• Tidak ada hasil yang ditemukan

NẸP KHOÁ: MỘT LỰA CHỌN ĐIỀU TRỊ GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI LOẠI A2 THEO PHÂN LOẠI AO

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "NẸP KHOÁ: MỘT LỰA CHỌN ĐIỀU TRỊ GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI LOẠI A2 THEO PHÂN LOẠI AO"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

NẸP KHOÁ: MỘT LỰA CHỌN ĐIỀU TRỊ

GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI LOẠI A2 THEO PHÂN LOẠI AO

Đỗ Phước Hùng1, Dương Thanh Bình2

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo phân loại AO hiện chưa có quan điểm thống nhất trong điều trị.

Mục tiêu: Đánh giá kết quả sử dụng nẹp khóa cho loại gãy A2 (AO) kèm phục hồi trụ sau.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiền cứu mô tả hàng loạt ca, 26 trường hợp gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 vào viện tại khoa Chấn thương chỉnh hình bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh từ 03/2019 đến tháng 04/2020.

Kết quả: Tuổi trung bình 70,6 ± 16,0 (32 - 90), nữ 65,4%, A2.3 46,3%; A2.2 30,8% và A2.1 23,1%. 2/26 trường hợp tử vong sau mổ do bệnh lý nội khoa được loại trừ. Tỉ lệ lành xương 24/24, góc cổ thân giảm trung bình 3,8 ± 7,30 (p=0,1303 >0,05), 1/24 huỷ vỏ cổ chỏm. 20/24 bệnh nhân (83,4%) có điểm Harris - Hip ở mức

“Tốt” hoặc “Rất tốt”, Điểm hệ số chất lượng cuộc sống trung bình là 0,89 ± 0,11 (0,65 - 1,00).

Kết luận: Kết hợp xương nẹp khóa kèm phục hồi trụ sau trong cho gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 an toàn, biến chứng thấp, tỉ lệ liền xương cao, phục hồi chức năng nhanh.

Từ khóa: gãy đầu trên xương đùi, nẹp khóa

ABSTRACT

LOCKING PLATE AN ALTERNATIVE FOR TREATENT OF AO TYPE A2 PROXIMAL FEMORAL FRACTURE

Do Phuoc Hung, Duong Thanh Binh

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 72 - 79 Background: There is currently no consensus on treatment of AO type A2 proximal femoral fracture.

Determining the implant should be used is still controversial.

Objectives: To determine the effectiveness of using locking plate with fixed lesser trochanter for the treatment of this type of fracture. Using locking plate with fixed lesser trochanter would possibly be an alternative for treatment of the fracture

Method and materials: 26 cases were involved in the study at the Department of Orthopedic in Tra Vinh General Hospital from 03/2019 to 04/2020. Locking plate with three screws for proximal head of femur was used.

The lesser trochanter was fixed with screw or wire.

Results: Our sample had the average age of 70.6 ± 16.0 (32-90), with female accounting for 65.4%. In our sample, type A2.3, A2.2 and A2.1 fractures accounted for 46.3%; 30.8% and 23.1%, respectively 2/26 postoperative deaths due to comorbidity were excluded. Bone healing rate was 24/24, neck and body angle decreased on average 3.8 ± 7.30 (p = 0.1303 >0.05). The cut-out was found in one case. 20/24 patients (83.4%) had a Harris-Hip score of “Good” or “Very good”, mean of the quality of life score was 0.89 ± 0.11 (0.65 – 1.00).

Conclusion: Combination of locking plate and fixation of lesser trochanter for AO type A2 proximal femoral fracture resulted in good bone healing, fast functional recovery and low rate of complications.

(2)

Key words: proximal femoral fracture, locking plate

ĐẶT VẤN ĐỀ

Gãy liên mấu chuyển xương đùi là loại gãy ngoài khớp gặp ở mọi lứa tuổi, thường nhất là ở những bệnh nhân lớn tuổi sau một chấn thương nhẹ do tai nạn sinh hoạt và đa số có loãng xương hoặc bệnh lý nội khoa đi kèm. Hiện có nhiều phương pháp điều trị, mỗi phương pháp đều có những ưu, khuyết điểm.

Gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo phân loại AO là kiểu gãy phức tạp, đường gãy lan đến trụ sau trong, nơi xuất phát bè xương chịu lực nén ép chính (gọi là cung Adam) có khả năng chịu tải trọng cao gấp 2 - 3 lần trọng tải cơ thể. Đây là kiểu gãy không vững. Gần đây các nghiên cứu ứng dụng nẹp khóa trong điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi cho thấy kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên một số các tác giả cho rằng nẹp vít khóa không thích hợp để điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 vì gặp tỉ lệ gập góc cổ thân thứ phát dẫn đến thất bại trong điều trị do không phục hồi trụ sau trong(1,2). Vậy điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi cho loại mất vững trụ sau trong (A2) với dụng cụ nẹp vít khóa + phục hồi cột sau trong có thật sự mang lại hiệu quả điều trị cho người bệnh?

Mục tiêu

Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A-2 theo phân loại AO bằng nẹp ốc vít khóa.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu

Tất cả các bệnh nhân (BN) gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo phân loại AO nhập viện tại khoa Chấn thương chỉnh hình bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh từ 03/2019 đến tháng 04/2020.

Tiêu chuẩn chọn bệnh Gãy kín, mới (<3 tuần).

Bệnh nhân trên 18 tuổi, đồng ý phẫu thuật tham gia nghiên cứu.

Không có bệnh lý nội khoa chống chỉ định phẫu thuật.

Tiêu chuẩn loại trừ

Có nhiễm trùng da vùng dự định mổ.

Gãy xương bệnh lý.

Gãy xương vị trí khác ở chi dưới cùng bên hoặc khác bên.

Liệt vận động cùng bên, hoặc đối bên.

Gãy xương có biến chứng; sốc chấn thương, tắc mạch máu do mở, tổn thương thần kinh, mạch máu.

Tử vong được xác nhận do các nguyên nhân khác không liên quan đến phẫu thuật trước thời điểm 4 tháng sau mổ.

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt ca.

Tiêu chuẩn đánh giá Phục hồi giải phẫu

Đo và so sánh góc cổ thân trên phim X quang sau phẫu thuật, sau mổ 1 tháng, 3 tháng và thời điểm liền xương.

Phục hồi chức năng

Đánh giá theo thang điểm Harris Hip Score(3): Xấu: HHS <70 điểm, Trung bình: HHS 70-79 điểm, Tốt: HHS 80-89 điểm, Rất tốt: 90-100 điểm.

Đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh theo thang điểm đo lường chất lượng cuộc sống, sử dụng bộ câu hỏi EQ-5D-5L - phiên bản tiếng Việt(4); Tốt: Hệ số CLCS = 1, Khá: 0,8 < Hệ số CLCS <1, Trung bình: 0,7< Hệ số CLCS ≤0,8, Kém: Hệ số CLCS ≤0,7

Biến chứng

Ghi nhận các biến chứng sớm tại chổ, biến chứng sớm toàn thân và các biến chứng muộn Kỹ thuật kết xương

Mở nắn. Sử dụng nẹp khoá có từ 7-13 lỗ. Có 3 lỗ vít gắn vào đoạn gãy gần : vít 1 tạo góc vít-

(3)

nẹp 950 , vít2 1200, vít 3 1350. Các vít còn lại là vít của thân xương (Hình 1).

Phục hồi trụ sau trong

Trước khi nắn chỉnh ổ gãy xác định vị trí của mãnh gãy trụ sau trong dưới màng tăng sáng.dùng móc xương kéo, nắm giử và sau đó

luồn chỉ thép qua mãnh gãy này. Nắn chỉnh và kết xương ổ gãy chính thức. Sau đó xoay ngoài bàn chân, dùng móc xương hoặc banh Hoffmann nâng áp mãnh gãy vào vị trí giải phẫu và xoắn chỉ thép để cố định.

Xquang trước mổ Hình chiếu C-arm trong lúc mổ

Xquang ngay sau mổ Xquang sau mổ 4 tháng

Hình 1: Gãy A2 theo phân loại AO, trước, trong và sau mổ Săn sóc sau mổ

Vận động sớm tại giường. Chỉ được phép chống chân gãy từ tuần thứ 4 trở đi tuỳ từng trường hợp cụ thể. Bỏ dụng cụ trợ giúp đi sau 4- 6 tháng.

