra.

Thứ ba, các trường cần xây dựng chiến lược và các kế hoạch đổi mới mô hình, chương trình và phương thức đào tạo, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho giảng viên. Để nâng cao năng lực ngoại ngữ, các khoa, tổ bộ môn giáo dục mầm non cần chủ động tạo điều kiện cho giảng viên tham gia các lớp bồi dưỡng hàng năm do Nhà trường tổ chức, cùng với đó có cơ chế khuyến khích, động viên các giảng viên có khả năng tự tham gia các khóa học tại các trung tâm, tạo ra môi trường tự học ngoại ngữ bằng nhiều hình thức.

Tăng cường các hình thức đào tạo nâng cao trình độ cho giảng viên, trong đó tập trung đội ngũ giảng viên trẻ, cụ thể bao gồm: Chọn, cử giảng viên đủ tiêu chuẩn để đào tạo trình độ tiến sĩ, ưu tiên gửi giảng viên đi đào tạo ở các nước tiên tiến trên thế giới. Trong công tác tuyển sinh, các trường đại học cần được tự chủ, chủ động phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo trong toàn bộ quá trình tuyển sinh. Kinh phí cho việc đào tạo tại nước

(10)

115 ngoài sẽ được thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ giữa ngân sách nhà nước cấp, chi phí do Trường chi cho người học và chi phí khác do người học tự túc. Mặt khác, cần chọn lọc, đào tạo những sinh viên sư phạm giỏi, yêu nghề, có trình độ ngoại ngữ tốt để tạo nguồn nhân lực giảng viên cho các khoa, tổ bộ môn giáo dục mầm non.

Khi được đào tạo trở về nước, các giảng viên cần phát huy trình độ chuyên môn cao, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của khoa, tổ bộ môn và của nhà trường, là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế trong mọi hoạt động chuyên môn của nhà trường (trong hoạt động trao đổi và đào tạo giảng viên, trao đổi sinh viên; tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, phương pháp đào tạo; hợp tác nghiên cứu khoa học và công bố công trình nghiên cứu; tổ chức hội nghị hội thảo khoa học quốc tế; giao lưu trong nước ngoài nước, tham gia hội nghị hội thảo khoa học chuyên ngành trong và ngoài nước); xây dựng môi trường học thuật năng động, mới mẻ trong nhà trường; thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của Khoa và của Trường.

Thứ tư, có chính sách thu hút nhân tài, đặc biệt là cá nhân có trình độ tiến sĩ trở lên đang công tác ở các trường đại học nước ngoài hoặc đang làm việc ngoài các trường sư phạm có trình độ ngoại ngữ tốt hợp tác hoặc đến làm việc tại khoa, tổ bộ môn giáo dục mầm non các trường đại học; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho các tiến sĩ tham gia các hội thảo/hội nghị quốc tế, có thời gian nghiên cứu ở nước ngoài.

Thứ năm, thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao kĩ năng giao tiếp tiếng Anh cho giảng viên. Thành lập và tăng cường hoạt động của câu lạc bộ tiếng Anh, trong đó có câu lạc bộ tiếng Anh chuyên ngành giáo dục mầm non trong nhà trường nhằm giúp các giảng viên có cơ hội thực hành kĩ năng giao tiếp, có thêm cơ hội mở rộng các mối quan hệ, gặp gỡ, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho giảng viên tham gia nhằm nâng cao kĩ năng giao tiếp tiếng Anh, tạo cơ hội cho giảng viên được gặp gỡ, giao lưu với người nước ngoài. Thông qua đó, các giảng viên không chỉ có cơ hội thể hiện năng lực của bản thân, luyện kĩ năng nghe, nói mà còn có thêm hiểu biết về văn hóa của các quốc gia khác, học được cách ứng xử, cách trao đổi thông tin nhanh chóng, có hiệu quả. Việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên trẻ sẽ góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, khung năng lực theo quy định và đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, góp phần đưa khoa chuyên ngành nói riêng và các trường đại học nói chung vững bước trên con đường hội nhập và phát triển.

3. Kết luận

Trên đây, nhóm tác giả đã trình bày những vấn đề chung về năng lực sử dụng ngoại ngữ, những yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên các trường đại học ở Việt Nam và thực trạng về việc sử dụng ngoại ngữ của giảng vên trẻ ngành giáo dục mầm non trên địa bàn Hà Nội. Qua khảo sát, các giảng viên trẻ bước đầu đều nhận thức được tầm quan trọng của việc cần phải nâng cao trình độ tiếng Anh, cũng như đã nhìn nhận ra các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến khả năng học tiếng Anh (không có môi trường sử dụng thường xuyên, con nhỏ, không tự tin vào bản thân,…). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã đưa ra được một số gợi ý để nhằm giúp cán bộ giảng viên trẻ ngành giáo dục mầm non nâng cao được trình độ tiếng Anh (nâng cao nhận thức, tăng cường hợp tác hội nhập quốc tế, cần xây dựng chiến lược và các mô hình đào tạo nâng cao trình độ cho giảng viên,…). Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế đòi hỏi các cơ sở đào tạo và mỗi giảng viên phải không ngừng nỗ lực để từng bước nâng cao chất lượng, trình độ, trong đó đội ngũ giảng viên trẻ cần phát huy tính tiên phong, năng động, nhiệt huyết, tận dụng có hiệu quả các chính sách hỗ trợ và tích cực trau dồi bản thân để ngày càng hoàn thiện năng lực sử dụng ngoại ngữ, phục vụ tốt cho công tác đào tạo, giáo dục.