Y đức

Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số: 707/HĐĐĐ ngày

KẾT QUẢ

Tuổi và giới

Bảng 1: Phân bổ bệnh nhân nghiên cứu theo nhóm tuổi, giới tính (n=26)

Giới tính Tuổi

Nam (n=9) Nữ (n=17) Cộng (n=26)

n % n % n %

<60 tuổi 5 55,5 1 5,9% 6 23,1

≥ 60tuổi 4 44,5 16 94,1 20 76,9 Tổng 9 34,6 17 65,4 26 100,0

± SD 60,8 ± 21,5 75,8 ± 9,5 70,6 ± 16,0

(4)

(min - max)

Bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có tuổi trung bình là 70,6 ± 16,0 tuổi (32 - 90 tuổi).

Độ tuổi từ 60 trở lên chiếm 76,9%. Nữ giới chiếm 65,4% (Bảng 1).

Loại gãy theo phân loại AO

Số bệnh nhân gãy xương loại A2 phân bố không đều ở các nhóm, trong đó loại A 2.3 chiếm tỷ lệ cao nhất là 46,3%; loại A 2.2 chiếm 30,8% và loại A 2.1 chiếm tỷ lệ thấp nhất là 23,1%.

Bệnh nội khoa kèm theo

Đa số bệnh nhân có bệnh nội khoa mãn tính đi kèm với tỷ lệ 23/26 bệnh nhân (88,5%). Chủ yếu là nhóm bệnh tim mạch, 14/26 bệnh nhân (53,8%) có các bệnh nội khoa khác (lao phổi, tai biến mạch máu não, suy thận mạn) kèm theo.

Theo tiêu chuẩn ASA, có 3 bệnh nhân ASA I, 18 bệnh nhân ASA II, 5 bệnh nhân ASA III (Bảng 2).

Bảng 2: Bệnh nội khoa kèm theo

Bệnh lý nội khoa Số trường hợp (n) Tỷ lệ (%)

Không có bệnh nội khoa 3 11,5

Cao huyết áp 16 61,5

Suy tim 6 23,1

Đái tháo đường 5 19,2

Thiếu máu cơ tim 11 42,3

Rối loạn lipid máu 4 15,4

Bệnh khác 14 53,8

Thời gian theo dõi

Theo dỏi trung bình 8,5 ±2,1 tháng, (5-13 tháng). Có 2 trường hợp thuộc tiêu chuẩn loại trừ do bệnh nhân tử vong tại nhà sau khi ra viện 2 tháng và 4 tháng do nguyên nhân nội khoa.

Kết quả phục hồi giải phẫu

Tỷ lệ liền xương và phục hồi trụ sau trong 24/24 bệnh nhân (100%) đạt liền xương ổ gãy và liền xương trụ sau trong; trong đó 20/24 bệnh nhân (83,3%) liền xương trụ sau trong đúng vị trí giải phẫu và 4/24 bệnh nhân (16,7%) liền xương trụ sau trong không đúng vị trí giải phẫu.

Phục hồi góc cổ thân xương đùi

Chúng tôi tiến hành đối chiếu gốc cổ thân chân bệnh so với chân lành ở thời điểm sau mổ

nhận thấy giảm trung bình 0,8 ± 0,50 (p=0,076

>0,05). Thời điểm sau mổ 3 tháng góc cổ thân giảm 3,0 ± 6,80 so với góc cổ thân sau mổ (p=0,102 >0,05), thời điểm liền xương góc cổ thân giảm trung bình 3,8 ± 7,30 so với với thời điểm sau mổ (p=0,1303 >0,05).

Kết quả phục hồi chức năng

Thời gian nằm viện sau mổ của BN chúng tôi trung bình 6,1 ± 1,7 ngày (4 - 12 ngày).

Tập ngồi và rời giường bệnh tại viện: 92,3%

có thời gian ngồi thụ động từ 1 - 3 ngày sau mổ, thời gian trung bình của ngồi thụ động là 2,8 ± 0,7 ngày (1 - 4 ngày). Về ngồi chủ động, 92,3%

cần 4 - 7 ngày sau mổ, trung bình là 5,2 ± 1,2 ngày (2 - 7 ngày). 77,0% bệnh nhân rời gường trong khoảng thời gian từ 4 - 7 ngày sau mổ, trung bình 2,8 ± 0,7 ngày (2 - 8 ngày) (Bảng 3).

Bảng 3: Tự ngồi, rời giường bệnh và đi tì chân bệnh

1 tháng (n=17)

3 tháng (n=16)

Liền xương (n=24) Tự ngồi Có 17 (100,0%) 16 (100,0%) 24 (100,0%)

Không 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) Rời giường

bệnh

Có 17 (100,0%) 16 (100,0%) 24 (100,0%) Không 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) Đi tì

chân bệnh

11 (64,7%) 16 (100,0%) 24 (100,0%) Không 6 (35,3%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) Tổng 17 (100,0%) 12 (100,0%) 24 (100,0%)

Thời gian tập luyện của bệnh nhân sau khi ra viện rất quan trọng, sự tự giác của bản thân người bệnh và sự giúp đỡ của người thân có giá trị quyết định đến kết quả phục hồi chức năng của bệnh nhân. Tuy nhiên, có 3 bệnh nhân e ngại tập luyện nên cần có sự giúp đỡ của người nhà và nhân viên y tế.

Kết quả phục hồi chức năng theo thang điểm Harris – Hip

Bảng 4: Phân loại điểm Harris - Hip ở thời điểm kết thúc nghiên cứu (n=24)

Phân loại điểm Harris - Hip Số trường

hợp (n) Tỷ lệ (%) Rất tốt (90 - 100 điểm) 10 41,7

Tốt (80 - 90 điểm) 10 41,7

Trung bình (70 - 79 điểm) 3 12,5

Xấu (<70 điểm) 1 4,1

Tổng 24 100,0

(5)

Phân loại điểm Harris - Hip Số trường

hợp (n) Tỷ lệ (%) ± SD (min - max) 86,6 ± 9,1 (61 - 100)

Ở thời điểm kết thúc nghiên cứu, 20/24 bệnh nhân (83,4%) có điểm Harris - Hip ở mức “Tốt”

hoặc “Rất tốt”, có 3/24 bệnh nhân (16,6%) ở mức trung bình, và 1/24 bệnh nhân (4,1%) ở mức

“Xấu”. Điểm Harris - Hip trung bình là 86,6 ± 9,1 điểm (61 - 100 điểm) (Bảng 4).

Chất lượng cuộc sống

Điểm hệ số chất lượng cuộc sống trung bình là 0,89 ± 0,11 (0,65 - 1,00 điểm). Đa số bệnh nhân có chất lượng cuộc sống tốt 8/24 (33,3%), khá 11/24 (46,8%), trung bình 4/24 (16,7%), xấu 1/24 (4,2%) (Bảng 5).

Bảng 5: Điểm số chất lượng cuộc sống (n=24)

Số trường

hợp (n) Tỷ lệ (%) Đi lại

Không khó khăn 10 41,7

Hơi khó khăn 10 41,7

Khá khó khăn 4 16,6

Tự chăm sóc

Không khó khăn 18 75,0

Hơi khó khăn 6 25,0

Sinh hoạt thường lệ

Không khó khăn 19 79,2

Hơi khó khăn 4 16,7

Khá khó khăn 1 4,1

Đau/ Khó chịu

Không đau 15 62,5

Hơi đau 9 37,5

Lo lắng/ U sầu

Không lo lắng 19 79,2

Hơi lo lắng 5 20,8

Biến chứng

Biến chứng sớm tại chỗ: 1/26 bệnh nhân (3,8%) ghi nhận biến chứng nhiễm trùng vết mổ (nhiễm trùng nông). Trường hợp này xử trí ổn với chăm sóc vết mổ và kháng sinh điều trị.

Không ghi nhận trường hợp chảy máu vết mổ Biến chứng sớm toàn thân: Không ghi nhận các biến chứng toàn thân đe dọa tính mạng người bệnh, có 13/26 bệnh nhân (50,0%) ghi nhận mất máu sau mổ qua ống dẫn lưu, kiểm tra huyết đồ. Các bệnh nhân này được bù máu kịp thời đều ra viện. Lượng máu truyền phổ biến là 250 ml. Trung bình số máu cần truyền 154 ± 143 ml/bệnh nhân.