(11)

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1659/QĐ – TTg ngày 19 tháng 11 năm 2019, phê duyệt Đề án quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 – 2030.

[2] Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/01/2019, phê duyệt Đề án nâng cao năng lực độ ngũ giảng viên, cán bộ quản lí các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030.

[3] Klau Schwal, 2018. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Bộ Ngoại giao dịch và hiệu đính – Bộ Ngoại giao.

[4] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2017. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - thời cơ và thách thức đối với Việt Nam. Nxb Lí luận Chính trị, tr.12.

[5] Bùi Thị Nhật Tuyền, Lê Thị Diệu Nga, 2020. “Quá trình học nghe hiểu tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ trường Đại học Tiền Giang – khó khăn và biện pháp khắc phục”.

Tạp chí Giáo dục, Số 481 (Kì 1 – 7/2020), tr.34-37.

[6] Nguyễn Quang Việt, 2015. Đánh giá kết quả học tập theo năng lực trong đào tạo nghề, Luận án TS, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

[7] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 50/2020/TT – BGDĐT ngày 31/12/2020 của ban hành Chương trình làm quen với Tiếng Anh dành cho trẻ mẫu giáo.

[8] Lã Thị Bắc Lí, Bùi Thị Lâm, Trần Thị Thắm, 2020. “Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chuyên ngành Giáo dục mầm non ở các trường đại học, cao đẳng”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, số 65, tháng 11/2020.

[9] Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

[10] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

ABSTRACT

Improving capacity of using foreign language for young lecturers of preschool education to meet the requirements of international integration

Nguyen Thanh Huyen, Dang Ut Phuong and Dinh Lan Anh Faculty of Education, Hanoi Metropolitan University Along with the trend of increasing international integration, the 4.0 revolution is posing opportunities and challenges to the education of countries around the world. The use of foreign languages is an urgent need of university lecturers, serving many different purposes in profession as well as in life. This article focuses on analyzing the current state of foreign language proficiency of 28 young lecturers majoring in early childhood education at 4 universities and colleges in Hanoi. The quantitative and qualitative method combines with questionnaire and quick interview are applied in studying the issues related to the article. The findings show that the lecturers participating in the survey all realize the importance of using foreign languages; lecturers have an average level of foreign language use; the most influential factor on foreign language of lecturers is that there is no frequently using environment; schools have policies to encourage teachers to improve English skills; lecturer’s time using English is concentrated at 0 to less than 1 hour a day. From this situation, we recommend a number of solutions to contribute to enhancing the ability to use foreign languages for young lecturers of preschool education at a number of universities in Hanoi.

Keywords: foreign languages, use foreign languages, young lecturers in early childhood education, universities.

Referensi

Dokumen terkait

Một Số nghiên cứuchỉ rarằng thứtựsinh trẻ,trìnhđộ học vấn, hành vi sử dụng thiết bị điện tử của người trông trẻ có liên quan tới hành vi sử dụng thiết bị giải trí điệntửkhi ăncủa trẻ

chothấy, 15,9% điều dường đồng ý quan điểm Bảng 3 cho rằngchịu bạo lực là một phầncủa cộng việc, nhân viên y t điều dui tế cũng dưỡng cho rằngnhânviêny tế chưa có đủkiếnthức và

Quá trình thành lập Atlat giáo khoa địa lí tỉnh Hà Giang được tiến hành theo các bước: xác định mục đích thành lập, xây dựng bố cục Atlat, đánh giá nguồn tư liệu, xây dựng hệ thống nội

Dựa vào việc tính toán các số liệu quan trắc trong 30 năm, từ 1986 đến 2015 tại 10 trạm khí tượng bao gồm: trạm Nam Định, trạm Văn Lí, trạm Ninh Bình, trạm Hà Nam, trạm Thái Bình, trạm

Dựa trên số mẫu điều tra 356 thành viên tham gia vay vốn, kết quả nghiên cứu cho thấy các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tài chính vi mô thông qua các tổ Tiết kiệm và vay

KINH TẾ - XÃ HỘI Kyø I - 9/2021 24 nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, chế tạo bộ KIT phát hiện SARS- CoV-2, xây dựng phác đồ điều trị đối với từng chủng virus; tiến hành nghiên cứu,

Theo đó, trong thời gian tới, nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới sẽ được xây dựng như: Luật Xử lý nợ xấu, Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính

Tại Philippines, chỉ gần một tháng sau khi mở cửa biên giới, nước này đã thu hút 47,7 nghìn khách du lịch, trong đó 45% người Philippines sống ở nước ngoài và 55% là du khách quốc tế,