Biến chứng liên quan đến dụng cụ kết hợp

trí vít số 2, không ghi nhận trường hợp nào gãy dụng cụ.

Biến chứng muộn liên quan đến quá trình phục hồi: Có 1/24 bệnh nhân (4,2%) bị hủy vỏ cổ - chỏm xương đùi (Cut - out) dẫn đến gập gốc cổ thân 35o ở bệnh nhân nữ 90 tuổi.

BÀN LUẬN

Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Mẫu của chúng tôi tương đồng với một số tác giả khác về tuổi và giới. Nghiên cứu của Uzun M có 27 bệnh nhân gãy không vững liên mấu chuyển xương đùi loại A2 (AO) với độ tuổi trung bình là 71 (62 - 111 tuổi), tỷ lệ nữ là 65,7%(5). Setiobudi T ghi nhận tuổi trung bình của 78 bệnh nhân gãy không vững liên mấu chuyển xương đùi là 76,4 ±11,7 tuổi, nữ giới chiếm 62,8%(6), Gadegone MW nghiên cứu trên 82 bệnh nhân gãy liên mấu chuyển xương đùi phân loại A2, A3 (AO) có tuổi trung bình là 66 tuổi (58 - 81 tuổi) có tỷ lệ nữ là 51,2%(7).

Bệnh nội khoa kèm trên bệnh nhân gãy liên mấu chuyển xương đùi được ghi nhận trên các nghiên cứu trước chủ yếu là các bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, tim mạch và một số bệnh khác (xơ gan, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, lao phổi tiến triển, rối loạn tâm thần tuổi già)(8,9). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với kết quả nghiên của các tác giả khác.

Phục hồi giải phẫu

Một số tác giả khi sử dụng nẹp khóa cho gãy LMC loại A2 không phục hồi trụ sau trong có tỷ lệ liền xương thấp như Zhong B (2014) 10/14 trường hợp liền xương(2); Collinge CA (2016) chỉ có 65/111 (58,6%) liền xương(1).

Có thể nói khi đã phục hồi trụ sau trong chúng tôi đã phục hồi tương đối hoàn chỉnh về mặt giải phẫu vùng mấu chuyển xương đùi, giúp xương liền lại như loại gãy vững.

Thời điểm sau mổ 3 tháng góc cổ thân giảm 3,0 ± 6,80 so với góc cổ thân sau mổ (p=0,102>0,05), thời điểm liền xương góc cổ thân giảm trung bình 3,8 ± 7,30 so với thời điểm sau mổ (p=0,1303>0,05). Kết quả này cho thấy kết

(6)

quả phẫu thuật sử dụng nẹp khóa của chúng tôi có khả năng duy trì ổn định góc cổ thân cho đến khi liền xương.

Kết quả của chúng tôi phù hợp với một số tác giả khác; Kovalaka E góc cổ thân giảm trung bình là 3,1° ± 2,16° đối với nhóm gãy liên mấu chuyển (LMC) loại A2(10), Hossain MM phục hồi góc cổ thân 133,58o, không có sự khác biệt với góc cổ thân bên lành(11).

Tuy nhiên một số tác giả khác khi sử dụng nẹp khóa cho loại gãy LMC thì không duy trì được góc cổ thân; Zhong B (2014) 5/14 (35,7%) bệnh nhân gãy loại A2 gập góc cổ thân(2), Collinge CA (2016) có 18/111 (16,2%) gập góc cổ thân thứ phát(1).

Sự khác biệt này do đa số các tác giả sử dụng nẹp khóa cho loại gãy A2 là loại gãy không vững, chỉ quan tâm phục hồi trụ ngoài và sự phân tán lực qua các vít cổ chỏm mà không khôi phục trụ sau trong nơi có cung Adam chịu lực tì nén, dẫn đến khuyết về mặt hình thái giải phẫu, về sinh cơ học vùng mấu chuyển nên dẫn đến gập góc cổ thân thứ phát(1). Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả các trường hợp đều phục hồi trụ sau trong, qua đó phục hồi cấu trúc giải phẫu, phục hồi sinh cơ học vùng mấu chuyển kết hợp hướng dẫn bệnh nhân chống tì đè chân đau theo từng giai đoạn của bệnh nên góc cổ thân được duy trì. Kovalaka E, Hossain MM cũng có cùng kết quả như chúng tôi(10,11). Chúng tôi cho rằng cung cấp dụng cụ kết hợp xương có cấu trúc ổn định vế mặt cơ sinh học cũng chỉ là yếu tố cần thiết nhưng chưa đủ để duy trì góc cổ thân mà còn cần phải phục hồi toàn vẹn cấu trúc giải phẫu. Ngoài ra chất lượng xương của người bệnh cũng là một yếu tố quan trọng cần lưu ý.

Vai trò của phục hồi trụ sau trong (mấu chuyển bé)

Kovakalav E (2017) cho rằng việc phục hồi mấu chuyển lớn và mấu chuyển bé trong gãy không vững xương đùi phải được tiến hành đồng thời nhằm giúp tăng cường liên kết xương và duy trì sự ổn định của xương đùi, giảm tỷ lệ thất bại(10). Tỷ lệ biến chứng muộn trong nghiên

cứu của chúng tôi thấp hơn so với các nghiên cứu trước. Có thể lý giải vấn đề này là do chúng tôi chú trọng đến việc phục hồi cả trụ sau trong khi phẫu thuật kết hợp xương. Việc phục hồi bằng chỉ thép kết hợp với vít bổ sung (khi có mảnh gãy lớn) thực hiện đơn giản nhưng rất hữu ích đảm bảo giảm đáng kể trong sụp đổ quá mức và sau đó giảm chênh lệch chiều dài chi. Nó tạo ra một cấu trúc ổn định về mặt sinh học và trên hết mang lại sự vượt trội về phục hồi chức năng, tránh biến chứng muộn.

Chúng tôi khi thực hiện kết hợp xương nẹp khóa kèm phục hồi trụ sau trong cho loại gãy liên mấu chuyển xương đùi loại A2 theo phân loại AO ghi nhận tỉ lệ lành xương 100%, tỉ lệ gập góc cổ thân thứ phát không có ý nghĩa thống kê, không gặp biến chứng, thất bại do dụng cụ, không ghi nhận các biến chứng do nằm lâu. Qua đó chúng tôi nhận thấy rằng việc phục hồi trụ sau trong đóng vai trò quan trọng trong ổn định ổ gãy, giúp bệnh liền xương, khắc phục các biến chứng do dụng cụ, gập góc cổ thân thứ phát, nhanh chóng phục hồi chức năng, cải thiện chất lượng cuộc sống sau gãy liên mấu chuyển mất vững loại A2 của phân loại AO.

Phục hồi chức năng

Với kết quả phục hồi chức năng thu được cho thấy sử dụng nẹp khóa đã ổn định ổ gãy, giúp giảm đau và cho phép người bệnh vận động sớm tại giường, tập rời giường bệnh, giúp phòng tránh được các biến chứng do nằm lâu.

Kết quả này phù hợp với của Asif N (2016) ghi nhận phân bố điểm Harris Hip trên bệnh nhân gãy không vững kết hợp xương bằng nẹp vít khóa sau 12 tháng điều trị: 88% có điểm “Rất tốt” hoặc “Tốt”, 4% ở mức “Trung bình” và 8% ở mức “Xấu”(12).

Chất lượng cuộc sống

Gjertsen JE (2016)(13) nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi tại Na Uy, sử dụng bộ công cụ EQ-5D. Kết quả sau 12 tháng

Về đi lại: Không gặp khó khăn khi đi lại là

(7)

31,0%; Có khó khăn khi đi bộ là 65,8% và không thể đi bộ là 3,2%.

Về tự chăm sóc: 59,3% không khó khăn gì khi tự tắm rửa hay khi tự mặc quần áo, 31,4%

hơi khó khăn, 9,3% không thể tự tắm rửa, mặc quần áo.

Về sinh hoạt thường lệ: 33,1% không khó khăn; 43,7% hơi khó khăn, 9,3% không thể thực hiện các sinh hoạt thường lệ.

Về đau/ khó chịu: 34,2% không đau hay không khó chịu; 58,7% hơi đau hay hơi khó chịu, 7,0% cực kỳ đau/cực kỳ khó chịu.

Về lo lắng/ u sầu: 63,4% không lo lắng hay không u sầu; 33,0% hơi lo lắng hay hơi u sầu và 3,5% rất lo lắng/rất u sầu.

Griffin XL (2015)(14) nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân gãy liên mấu chuyển xương đùi tại Vương quốc Anh. Điểm số (EQ- 5D) ở thời điểm 12 tháng là 0,55 điểm. Chất lượng của cuộc sống không cải thiện đáng kể trong quá trình phục hồi sau gãy xương hông ở bệnh nhân trên 80 tuổi tuổi (p=0,928).

Như vậy, có thể thấy, điểm số chất lượng cuộc sống của bệnh nhân chúng tôi là tốt hơn so với nghiên cứu của các tác giả ở trên. Câu hỏi đặt ra là dường như có sự mâu thuẩn khi kỹ thuật điều trị của các tác giả trên tốt hơn do được thực hiện ở các nước có nền y học phát triển hơn của chúng tôi, nên bệnh nhân của họ được chăm sóc tốt hơn từ lúc nhập viện cho đến xuất viện nhưng tại sao điểm số chất lượng cuộc sống lại thấp hơn? Có thể lý giải điều này là do sự khác biệt lớn về đặc điểm nhân khẩu học, điều kiện kinh tế, xã hội. Bệnh nhân cao tuổi của chúng tôi hầu hết đều sinh sống với người thân (con, cháu), đa số sinh sống ở nông thôn, gần gũi với láng giềng nên họ luôn nhận được sự chăm sóc, động viên, hỗ trợ về tinh thần của người thân, cộng đồng. Họ cũng cảm thấy an tâm, ít lo lắng hơn.

Biến chứng

Chúng tôi không ghi nhận viêm tắc tĩnh mạch sâu; huyết khối động mạch, tĩnh mạch và

sự bùng phát của các bệnh lý nội khoa đi kèm ngay sau mổ. 100% bệnh nhân của chúng tôi an toàn ra viện. Có thể nói kết hợp xương bằng nẹp khóa là phẫu thuật tương đối an toàn, biến chứng thấp nếu được chuẩn bị đầy đủ trước mổ, kể cả có bệnh lý nội khoa đi kèm.

Không có bệnh nhân bị viêm xương, không liền xương, hoại tử chỏm xương đùi hoặc gãy lại.

Setiobudi T 3/78 bệnh nhân (3,8%) bị phá hủy vỏ cổ chỏm xương đùi (cut out)(6). Asif N ghi nhận tỷ lệ nhiễm trùng sâu sau mổ là 1/27 trường hợp (3,7%), 3/27 trường hợp (11,1%) bị vỡ vít cổ chổm dẫn đến sụp góc cổ thân xương đùi, xảy ra ở những bệnh nhân không tuân thủ hướng dẫn trong quá trình phục hồi chức năng và xương đùi sớm chịu tải nặng trước 8 tuần(12).

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

Kết quả phục hồi giải phẫu

Kết hợp xương nẹp khóa kèm với phục hồi trụ sau trong giúp bệnh đạt tỉ lệ liền xương cao;

100% bệnh nhân liền xương, góc cổ thân thời điểm liền xương thay đổi không có ý nghĩa thống kê. Phục hồi trụ sau trong là yếu tố giúp ổn định góc cổ thân

Kết quả phục hồi chức năng

100% bệnh nhân phục hồi các chức năng như tự ngồi, rời giường bệnh, đi tì chân đau ở các thời điểm 3 tháng sau mổ, liền xương. Thang điển Harris - Hip chúng tôi có 20/24 bệnh nhân (83,4%) ở mức “Tốt” hoặc “Rất tốt”, có 3/24 bệnh nhân (16,6%) ở mức trung bình, và 1/24 bệnh nhân (4,1%) ở mức “Xấu”. Chất lượng cuộc sống của người bệnh sau mổ đạt; tốt, khá 19/24 (79,1%), trung bình 4/24 (16,7%), xấu 1/24 (4,2%).

Đa số bệnh nhân đều tự đi lại, tự chăm sóc, thực hiện các hoạt động sinh hoạt, ít đau, ít cảm thấy lo lắng/u sầu.

Tỷ lệ tai biến, biến chứng của phương pháp điều trị

Phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp khóa là phẫu thuật tương đối an toàn, biến chứng thấp:

(8)

13/26 (50%) trường hợp cần bổ sung máu trong - sau mổ, trung bình 154 ± 143 ml/trường hợp.

Biến chứng sớm 3,8% nhiễm trùng vết mổ nông.

Biến chứng muộn: 8,3% bị tụt vít, 4,2% bị hủy vỏ cổ - chỏm xương đùi, 4,2% bị gập gốc cổ thân 350 do hủy cổ chỏm xương đùi. Không có trường hợp bị viêm xương, không liền xương, hoại tử hoặc gãy lại. Không có bệnh nhân tử vong do phẫu thuật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Collinge CA, Hymes R, Archdeacon M, Streubel P, et al (2016).

Unstable Proximal Femur Fractures Treated With Proximal Femoral Locking Plates: A Retrospective, Multicenter Study of 111 Cases. J Orthop Trauma, 30(9):489-495.

2. Zhong B, Zhang Y, Zhang C, et al (2014). A comparison of proximal femoral locking compression plates with dynamic hip screws in extracapsular femoral fractures. Orthop Traumatol Surg Res, 100(6):663-668.

3. Harris WH (1969). Traumatic arthritis of the hip after dislocation and acetabular fractures: treatment by mold arthroplasty. An end-result study using a new method of result evaluation. J Bone Joint Surg Am, 51:737–755.

4. Vu Quynh Mai, Sun S, Minh HV, Luo N, Giang KB, Lindholm L, Sahlen KG (2020). An EQ-5D-5L Value Set for Vietnam.

Quality of Life Research, 29(7):1923-1933.

5. Uzun M, Erturer E, and Ozturk I, et al (2009). Long-term radiographic complications following treatment of unstable intertrochanteric femoral fractures with the proximal femoral nail and effects on functional results. Acta Orthop Traumatol Turc, 43(6):457-463.

6. Setiobudi T, Ng YH, Lim CT, Liang S, et al (2011). Clinical outcome following treatment of stable and unstable

intertrochanteric fractures with dynamic hip screw. Ann Acad Med Singapore, 40(11):482-487.

7. Gadegone MW, Shivashankar B, and Lokhande V, et al (2017).

Augmentation of proximal femoral nail in unstable trochanteric fractures. SICOT J, 3:12.

8. Nguyễn Huy Thành (2018). Đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng kết hợp xương nẹp khóa tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Luận văn Chuyên khoa II, Trường Đại học Y Hà Nội.

9. Lê Quang Trí (2015). Điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi người già bằng khung cố định ngoài. Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.

10. Kovalaka E, Ermutlub C, and Ataya T, et al (2017). Management of unstable pertrochanteric fractures with proximal femoral locking compression plates and affect of neck-shaft angle on functional outcomes. Journal of Clinical Orthopaedics and Trauma, 8(3):209-214.

11. Hossain MM, Alam QS, Quashem FH, Noman MTI (2014).

Evaluation of the Outcome of Proximal Femoral Locking Compression Plate. J Dhaka Med Coll, 23(2):179-185.

12. Asif N, Ahmad S, and Qureshi OA, et al (2016). Unstable Intertrochanteric Fracture Fixation – Is Proximal Femoral Locked Compression Plate Better Than Dynamic Hip Screw, Journal of Clinical and Diagnostic Research, 10(1):RC09-RC13.

13. Gjertsen JE, Baste V, Fevang JM, Furnes O, Engesæter LB (2016).

Quality of life following hip fractures: results from the Norwegian hip fracture register. BMC Musculoskelet Disord, 17:265

14. Griffin XL, Parsons N, Achten J, Fernandez M, Costa ML (2015).

Recovery of health-related quality of life in a United Kingdom hip fracture population. Bone Joint J, 97:372-82.

Ngày nhận bài báo: 30/11/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 13/01/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

Referensi

Dokumen terkait